Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Skkn tạo hứng thú học tập cho học sinh thông qua dạy tiết 2, bài biến cố và xác suất của biến cố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 16 trang )

1.MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang tập trung cho cải cách giáo dục,
trong đó có một phần quan trọng là cải tiến phương pháp giảng dạy. Nghị quyết
hội nghị lần II Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII nêu rõ: “ Đổi mới phương
pháp Giáo dục Đào tạo nhằm khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học”; “phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”.
Để phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, ngồi việc phải có
chun mơn tốt, lịng nhiệt tình, u nghề thì người giáo viên cịn cần phải có
phương pháp giảng dạy phù hợp, tạo được sự lơi cuốn đối với các em. Do đó
trước khi lê lớp người thầy phải chuẩn bị kĩ lưỡng cả về nội dung, phương pháp,
lẫn hình thức tổ chức hoạt động.
Khơng phải ngẫu nhiên mà những năm gần đây khâu soạn bài của giáo
viên được gọi là thiết kế bài giảng. Có thể khẳng định nghề dạy học là nghề
cơng phu nhất. Nhiều giáo viên thừa nhận, đôi khi họ rất nhiệt tình giảng dạy ở
trên lớp nhưng vẫn khơng mang lại hiệu quả như ý muốn. Phải chăng là do chưa
có phương pháp phù hợp, chưa có sức hút đối với trị?
Trong tốn học, có những đơn vị kiến thức đơn giản, dễ hiểu, dễ dạy song
cũng có những nội dung mặc dù có tính thực tế cao nhưng để tạo hứng thú, niềm
u thích đối với học sinh khơng phải dễ. Lí thuyết xác suất là một nội dung như
thế. Với mong muốn giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của tiết học,
đồng thời tạo hứng thú, hưng phấn cho các em tôi chọn đề tài “ Tạo hứng thú
học tập cho học sinh thông qua dạy tiết 2, bài: “ Biến cố và xác suất của biến
cố”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm này là đưa ra phương
pháp giảng dạy cho một tiết học cụ thể (tiết 34 Đại số và giải tích 11 NC) nhằm
tạo hứng thú, say mê học tập của học sinh. Từ đó giúp cho tiết học đạt hiệu quả
cao nhất.


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tiết dạy 34: Biến cố và xác suất của biến
cố( Đại số và giải tích 11 nâng cao).
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài này sử dụng phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết dựa
vào lí luận dạy học tốn, phương pháp điều tra khảo sát thực tế.

skkn

1


2. NỘI DUNG
2.1.Cơ sở lí luận
Một tiết dạy thành cơng (một tiết dạy hay, một tiết dạy tốt) là một tiết dạy
đạt được mục tiêu bài học, phù hợp chuẩn kiến thức, kỹ năng, có phương pháp
giảng dạy và học tập tương thích với nội dung bài học, thỏa mãn được niềm đam
mê của người thầy trên bục giảng và niềm hứng thú của học trị trong giờ học. 
Để có một tiết dạy thành cơng giáo viên phải làm gì? Đây là câu hỏi không
phải riêng tôi mà rất nhiều giáo viên luôn trăn trở. Theo tôi để dạy được tốt, giáo
viên phải đối mặt với nhiều yêu cầu và địi hỏi về nhiều mặt, khơng chỉ một tiết
dạy mà cả một đời dạy học, một “cái nghiệp” mà mình đã chọn. Muốn vậy,
người
thầy
phải
hội
đủ
các
điều
kiện

