Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Một số vấn đề về thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.25 KB, 50 trang )

Lời nói đầu
Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân
sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đơng sự, trong đó các bản
án, quyết định của Toà án đợc đa ra thi hành
Để góp phần duy trì ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, mọi hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp xảy ra khi có
yêu cầu đều đợc Toà án xem xét giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời nhà n-
ớc xây dựng một cơ chế đảm bảo cho việc thi hành các phán quyết mà Toà án
đã tuyên. Nếu bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật mà không
đựơc đa ra thi hành thì quyền lợi của đơng sự cha đợc đảm bảo, nguyên tắc
pháp chế bị vi phạm. Mặt khác tranh chấp, mâu thuẫn dân sự không đợc giải
quyết kịp thời và triệt để, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và nhà
nớc bị suy giảm. Vì vậy công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự
nói riêng mang nội dung và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nhận thức đợc điều
này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Đảng ta đã đề ra chủ trơng
"...Đẩy mạnh cải cách tổ chức, nâng cao chất lợng và hoạt động của các cơ
quan T pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ T pháp...".
Trong đó, có công tác thi hành án dân sự.
Những năm qua công tác thi hành án dân sự đã từng bớc đợc đẩy mạnh
và đã thu đợc những kết quả to lớn. Pháp luật về thi hành án dân sự đã và đang
đợc củng cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra
của sự phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, hệ
thống cơ quan thi hành án đã đợc hình thành trong cả nớc, hoạt động thi hành
án đã đạt hiệu quả nhất định, kỷ cơng trật tự xã hội đợc ổn định, đồng thời
pháp chế xã hội chủ nghĩa đợc đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội
ngày càng phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế thị trờng các giao lu dân sự
ngày một mở rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến
số lợng bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Nếu nh trớc đây
1
nhiệm vụ của cơ quan thi hành án chỉ là thi hành các bản án, quyết định dân sự
thì từ khi có Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án


kinh tế, Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động, Pháp lệnh công nhận thi
hành bản án, quyết định dân sự của toà án nớc ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh
công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nớc ngoài, Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Pháp lệnh Trọng tài thơng mại có
hiệu lực thi hành thì thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự ngày càng đợc
mở rộng. Trớc tình hình đó, cần phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật thi hành án
dân sự góp phần đẩy nhanh hoạt động thi hành án đạt hiệu quả hơn về số lợng
cũng nh chất lợng, từng bớc giảm dần số lợng bản án, quyết định tồn đọng cha
đợc thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cờng tính pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy việc nghiên cứu pháp luật về thi hành án dân sự
trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cần thiết không chỉ đối với các nhà lập
pháp, t pháp, các luật gia mà còn cần thiết đối với những sinh viên khi nghiên
cứu về pháp luật Việt Nam. Đây là một vấn đề lớn đòi hỏi phải có trình độ
nghiên cứu cũng nh thời gian nghiên cứu nhất định. Do vậy, trong bài khoá
luận tốt nghiệp này tôi chỉ xin trình bày một số khía cạnh quan trọng của pháp
luật thi hành án dân sự đó là "Một số vấn đề về thi hành án dân sự ".
Đối tợng, phạm vi nghiên cứu đề tài là một số qui định cơ bản của Pháp
luật về thi hành án dân sự mà chủ yếu một số quy định cơ bản pháp luật về thi
hành án dân sự hiện hành và thực tiễn áp dụng chúng của các cơ quan thi hành
án trong những năm gần đây.
Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự hiện hành từ đó thấy đợc những bất cập trong thực
tiễn áp dụng và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục
thi hành án dân sự. Đặc biệt, qua việc nghiên cứu này nâng cao đợc nhận thức
của bản thân về công tác thi hành án dân sự, hoàn thiện thêm kiến thức pháp
luật, nâng cao năng lực công tác.
Kết quả nghiên cứu đợc trình bày trong bản khoá luận gồm ba phần: Lời
nói đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội dung bản khoá luận gồm các nội
dung cơ bản sau:
2

- Chơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án dân sự.
- Chơng 2: Nội dung một số qui định cơ bản của pháp luật về thi hành
án dân sự.
- Chơng 3: Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về thi hành án
dân sự và một số kiến nghị.
Vì điều kiện thời gian nghiên cứu, khả năng và kiến thức còn nhiều hạn
chế nên việc nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi kính
mong các thầy cô hớng dẫn, giúp đỡ để tôi nâng cao đợc kiến thức và có điều
kiện tiếp tục nghiên cứu đề tài này.
Chơng i
3
Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án dân sự
I/ Khái niệm và ý nghĩa của thi hành án dân sự
1. Khái niệm thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là một giai đoạn nhằm thực hiện những bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân trong cuộc sống, biến
các quyết định của Toà án trong những bản án, quyết định đó thành hiệu lực
thực tế. Tuy nhiên, thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự hay thủ tục
hành chính đã có một thời kỳ có nhiều ý kiến khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng thi hành án dân sự không phải là một thủ
tục tố tụng dân sự, mà là một hoạt động mang tính chất chấp hành và điều
hành nh vậy thi hành án dân sự là một thủ tục hành chính.
Ngợc lại với quan điểm thứ nhất, quan điểm thứ hai cho rằng thi hành án
dân sự là một thủ tục tố tụng dân sự. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn
xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đơng sự.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng thi hành án dân sự là một thủ tục tố tụng
đặc biệt bởi nó vừa mang tính chất của thủ tục tố tụng dân sự lại vừa là thủ tục
hành chính.
Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý, nhng quan điểm thứ hai là
phù hợp hơn cả bởi những lý do sau:

Thứ nhất, khi tranh chấp dân sự phát sinh, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình, các đơng sự phải nhờ vào sự can thiệp của Nhà nớc mà cụ thể là Toà
án. Sau khi thụ lý vụ việc, Toà án tiến hành điều tra, hoà giải, xét xử để đa ra
phán quyết của mình. Việc giải quyết vụ việc mới thực sự là giai đoạn đầu của
quá trình tố tụng. ở giai đoạn này, Toà án mới giải quyết đợc về nội dung của
vụ án, phân định quyền và nghĩa vụ của các bên. Nếu phán quyết đó không đợc
đa ra thi hành thì lợi ích của đơng sự thực chất cha đợc bảo vệ. Hiệu lực bản
án, quyết định của Toà án không đợc bảo đảm. Việc bảo vệ quyền, lợi ích của
đơng sự là cả một quá trình và phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Chỉ khi
4
nào tiến hành xong các giai đoạn này thì quá trình bảo vệ quyền lợi của đơng
sự mới đợc coi là hoàn thành.
Thứ hai, về nguyên tắc, khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
phải đợc đa ra thi hành theo yêu cầu của ngời đợc thi hành án hay cơ quan thi
hành án chủ động thi hành. Tuy nhiên bản án, quyết định của Toà án đang đợc
đa ra thi hành hoặc đã thi hành xong vẫn có thể bị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có kháng nghị của ngời có thẩm quyền. Do đó,
giai đoạn thi hành án và quá trình xét xử có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với
nhau, nó là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ quyền lợi của đơng sự.
Trong đó việc ra bản án, quyết định là tiền đề, là điều kiện để tiến hành giai
đoạn thi hành án. Nói nh thế, không có nghĩa chỉ khi nào giai đoạn xét xử đợc
thực hiện xong thì mới đến giai đoạn thi hành án mà thi hành án còn đợc tiến
hành song song cùng với giai đoạn xét xử. Chẳng hạn trong quá trình giải
quyết việc xin ly hôn, xét điều kiện khó khăn của ngời vợ, Toà án có thể ra
quyết định khẩn cấp tạm thời buộc ngời chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dỡng
nuôi con theo yêu cầu của ngời vợ. Để đảm bảo việc nuôi con của ngời vợ, cơ
quan thi hành án tiến hành thực thi ngay quyết định đó mặc dù Toà án vẫn cha
giải quyết xong việc xin ly hôn đó.
Thứ ba, tranh chấp dân sự của các bên đều xuất phát từ quan hệ pháp
luật nội dung. Do đó, án dân sự chủ yếu là giải quyết các vấn đề về tài sản giữa

các đơng sự. Mặt khác, nếu bản án, quyết định Toà án tuyên cha có hiệu lực
pháp luật mà đơng sự tự nguyện thi hành thì thuần tuý đây là quan hệ dân dự
thông thờng chứ không có sự can thiệp của cơ quan Nhà nớc. Do đó, không thể
coi đây là thủ tục hành chính đợc. Hơn nữa, nếu cho rằng trong tố tụng dân sự
chỉ có Toà án mới là chủ thể tiến hành tố tụng còn cơ quan thi hành án không
phải là chủ thể đợc phép tiến hành các hoạt động tố tụng nên việc thi hành án
của cơ quan thi hành án không phải là hoạt động tố tụng là không thoả đáng.
Bởi lẽ, việc giải quyết vụ án dân sự là một quá trình khó khăn và phức tạp, liên
quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực đó đều đợc do
một cơ quan chuyên môn đảm nhiệm. Vì vậy, để giải quyết tốt một vụ việc dân
5
sự thì phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cơ quan tổ chức với
nhau. Kết quả hoạt động của cơ quan này tạo cơ sở, tiền đề cho hoạt động của
cơ quan khác và góp phần vào nhiệm vụ chung là giải quyết vụ việc đợc nhanh
chóng, chính xác, kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, hoạt động của thi hành án phải đợc coi là một thủ
tục tố tụng dân sự và là một bộ phận không thể thiếu của ngành luật tố tụng.
Đến nay điều này đã đợc khẳng định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Theo Điều 1
của Bộ luật tố tụng dân sự thì thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự.
Vì vậy, thi hành án dân sự là hoạt động tố tụng dân sự nhằm thi hành
bản án, quyết định của Toà án. Giai đoạn thi hành án dân sự là giai đoạn kết
thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đơng sự trong đó bản án, quyết định của
Toà án đợc đa ra thi hành trên thực tế.
2. ý nghĩa của thi hành án dân sự.
Thứ nhất, thi hành án dân sự góp phần vào công tác giữ gìn an ninh trật
tự và an toàn xã hội.
Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan
Nhà nớc. Vì vậy, hoạt động thi hành án dân sự mang tính quyền lực, cỡng chế,
thể hiện trách nhiệm của Nhà nớc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Trong giai đoạn xây dựng đất nớc hiện nay, khi nền kinh tế thị

trờng ngày một phát triển, quan hệ xã hội đợc mở rộng, các giao lu dân sự
ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp thì thi hành án dân sự là
một trong những công cụ hữu hiệu nhất của Nhà nớc trong việc duy trì trật tự
xã hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và là cơ sở để đảm bảo sự công
bằng, công lý trong xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giầu nớc mạnh xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ hai, thi hành án dân sự góp phần củng cố kết quả của công tác xét
xử trớc đó.
Thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử nhằm thi hành
bản án, quyết định của Toà án. Chỉ có công tác thi hành án dân sự mới làm cho
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật đợc đa ra thi hành trên
6
thực tế và góp phần củng cố kết qủa công tác xét xử trớc đó. Phán quyết mà
Toà án đa ra chính là sự thể hiện ý chí của Nhà nớc trong việc giải quyết các
vụ án dân sự. Vì vậy, khi bản án, quyết định đợc đa ra thi hành là đảm bảo hiệu
lực pháp luật, hiệu lực quản lý của Nhà nớc, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cơng
xã hội, nâng cao uy tín của Nhà nớc trớc nhân dân.
Thứ ba, thi hành án dân dân sự góp phần nâng cao chất lợng, hiệu quả
của hiệu lực xét xử.
Mặc dù quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp
luật về trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những ngời có
uy tín, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc
điểm tính chất của vụ án dân sự là đa dạng và phức tạp. Trong khi đó các qui
định của pháp luật về nội dung cũng nh qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi
còn cha chặt chẽ hay còn thiếu. Do đó, còn có thể dẫn đến những sai lầm trong
quá trình xét xử. Vì vậy, thi hành án dân sự chính là giai đoạn kiểm nghiệm
qua thực tiễn những phán quyết bản án của Toà án, phản ảnh trung thực chất l-
ợng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành
án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Toà án đã
tham gia quá trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc phục những khiếm