sau:
Một là: giáo viên phải có một vốn kiến thức sâu rộng về bộ mơn mình đảm
trách, để có thể “lớn hơn học sinh một cái đầu” và “để biết mười mà dạy một”.
Hai là: nắm vững các phương pháp. Ta thường nói “nội dung nào phương pháp
ấy”. Dạy hóa học khơng thể mơ tả chung chung mà phải làm thí nghiệm phản
ứng hóa học. Dạy địa lý phải hướng dẫn trên bản đồ. Dạy sinh học phải có giáo
cụ trực quan, để các em được quan sát mổ xẻ như cây trái, cóc nhái…
Ba là: Phân phối thời gian hợp lý. Xác định cho được đâu là nội dung trọng tâm
của bài, để dành thời gian thích đáng. Có như vậy mới tránh được miên man sa
đà vào những phần “râu ria”.
Bốn là: Phải quan tâm đến đối tượng học sinh mà ta giảng dạy. Đã đành cùng
một lớp là có một trình độ phổ thơng như nhau, nhưng lại khác biệt về mặt tâm
sinh lý. Có em hay lơ đãng, thiếu tập trung, có em tiếp thu chậm, có em “ngồi
nhầm lớp”… Vì vậy, với một người thầy, ta vẫn phải có trách nhiệm quan tâm
đến tất cả các em, dù chỉ dạy một tiết, dù khơng phải giáo viên chủ nhiệm. Có
thể bằng nhiều cách, bất chợt hỏi một câu để “đánh thức” một em đang lơ đãng,
hay đặt một câu hỏi để kiểm tra em tiếp thu chậm, hoặc hỏi cả lớp xem có nội
dung nào chưa hiểu để giảng lại kỹ hơn…
Năm là: Cần chuẩn bị kỹ bài trước khi lên lớp, để có thể sẵn sàng giải đáp được
các câu hỏi của học sinh đặt ra. Có thể có những câu hỏi thật thơng minh, cũng
có thể có những câu hỏi “cắc cớ, ngớ ngẩn” mà ta chưa lường hết được. Nếu hết
thời gian hoặc “bí quá” ta đành khất lại tiết sau để tra cứu thêm. Điều đó, chẳng
có gì đáng sĩ diện cả, chỉ có dạy sai kiến thức mới đáng “mắc cỡ” thơi.
Ngồi những yếu tố trên thì sự hợp tác tích cực của thầy và trị cũng vô cùng
quan trọng.Trên lớp, người thầy phải linh hoạt trong phương pháp giảng dạy để
học sinh hiểu và tích cực tham gia vào các hoạt động học tập. Giáo viên phải
làm thế nào để thể hiện được sự năng động và sáng tạo trong từng tiết dạy của
mình. Hay nói đúng hơn phải có những “chiêu thức” khác nhau để tạo niềm
hứng khởi đối với học sinh ở môn học mình phụ trách. Ví dụ, bắt đầu một tiết
dạy, thay vì nêu câu hỏi trả bài thơng thường, giáo viên có thể thay thế bằng một


skkn

2


tình huống cụ thể trong đời sống hàng ngày để dẫn dắt các em vào bài học. Việc
ứng dụng công nghệ thơng tin trong giảng dạy hiện nay cũng góp phần vào sự
thành công của tiết dạy nếu giáo viên biết vận dụng hợp lí và khơng gây nhàm
chán với học sinh. Không phải lúc nào cũng “chiếu và chiếu” mà chúng ta phải
ứng dụng thế nào cho “cần và đủ”. Một điều quan trọng nữa, đó là giáo viên
phải làm sao cho học sinh thể hiện được mình trong từng tiết dạy. Trong một lớp
học có nhiều học sinh với trình độ khác nhau, vì thế chúng ta phải có một sự
phân cơng hợp lí trong những hoạt động học tập. Hay nói đúng hơn là người
thầy phải hiểu được học trị mình để giúp các em có được niềm hứng thú trong
học tập cho dù các em là học sinh giỏi hay trung bình, yếu, kém. Bằng những
thủ thuật khác nhau trong các hoạt động giảng dạy, người thầy sẽ tạo cho học trị
mình một mơi trường học tập thuận lợi để từ đó các em có được một động cơ tốt
hơn qua từng tiết học.
Sự hợp tác tích cực giữa thầy và trị sẽ là một yếu tố quan trọng trong tiết
dạy. Chúng ta đừng quan niệm rằng học sinh chỉ là một người học mà phải xem
các em là một “đối tác” trong các hoạt động giáo dục. Cũng như trong kinh
doanh, trong giáo dục cũng thế, người thầy phải làm thế nào để cho “đối tác” có
hứng thú, thấy được lợi ích của mình thì sẽ thành cơng.
Bên cạnh đó, lí thuyết xác suất có rất nhiều ứng dụng thực tế. Nó giúp
chúng ta giải quyết được nhiều bài toán trong cuộc sống dễ dàng, chính xác. Vì
vậy, với mong muốn tạo hứng thú, niềm say mê tốn học tơi thiết nghĩ cần dạy
như thế nào để học sinh nắm vững kiến thức và áp dụng vào thực tiễn ngay từ
những bài đầu tiên là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Qua nhiều năm đứng trên bục giảng, khi dạy tới chuyên đề này, tôi luôn băn

khoăn làm thế nào để cho giờ dạy của mình đạt kết quả cao nhất, các em chủ
động trong việc chiếm lĩnh kiến thức.Thầy đóng vai trị là người điều khiến để
các em tìm đến đích của lời giải. Một mặt là giúp học sinh hiểu được bản chất
của vấn đề, các em khơng cịn lúng túng trong việc giải các bài toán xác suất,
hơn nữa tạo ra cho các em hứng thú trong giải tốn nói chung và các bài tốn
xác suất nói riêng. Mặt khác sau khi nghiên cứu tơi sẽ có một phương pháp
giảng dạy có hiệu quả cao hơn trong các giờ lên lớp, trả lời thoả đáng câu hỏi
“Vì sao nghĩ và làm như vậy”.
Với mong muốn ấy Tôi chọn đề tài: “ Tạo hứng thú học tập cho học sinh
thông qua dạy tiết 2, bài: “ Biến cố và xác suất của biến cố”
2.2.1. Khái niệm hứng thú và hứng thú học tập.
       Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, nó có ý
nghĩa đối với cuộc sống và có khả năng mang lại khối cảm trong quá trình hoạt
động.
       Hứng thú biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội
dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú.

skkn

3


       Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt
động nhận thức, tăng sức làm việc.
       Từ khái niệm về hứng thú ta có thể suy ra được định nghĩa của hứng thú học
tập: hứng thú học tập là thái độ đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng của hoạt
động học tập, vì sự cuốn hút về mặt tình cảm và ý nghĩa thiết thực của nó trong
đời sống cá nhân.
2.1.2. Tầm quan trọng của hứng thú đối với các hoạt động học tập.
       Sự hứng thú thể hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê của

chủ thể hoạt động. Sự hứng thú gắn liền với tình cảm của con người, nó là động
cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động đó. Trong bất cứ cơng
việc gì, nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với hoạt
động, nó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực và sáng tạo hơn vào
hành động đó. Ngược lại nếu khơng có hứng thú, dù là hành động gì cũng sẽ
khơng đem lại kết quả cao. Đối với các hoạt động nhận thức, sáng tạo, hoạt động
học tập, khi khơng có hứng thú sẽ làm mất đi động cơ học, kết quả học tập sẽ
không cao, thậm chí xuất hiện cảm xúc tiêu cực.
2.1.3.  Biểu tượng hứng thú.
      Hứng thú là biểu hiện của sự chú ý tập trung cao độ, ở sự say mê hấp dẫn nội
dung hoạt động ở bề rộng và chiều sâu hứng thú.
      Khi ta nói một học sinh có hứng thú đối với mơn Tốn là chúng ta thừa nhận
em học sinh này đã có ý thức và hiểu rõ ý nghĩa mơn học đối với bản thân mình
đồng thời em học sinh cũng có tình cảm đặc biệt đối với mơn học và trên thực
tế, một học sinh có hứng thú đối với mơn học nào đó thì em này sẽ say sưa trong
học tập và đạt kết quả cao trong học tập.
          Hứng thú mỗi học sinh mỗi khác, có em hứng thú với nhiều mơn học
(hứng thú rộng) nhưng khơng lâu bền, nhưng bên cạnh đó có một số em khơng
có hứng thú  với  một mơn học nào cả.
      Hứng thú học tập của học sinh được tăng cường phần lớn chịu sự ảnh
hưởng bởi giáo viên. Do đó, giáo viên cần khơng ngừng trau dồi kỹ năng, phẩm
chất đạo đức, nghề nghiệp, cải tiến phương pháp giảng dạy, đảm bảo việc
truyền thụ tri thức ngày càng chính xác, hấp dẫn, có chất lượng. Giáo viên cần
giúp cho học sinh thấy được ý nghĩa và vai trị của các kiến thức mơn học đối
với cuộc sống; giúp học sinh biết cách học thích hợp đối với mỗi bộ môn, tăng
cường thời lượng, chất lượng thực hành cho mỗi bộ mơn, nắm vững lý thuyết,
ln có sự vận dụng các kiến thức đã học vào cuộc sống và giải quyết các tình
huống trong đời sống theo các khía cạnh khác nhau. Cần có những bài giảng
nêu vấn đề, những giờ thảo luận trên lớp, những trò chơi mang tính chất giáo
dục để kích thích hứng thú học tập cho các em. Q trình kích thích hứng thú