khuyết, nâng cao chất lợng và hiệu quả công tác của mình. Đồng thời cũng là
cơ sở để Toà án nhân dân tối cao tổng kết đúc rút kinh nghiệm đa ra đờng lối
xét xử chung, thống nhất trong toàn ngành.
Thứ t, thông qua công tác thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân.
Thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ của riêng cơ quan thi
hành án dân sự mà đó là sự kết hợp với vai trò và trách nhiệm của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phơng là sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức hữu
quan và mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thông qua thi hành án dân sự
ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân ngày càng đợc nâng cao, vai trò trách
nhiệm của các cơ quan tổ chức đợc đảm bảo, niềm tin của nhân dân vào hệ
thống pháp luật, vào bộ máy của Nhà nớc ngày càng đợc củng cố.
7
Ii/ Quá trình hình thành và phát triển của
những quy định về thi hành án dân sự.
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990
Có thể nói rằng giai đoạn này là một giai đoạn mà công tác thi hành án
dân sự gặp rất nhiều khó khăn. Thi hành án còn là một bộ phận nằm trong cơ
cấu của Toà án. Lúc này cùng một lúc Toà án phải thực hiện hai chức năng đó
là chức năng xét xử và chức năng thi hành án. Đây là thời kỳ đất nớc cha hoàn
toàn thống nhất, bên cạnh đó là một nền kinh tế bao cấp đầy những khó khăn
và yếu kém. Chính vì vậy những văn bản pháp luật nói chung và các văn bản
thi hành án nói riêng còn rất ít, rất lẻ.
Công việc thi hành án giai đoạn này chủ yếu đợc tiến hành dới sự hớng
dẫn của các Thông t do Toà án nhân dân tối cao ban hành những quy định về
vấn đề này còn bị hạn chế rất nhiều nên việc thực hiện trên thực tế kém hiệu
quả. Hầu nh các bản án, quyết định do Toà án tuyên khi đa vào thi hành số l-
ợng đạt đợc rất ít.
Đặc trng của thi hành án dân sự trong giai đoạn này là Toà án luôn chủ
động trong thi hành án, quyền định đoạt của đơng sự về thi hành án cha đợc

pháp luật qui định đầy đủ. Theo Điều lệ về thi hành án dân sự do Thông t số
827 ngày 23 / 10/1979 của Toà án nhân dân tối cao ban hành thì các Toà án
nhân dân địa phơng phải chủ động đa ra thi hành án mà không cần phải có yêu
cầu của ngời đợc thi hành án.
2. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1993
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 ra đời đánh dấu một bớc phát
triển mới của pháp luật về thi hành án của Toà án. Pháp lệnh thi hành án dân
sự ra đời qui định về thi hành án so với trớc có sự khác biệt rõ rệt. Vẫn cùng
một lúc Toà án với hai chức năng xét xử và thi hành án nhng ở giai đoạn này
Toà án không giữ vai trò chủ động trong thi hành án nh trớc nữa mà các bên đ-
ơng sự cụ thể là ngời đợc thi hành án phải nộp đơn yêu cầu hoặc đề nghị Toà
án tham gia vào quá trình thi hành án.
8
Điều 14 Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 28/8/1989 đã qui định là:
Trừ một số trờng hợp Toà án phải chủ động thi hành án còn nói chung, ngời đ-
ợc thi hành án phải có yêu cầu thì Toà án mới tiến hành thủ tục thi hành án vì
sau khi Toà án xét xử xong thì thi hành án là một giai đoạn tố tụng khác.
Trong giai đoạn tố tụng này, ngời đợc thi hành án vẫn có quyền định đoạt
quyền lợi của mình, tức là họ có quyền đòi hỏi bên kia phải thi hành nhng họ
cũng có quyền hoà giải với bên kia hoặc không yêu cầu thi hành án. Vì vậy,
Toà án chỉ tiến hành thủ tục thi hành án khi ngời đợc thi hành án có yêu cầu.
Mặc dù, giai đoạn này có Pháp lệnh thi hành án dân sự nhng Toà án vẫn đảm
trách chức năng thi hành án. Với hai chức năng cơ bản của mình là xét xử và
thi hành án cũng đủ để chúng ta thấy đợc khối lợng công việc của Toà án dân
sự là rất lớn, liệu Toà án có giải quyết hết các công việc của mình đợc hay
không? Có lẽ không thể hoàn thành hết đợc nên vẫn còn hiện tợng tồn đọng án
cũ... Bởi lẽ khối lợng công việc cần phải giải quyết quá nhiều, trong đó khối l-
ợng công việc có khả năng giải quyết đợc lại rất ít, vì thế tình trạng số án tồn
đọng từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác cứ kéo dài. Sau
khi Toà án tuyên bản án hoặc quyết định của mình thì Toà án đã thực hiện