khơng chỉ diễn ra ở bài giảng này hay bài giảng khác mà cần phải diễn ra trong
suốt quá trình. Do đó, trong q trình giảng dạy, người giáo viên cần tạo ra trị
chơi nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh, tăng tính tích cực của trí
tuệ.

skkn

4


2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thực tế dạy học Toán hiện nay trong nhiều trường phổ thơng có thể mơ tả
như sau: Phần lý thuyết giáo viên dạy từng chủ đề theo các bước, đặt vấn đề,
giảng giải để dẫn học sinh tới kiến thức, kết hợp với đàm thoại nhằm uốn nắn
những lệch lạc nếu có, củng cố kiến thức bằng bài tập, hướng dẫn công việc học
tập ở nhà.
Phần bài tập, học sinh chuẩn bị ở nhà hoặc chuẩn bị ít phút tại lớp, giáo
viên gọi một vài học sinh lên bảng chữa, những học sinh khác nhận xét lời giải,
giáo viên sửa hoặc đưa ra lời giải mẫu và qua đó củng cố kiến thức cho học sinh.
Một số bài toán sẽ được phát triển theo hướng khái quát hoá, đặc biệt hoá, tương
tự hoá cho đối tượng học sinh khá giỏi.
Hầu hết các giáo viên còn sử dụng nhiều phương pháp thuyết trình và đàm
thoại chứ chưa chú ý đến nhu cầu, hứng thú của học sinh trong quá trình học.
Hình thức dạy học chưa đa dạng, phong phú, cách thức truyền đạt chưa sinh
động, chưa gây hứng thú cho học sinh. Học sinh tiếp nhận kiến thức chủ yếu còn
bị động. Những kĩ năng cần thiết của việc tự học chưa được chú ý đúng mức. Do
vậy việc dạy học Tốn ở trường phổ thơng hiện nay cịn bộc lộ nhiều điều cần
được đổi mới. Đó là học trị chưa thật sự hoạt động một cách tích cực, chưa chủ
động và sáng tạo, chưa được thảo luận để đưa ra các khám phá của mình, kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn yếu. Vai trò của thầy vẫn chủ yếu là

người thông báo các sự kiện, cùng lắm nữa thì là người dạy cách chứng minh,
cách phán đốn và một số thói quen làm việc nhất định chứ chưa phải là người
''khơi nguồn sáng tạo'',  ''kích thích học sinh tìm đốn''. Thực  tế  đó  nói  lên
rằng  còn  rất nhiều vấn đề về mặt phương pháp dạy học cần được quan tâm
nghiên cứu cả về lí luận và triển khai ứng dụng trong thực tiễn.
Việc nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở phân tích những vấn đề lí luận và
thực tiễn dạy học mơn Tốn hiện nay ở trường phổ thơng. Có nhiều ý kiến cho
rằng, PPDH được sử dụng trong nhà trường nói chung còn lạc hậu. Mặc dù
nhiều giáo viên tâm huyết với nghề và có hiểu biết sâu sắc về bộ mơn, đã có
những giờ dạy tốt; nhưng nhìn chung, cịn có giáo viên vẫn sử dụng phương
pháp thuyết trình. Đó là những hiện tượng đáng lo ngại, mà chúng ta cần phải
tháo dỡ.
Tóm lại, với kiểu dạy học thầy truyền thụ kiến thức cịn trị thụ động ngồi
nghe, những gì thầy giảng thường khơng có sự tranh luận giữa thầy và trị, điều
thầy nói có thể coi là tuyệt đối đúng… Một phương pháp giảng dạy tự phát, dựa
vào kinh nghiệm, không xuất phát từ mục tiêu đào tạo, không có cơ sở kiến thức
về những quy luật và nguyên tắc của lý luận dạy học sẽ làm cho quá trình học
tập trở nên nghèo nàn, làm giảm ý nghĩa giáo dục cũng như hiệu quả bài giảng.
Việc tạo hứng thú học tập cho học sinh đã được nhiều tác giả đề cập trong
các tài liệu, song chỉ trình bày một cách chung chung mà chưa phân tích, xem
xét trong một tiết học cụ thể. Vì vậy tơi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Tạo hứng