xong chức năng xét xử. Nhng để bản án đó có hiệu lực khả thi thì Toà án còn
phải thực hiện chức năng thi hành án. Hai nhiệm vụ này giải quyết xong thì có
nghĩa là Toà án đã thực hiện việc bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của các đơng sự
đợc pháp luật bảo vệ. Để ra một quyết định một thi hành án Toà phải cấp một
bản sao bản án hoặc quyết định của mình cho ngời thi hành án và ngời đợc thi
hành án để hai bên tự nguyện thoả thuận thi hành án cho nhau trong vòng 30
ngày. Hết 30 ngày hai bên vẫn không thoả thuận đợc việc thi hành án thì sẽ
xảy ra hai trờng hợp:
Một là: Toà án sẽ theo đơn yêu cầu thi hành án của ngời đợc thi hành án
mà can thiệp vào quá trình thi hành án đó.
Hai là: Toà án trực tiếp tổ chức thi hành án theo qui định của pháp luật.
9
Song chủ yếu ở giai đoạn này Toà án vẫn giữ vai trò chủ động trong quá
trình thi hành án và trong một số trờng hợp cần thiết Toà án phải ra quyết định
thi hành án ngay đó là:
- Vấn đề cấp dỡng;
- Trả tiền bồi thờng án phí;
- Bồi thờng thiệt hại... và một số trờng hợp khác.
Nh vậy, cùng một lúc Toà án vẫn kiêm nhiệm hai chức năng và Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 1989 không thể hiện đợc điểm mạnh của mình.
ở đây đặt ra một vấn đề là pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 qui
định chỉ có ngời đợc thi hành án mới có quyền làm đơn nộp cho Toà án yêu
cầu thi hành án mà Hiến Pháp năm 1992 qui định: Mọi công dân điều bình
đẳng trớc pháp luật đã không đợc thể chế hoá trong các điều luật một cách rõ
ràng, cụ thể, xác đáng. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 qui định ngời
phải thi hành án chỉ có quyền hoãn thi hành án trong trờng hợp đặc biệt cần
thiết hoặc đợc phía ngời đợc thi hành án và Toà án chấp nhận. Giả thiết cho
rằng nếu ngời phải thi hành án cũng muốn nộp đơn yêu cầu thi hành án thì
sao? Pháp luật của chúng ta sẽ giải quyết nh thế nào? Bởi vì trờng hợp này vẫn
thờng xảy ra sau khi có quyết định giải quyết các vụ việc của Toà án.

Sau một thời gian thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 trên
thực tế đã bộc lộ nhiều nhợc điểm cần khắc phục. Chính những nhợc điểm này
đã làm hạn chế nhiều đến kết quả của công tác thi hành án.
Theo Báo cáo tổng kết của nghành Toà án năm 1990, năm 1991, công
tác thi hành án năm 1990 và đầu năm 1991 của nhiều Toà án địa phơng thì số
lợng bản án thi hành xong chỉ đạt trên dới 30% tổng sổ bản án phải thi hành.
Điều đáng nói ở đây là trong số bản án, quyết định của Toà án cha đợc thi
hành thì một số bản án, quyết định đó không có điều kiện thi hành. Nh vậy,
việc thi hành các bản án, quyết định của Toà án không biết đến bao giờ mới
kết thúc. Toà án và ngời đợc thi hành án phải chờ đến bao giờ thì ngời phải thi
hành án mới có điều kiện thi hành bản án, ở đây phải chăng là đã có sự ùn tắc
hợp pháp ở giai đoạn này.
10
3. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
Sau 3 năm thực hiện Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 thì bản
thân nó không phù hợp với thực tế thi hành án nữa. Chính vì thế để thay thế
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1993 ra đời. Sự ra đời của Pháp lệnh này đã đáp ứng đợc nhu cầu thực tiễn
cũng nh lý luận của việc thi hành án ngày hôm nay.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra đời đánh dấu một bớc ngoặt
trong công tác phát triển của quá trình thi hành án. Từ đây,Toà án không cùng
một lúc thực hiện hai chức năng xét xử và thi hành án nữa. Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 1993 đã qui định công tác thi hành án thuộc về cơ quan thi hành
án. Lần đầu tiên công tác thi hành án dân sự đợc một cơ quan chuyên môn
đảm nhiệm. Toà án chỉ còn lại chức năng xét xử.
Trớc đây, do Toà án thực hiện cùng một lúc hai chức năng xét xử và thi
hành án mà số việc Toà án phải giải quyết rất nhiều. Khối lợng công việc xét
xử của Toà án đã chất chồng, lại thêm chức năng thi hành án thì Toà án khó có
thể giải quyết đợc hết công việc của mình. Số án tồn đọng không thi hành đợc
ngày một nhiều. Tính đến thời điểm Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 ra

đời, khi Toà án chuyển chức năng thi hành án sang cho cơ quan thi hành án
thì: tổng số án còn tồn đọng là 217877 vụ. Trong đó số án có điều kiện thi
hành là 174306 vụ, số án không có điều kiện thi hành là 43571 vụ. Trong số
174 306 vụ có điều kiện thi hành thì số án có khả năng thi hành là 149 206 vụ
và đã có 71466 vụ đã thi hành xong, 77740 vụ thi hành dở dang, 25100 vụ cha
thi hành đợc.
Chính vì những con số còn tồn đọng nhiều nh vậy nên phải chuyển chức
năng thi hành án sang cho cơ quan chuyên môn - Cơ quan thi hành án.
Cơ quan thi hành án ra đời là một tất yếu trong sự phát triển và hoàn
thiện của hệ thống T pháp Việt Nam. Cơ quan thi hành án ra đời đã góp phần
giải quyết số án tồn đọng từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm
khác. Dần dần số lợng bản án, quyết định của Toà án sẽ đợc thi hành một cách
kịp thời nhanh gọn.
11
Khác với một số nớc trên thế giới ở nớc ta do cơ quan thi hành án nằm
trong hệ thống cơ quan Nhà nớc đảm nhiệm. ở một số nớc nh Pháp, Thuỵ
Điển việc xã hội hoá công tác thi hành án dân sự rất cao. Thi hành án cũng có
thể đợc thực hiện bởi những ngời không thuộc biên chế của nhà nớc. Các cán
bộ thi hành án rất ít phải dùng biện pháp cỡng chế thi hành án.
ở nớc ta số lợng bản án đợc các bên tự nguyện thi hành là rất ít nên hầu
nh phải có sự can thiệp của cơ quan thi hành án thông qua sự hoạt động cỡng
chế của các chấp hành viên. Trong khi thực hiện các biện pháp cỡng chế chấp
hành viên là ngời nhân danh quyền lực Nhà nớc để thực hiện nhiệm vụ đợc
Nhà nớc giao cho, nh vậy mới đảm bảo đợc hiệu quả của công việc. Và điều
này hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của nớc
ta, cũng nh bản chất riêng của hoạt động thi hành án.
Giai đoạn thi hành án dân sự là một giai đoạn khó khăn, phức tạp, cho
nên để làm tốt giai đoạn này đòi hỏi các cán bộ thi hành án phải nắm chắc các
qui định cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự. Kể từ khi Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 1993 đợc ban hành đã có trên 10 năm áp dụng vào thực tiễn.