skkn

5


thú học tập cho học sinh thông qua dạy tiết 2, bài: “ Biến cố và xác suất của biến
cố”
2.3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề.

2.3.1.Tạo hứng thú học tập bằng cáchlàm cho học sinh nhận thức được mục
tiêu, lợi ích của bài học
    Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi ích
của một nội dung nào đó. Đối với tiết học này tơi đưa ra câu hỏi tại sao khi chơi
xổ số, chơi lô đề tỷ lệ ăn thua là 1/70 mà nhà cái vẫn có lời? tại sao khơng phải
là 1/120, 1/130...? Tiết học này giúp các em trả lời được các câu hỏi đó.
2.3.2.Tạo hứng thú học tập bằng cách tác động vào nội dung dạy học
Nội dung dạy học được chia ra rất nhiều cấp độ, từ đơn giản đến phức tạp, từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ những đơn vị kiến thức nhỏ đến
lớn. Người thầy giáo cần khéo léo lựa chọn, sắp xếp nội dung cho phù hợp với
tiến trình tiết học. Đồng thời phải khơi gợi, giúp học sinh khai thác các đơn vị
kiến thức một cách triệt để theo khả năng của các em.
2.3.3.Tạo hứng thú học tập bằng cách phối hợp các phương pháp và các
hình thức dạy học linh hoạt
Ngồi việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS
cịn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học
dưới dạng các trị thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt
động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngồi khơng gian
lớp học…
2.3.3.1. Tổ chức trò chơi học tập
Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được khơng
khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trị chơi học tập
có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự
phát triển trí tuệ của các em.           
2.3.3.2. Tổ chức hoạt động học theo nhóm          
Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên trong lớp
nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập chung. Được tổ chức một cách khoa
học, học theo nhóm sẽ  phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường, tinh
thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm. Trong giờ học Tiếng

Việt, biện pháp này đã tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi, đó
là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của những
người bạn.

skkn

6


Thiết kế các trò chơi học tập để HS tiếp cận kiến thức toán một cách nhẹ
nhàng, thú vị
2.3.4. Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa
giáo viên và học sinh, giữa học sinh và học sinh.
Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò,
giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp
dẫn cùng với một bầu khơng khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự
hứng thú cho cả thầy và trị. Bởi vì, học là hạnh phúc khơng chỉ vì những lợi ích
mà nó mang lại, mà hạnh phúc cịn nằm ngay trong chính sự học.
Dưới đây là giáo án của tiết học.
Tiết 34:

BIẾN CỐ VÀ XÁC SUẤT CỦA BIẾN CỐ

1/ MỤC TIÊU
1.1/ Kiến thức.
Giúp học sinh củng cố các khái niệm: Phép thử ngẫu nhiên, không gian mẫu,
biến cố. Học sinh hiểu định nghĩa cổ điển của xác suất
1.2/ Kỹ năng
Bước đầu học sinh biết: tính xác suất của biến cố dựa vào định nghĩa cổ điển.