Đây là một văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong lĩnh vực thi hành án dân
sự. Trên cơ sở Pháp lệnh này, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã đợc hình
thành trong cả nớc, đa công tác thi hành án dần dần di vào nề nếp, hiệu quả thi
hành án ngày càng đợc nâng cao góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật và trật tự kỷ cơng xã hội. Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 1993 cũng không còn phù hợp, đã bộc lộ những
điểm bất cập đòi hỏi phải đợc kịp thời bổ sung, sửa đổi. Về cơ bản Pháp lệnh
thi hành án dân sự năm 1993 là sự sao y nguyên bản các quy định của Pháp
lệnh thi hành án dân sự năm 1989. Vì vậy, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1993 không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, không theo
kịp quá trình đổi mới của đất nớc ta trong thời kỳ chuyển hớng sang nền kinh
tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đờng lối của Đảng về cải
cách hành chính, cải cách t pháp. Nhiều vấn đề vớng mắc về cơ chế quản lý,
mô hình tổ chức, thủ tục thi hành án cha đợc giải quyết. Vì cơ sở pháp lý bị
12
thiếu nên tình trạng án tồn đọng ngày càng nhiều. Để khắc phục những tồn tại
trên sau một thời gian tích cực tiếp thu ý kiến đóng góp, cụ thể hoá một số chủ
trơng, chính sách về thi hành án. Sau nhiều lần chỉnh lý lấy ý kiến địa phơng
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã đợc Uỷ ban thờng vụ Quốc hội
thông qua ngày 14-1-2004 và có hiệu lực từ ngày 01- 07-2004.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đợc ban hành cũng là một bớc
phát triển mới của Pháp luật về thi hành án. Trớc hết có thể thấy rằng Pháp
lệnh này đã đợc sửa đổi bổ sung trên cơ sở Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
1993 một cách cơ bản cả về nội dung và bố cục. Về bố cục Pháp lệnh thi hành
án dân sự năm 2004 gồm 8 chơng 70 điều. Về nội dung, Pháp lệnh thi hành án
dân sự năm 2004 có nhiều qui định mới so với Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 1993 nh qui định về lệ phí thi hành án, miễn giảm thi hành án, kết thúc thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án của ngời phải thi hành án...
Tóm lại, sau một thời gian dài pháp luật về thi hành án dân sự ngày càng
hoàn thiện. Việc hoàn thiện Pháp lệnh thi hành án dân sự đã góp phần rất lớn

vào việc đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự làm cho công tác này ngày
càng đạt đợc hiệu quả.
13
Chơng II
Nội dung một số qui định cơ bản của pháp luật về thi
hành án dân sự
I. Một số qui định chung.
Khi bản án, quyết định của Toà án đã đợc đa ra thi hành, thì việc thi
hành những bản án, quyết định nhằm đảm bảo quyền lợi của các đơng sự đã đ-
ợc Toà án giải quyết theo qui định của pháp luật. Đồng thời hiệu lực của bản
án, quyết định của Toà án chính là thể hiện quyền lực của Nhà nớc, cho nên thi
hành nghiêm chỉnh những bản án, quyết định đó cũng nhằm tăng cờng trật tự,
kỷ cơng xã hội, giáo dục mọi công dân ý thức tôn trọng pháp luật.
Theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 phạm vi những bản án,
quyết định thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự rất rộng bao gồm:
- Bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế;
- Bản án, quyết định dân sự của Toà án nớc ngoài, quyết định của trọng
tài nớc ngoài đợc Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
- Quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài
sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của
Toà án hình sự;
- Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án về
hành chính;
- Quyết định tuyên bố phá sản;
- Quyết định của Trọng tài thơng mại Việt nam;
- Bản án, quyết định khác do pháp luật qui định;
Trong phần này chúng tôi xin tập trung trình bày làm rõ những qui định
cơ bản nhất của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
1. Những bản án, quyết định đợc đa ra thi hành
14