1.3. Định hướng hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất.
Học sinh được rèn luyện các năng lực: sáng tạo, giải quyết vấn đề, giao tiếp,
tính tốn, sử dụng ngôn ngữ.
2. PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DAY HỌC
2.1.Phương pháp: dạy học nêu và giải quyết vấn đề. Kĩ thuật dạy học: sứ dụng
câu hỏi mở
2.2.Hình thức tổ chức: hoạt động cá nhân kết hợp hoạt động nhóm.
3. CHUẨN BỊ
3.1 Chuẩn bị của giáo viên:
-Thiết bị dạy học : Chuẩn bị đồ dùng dạy học như thước kẻ, máy chiếu, phiếu
học tập
-Học liệu : Sách giáo khoa.sách tham khảo
3.2 Chuẩn bị của học sinh
- Đồ dùng học tập: máy tính
- Học bài cũ
- Nghiên cứu trước bài học
4. GIỚI THIỆU

skkn

7


+ Giới thiệu về các trò chơi may rủi: chơi lơ đề, chơi sổ số hiện nay. Liệu có xác
định được khả năng thắng- thua của người chơi trong các trị chơi may rủi đó
khơng?
+ Có 5 bi xanh và 6 bi đỏ. Xét phép thử T: Chọn một số nguyên dương nhỏ hơn
9. Gọi A là biến cố: “Chọn được số chia hết cho 3”. Tính số phần tử không gian
mẫu và số kết quả thuận lợi cho biến cố A
5. NỘI DUNG CHÍNH

2.Xác suất của biến cố.
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học Nội dung chính
sinh
Tiếp cận
Cá nhân học sinh theo 2. Xác suất của biến cố.
Từ ví dụ trên( trong phần dõi tiếp thu tri thức.
a. Định nghĩa cổ điển của
giới thiệu), hãy tính: tỷ số
xác suất. (SGK).
giữa số kết quả thuận lợi
P(A) =
cho biến cố A và số phần
tử của không gian mẫu.
- HS đứng tại lớp và - Chú ý
Định nghĩa
phát biểu định nghĩa,
Từ câu hỏi kiểm tra bài - HS theo dõi câu hỏi và
cũ, giáo viên dẫn dắt cho nhận xét.
học sinh đi đến định
nghĩa cổ điển của xác
Ví dụ 1: Gieo hai đồng xu
suất.
Cá nhân học sinh trả lời. phân biệt. Tính xác suất
-Trình chiếu định nghĩa.
để:
- HS so sánh A với .
a) Mặt sấp xuất hiện đúng
- Suy ra kết luận gì về
một lần.
b) Mặt sấp xuất hiện ít

.
nhất một lần
- GV chính xác hố nhận
xét và nêu chú ý.
Ví dụ 2: Một hộp đựng 4
Hỏi: Nêu các bước tính Học sinh theo dõi, ghi viên bi xanh và 6 viên bi
xác suất theo định nghĩa đề bài vào vở.
đỏ. Chọn ngẫu nhiên 2
-Cá nhân học sinh đứng viên bi. Tính xác suất để:
cổ điển?
Giáo viên trình chiếu các tại chỗ trả lời câu a.
a) Chọn được hai viên bi
bước tính xác suất của - Một học sinh lên bảng khác màu.
trình bày câu b
một biến cố.
b) Chọn được hai viên bi
- HS nghe hiểu nhiệm cùng màu
vụ.
Củng cố
- Trình chiếu ví dụ 1. - Cá nhân thực hiện
- Gọi học sinh đứng nhiệm vụ mà giáo viên
yêu cầu.
tại chỗ trả lời câu a
- Gọi một học sinh lên
bảng trình bày câu b.
Nhận xét.

skkn

8



- Trình chiếu ví dụ 2.
Gọi học sinh đứng tại chỗ
làm bài.
Dưới đây là một số sline trình chiếu của tiết học.

skkn

9


skkn

10


6.HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP- VẬN DỤNG
6.1.Phiếu học tập: Trả lời các câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1: Gieo ngẫu nhiên một con súc sắc. Xác suất để mặt 6 chấm xuất hiện:
A.

B.

C.

D.

Câu 2: Từ các chữ số 1, 2, 4, 6, 8, 9 lấy ngẫu nhiên một số. Xác suất để lấy
được một số nguyên tố là

A.

B.

C.

D.

Câu 3: Có 10 hộp sửa trong đó có 3 hộp hư. Chọn ngẫu nhiên 4 hộp. xác suất để
được nhiều nhất 3 hộp hư:
A.

B.

C.

D.

Câu 4: Một hộp chứa 12 viên bi kích thước như nhau, trong đó có 5 viên bi màu
xanh được đánh số từ 1 đến 5; có 4 viên bi màu đỏ được đánh số từ 1 đến 4 và 3
viên bi màu vàng được đánh số từ 1 đến 3. Lấy ngẫu nhiên 2 viên bi từ hộp, tính
xác suất để 2 viên bi được lấy vừa khác màu vừa khác số.
A.

B.

C.

D.


6.2.Tổ chức trò chơi: Xổ số tự chọn Meega 6/45
(Trình chiếu trên máy)

skkn

11


Giới thiệu về trò chơi, sự hấp dẫn của trò chơi hiện nay.
-Trình chiếu luật chơi; giải thưởng.
- Tổ chức trị chơi.
- Chiếu video khuyến cáo khơng nên chơi những trị chơi mang tính may rủi mà
khả năng thua rất cao này.
7. HOẠT ĐỘNG TÌM TỊI MỞ RỘNG
- Tìm hiểu định nghĩa thống kê của xác suất. Tiến hành thí nghiệm: gieo con súc
sắc 50 lần. Ghi lại kết quả của việc gieo này và tính tần suất xuất hiện mỗi mặt
1, 2, 3, 4, 5, 6 chấm.
- Nghiên cứu nội dung: Các quy tắc tính xác suất.
- Bài tập:
1. Một người chọn ngẫu nhiên hai chiếc giày từ 4 đơi giày cỡ khác nhau.
Tính xác suất để hai chiếc chọn được tạo thành một đơi.
2. Có 9 tấm thẻ được đánh số từ 1 đến 9. Chọn ngẫu nhiên 2 tấm thẻ. Tính
xác suất để tích hai số ghi trên hai tấm thẻ là số chẵn.
3. Gọi S là tập tất cả các số tự nhiên có 3 chữ số phân biệt được chọn từ các
số 1;2;3;4;5;6;7. Xác định số phần tử của S. Chọn ngẫu nhiên một số từ S.
Tính xác suất để số được chọn là số chẵn.
8. RÚT KINH NGHIỆM
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Với yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình nhận thức, vấn đề đặt ra là

phải làm thế nào để phát triển năng lực giải quyết vấn đề của học sinh. sẽ góp
phần rèn luyện, phát triển tư duy, năng lực giải quyết vấn đề cho các em. Tạo
hứng thú học tập cho học sinh thông qua dạy tiết 2: “Biến cố và xác suất của
biến cố” giúp tơi và đồng nghiệp góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy học toán ở trường THPT nói chung và trường THPT Sầm Sơn nói
riêng.
Đề tài đạt được những kết quả sau:
1. Đề tài đã xây dựng hệ thống câu hỏi, ví dụ, bài tập, trò chơi khi dạy tiết 2:
bài “Biến cố và xác suất của biến cố”
2. Đề tài này không những giúp tơi tích lũy kiến thức chun mơn mà cịn
giúp tơi vận dụng dạy tốt mơn tốn hơn ở trường THPT. Đặc biệt là các bài toán
xác suất.
3. Đề tài này là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên và học sinh THPT,
giúp các em học sinh THPT có hứng thú, say mê học toán.
Để đánh giá kết quả của việc thực hiện chuyên đề đối với công tác giảng
dạy, tôi đã tiến hành cuộc kiểm tra thử nghiệm. Sau đây là kết quả kiểm tra:

skkn

12


Đề bài:
Câu 1: Gieo một đồng tiền xu cân đối và đồng chất 4 lần. Tìm sớ phần tử của
khơng gian mẫu.
A. 12.
B. 8.
C. 16.
D. 4.
Câu 2: Một tổ học sinh có 7 nam và 3 nữ. Chọn ngẫu nhiên 2 người. Tính xác

suất sao cho 2 người được chọn toàn nam.
A.

B.

C.

D.

Câu 3: Rút ra một con bài từ bộ bài 52 con. Xác suất để được con ách (A) là
A.

B.

D. 3

C.

4

Câu 4: Một hộp có 4 bi xanh , 2 bi đỏ và 3 bi vàng . Chọn ngẫu nhiên 2 bi . Xác
suất để chọn được 2 bi khác màu là :
A.

B.

C.

D.


Câu 5: Gieo hai con súc sắc cân đối . Xác suất để tổng số chấm trên mặt xuất
hiện của hai con súc sắc bằng 7 là:
A.

B.

C.

D.

Câu 6: Gieo một con súc sắc. Xác suất để mặt chấm chẵn xuất hiện là
A. 0, 2
B. 0, 3
C. 0, 4
D. 0, 5
Câu 7: Một bình đựng 6 quả cầu xanh, 4 quả cầu đỏ và 5 quả cầu vàng. Chọn
ngẫu nhiên đồng thời 5 quả . Xác xuất sao cho lấy được nhiều nhất 4 quả cầu
xanh.
A.

B.

C.

D.

Câu 8: Có 13 học sinh của một trường THPT đạt danh hiệu học sinh xuất sắc
trongđó khối 12 có 8 học sinh nam và 3 học sinh nữ, khối 11 có 2 học sinh nam.
Chọn ngẫu nhiên 3 học sinh bất kỳ để trao thưởng, tính xác suất để 3 học sinh
được chọn có cả nam và nữ đồng thời có cả khối 11 và khối 12 .

A.

.

B.

.

C.

.

D.

Bài toán được tiến hành kiểm tra trong thời gian 15 phút với đối tượng là 25 em
học sinh ở hai lớp: 11A4 (được thực hiện giảng dạy theo chuyên đề đã nêu) và
11A5
Lớp 11 A5:
Loại
dưới 5
điểm
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Kết quả

0
0
3
12%
7
28%
15
60%

skkn

13


Lớp 11A4:
Loại
điểm
Kết quả

dưới 5
SL
2

%
8%

SL
4

%

16%

SL
9

%
36%

SL
10

%
40%

3. KẾT LUẬN
Trên cơ sở nắm vững các kiến thức mở đầu về xác suất, các em học sinh hồn
tồn có thể tiếp thu tốt các kiến thức tiếp theo của chuyên đề và giải quyết nhanh
gọn các bài tốn xác suất. Qua đó giúp cho các em phần nào thấy được vai trò
của xác suất trong toán học cũng như trong thục tiễn, bớt lúng túng khi giải tốn
và thân thiện hơn đối với mơn tốn.
Vì điều kiện thời gian không cho phép nên trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi
chỉ khai thác cách tạo hứng thú cho học sinh thông qua một tiết dạy cụ thể chứ
chưa nghiên cứu rộng trên nhiều tiết học. Nếu có điều kiện tơi sẽ nghiên cứu
triệt để áp dụng cho các tiết học khác nữa nhằm tạo hứng thú học tập cho học
sinh, giúp các em có thêm niềm đam mê với Toán học.

skkn

14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.”Đại số và giải tích 11 nâng cao”, Đoàn Quỳnh (Tổng Chủ biên)-Nguyễn Huy
Loan (Chủ biên)- Nguyễn Xuaam Liêm- Nguyễn Khắc Minh – Đặng Hùng
Thắng, NXB Giáo dục Việt Nam, 2007.
2. Tài liệu từ Internet.
3.”Những câu chuyện lí thú về xác suất”, Nguyễn Bá Đơ NXB Dân Trí, 2014.

skkn

15


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: giáo viên trường THPT Sầm Sơn

TT
1.
2.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
Tên đề tài SKKN
xếp loại

(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Phương pháp tọa độ hóa hình
Sở GD
B
học khơng gian.
&ĐT tỉnh
Thanh Hóa
Sở GD
C
Khai thác một số ứng dụng
&ĐT tỉnh
của vectơ trong giải tốn sơ
Thanh Hóa
cấp.

Năm học
đánh giá xếp
loại
2008-2009
2016-2017

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 27 tháng 5 năm 2022
ĐƠN VỊ:
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.


Đặng Thị Hằng

skkn

16



×