Về nguyên tắc, những bản án, quyết định của Toà án đợc đa ra thi hành
phải là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Điều 2 Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004 qui định nh sau:
-Những bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
bao gồm:
- Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
- Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
- Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
- Bản án, quyết định dân sự của Toà án nớc ngoài, quyết định của Trọng
tài nớc ngoài đã đợc Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
- Quyết định của Trọng tài thơng mại Việt nam có hiệu lực thi hành
- Những bản án, quyết định kể trên là những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nên đợc đa ra thi hành. Nhng ngoài ra Điều 2 Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004 còn qui định bản án, quyết định của Toà án đợc đa
ra thi hành án còn bao gồm những bản án, quyết định cha có hiệu lực pháp luật
nhng đợc thi hành ngay. Việc thi hành ngay những bản án, quyết định cha có
hiệu lực pháp luật có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đơng sự, đảm bảo giải quyết tốt vụ án. Các bản án, quyết định cha có hiệu lực
pháp luật đợc thi hành ngay bao gồm:
+ Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về cấp dỡng, trả lơng, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc
bồi thờng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhận ngời lao động trở lại làm việc;
+ Quyết định khẩn cấp tạm thời để đảm bảo lợi ích cấp thiết cho đơng
sự hoặc đảm bảo cho việc thi hành án.
Những bản án, quyết định cha có hiệu lực pháp luật nhng vẫn đợc pháp
luật qui định đa ra thi hành ngay là vì việc thi hành bản án, quyết định nhằm
giúp ngời đợc thi hành án khắc phục ngay những khó khăn. Nếu đợi những bản
án, quyết định này có hiệu lực pháp luật rồi mới thi hành sẽ không đảm bảo
15

kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng của đơng sự đợc Nhà nớc thừa nhận
và bảo hộ.
Trờng hợp những bản án, quyết định cha có hiệu lực pháp luật đợc thi
hành ngay khi đã đa ra thi hành mà bị kháng cáo, kháng nghị thì cơ quan thi
hành án vẫn tiếp tục cho thi hành và chỉ xoá sổ thụ lý khi có bản án, quyết định
của Toà án có thẩm quyền.
Các quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng có thể bị khiếu nại.
Việc khiếu nại không làm đình chỉ thi hành chúng. Cơ quan thi hành án chỉ
đình chỉ việc thi hành quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời bị khiếu nại khi
ngời có thẩm quyền giải quyết khiếu nại huỷ bỏ chúng hoặc đã có bản án,
quyết định của Toà án về vụ án huỷ bỏ chúng.
Nh vậy, theo Điều 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì chúng ta
thấy rằng những bản án, quyết định có hiệu lực thi hành không đồng nghĩa
với những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà những bản án, quyết
định có hiệu lực thi hành bao gồm một phạm vi rộng lớn hơn. Do vậy, những
bản án, quyết định mặc dù cha có hiệu lực pháp luật nhng đợc thi hành ngay
phải đợc đa ra thi hành theo đúng qui định của pháp luật nh bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích chính
đáng của các bên đơng sự, các vụ việc dân sự đợc giải quyết nhanh chóng và
có hiệu quả.
Khi bản án, quyết định của Toà án đợc thi hành thì Toà án đã tuyên bản
án, quyết định đó phải cấp cho ngời đợc thi hành án và ngời phải thi hành án
bản sao bản án hoặc quyết định có ghi: để thi hành. Khi các bản sao bản án,
quyết định Toà án giải thích cho ngời đợc thi hành án biết quyền làm đơn và
thi hành án.
2. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
16
Việc xác định thẩm quyền thi hành án dựa trên cơ sở nơi nào Cơ quan
thi hành án có điều kiện tổ chức thi hành án tốt thì thủ trởng Cơ quan thi hành
án nơi đó có quyền ra quyết định thi hành án.

Thông thờng cơ quan thi hành án có điều kiện tổ chức thi hành án tốt là
cơ quan thi hành án nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Trong trờng hợp khác
lại là nơi ngời phải thi hành án c trú, làm việc, có tài sản liên quan đến việc thi
hành án hoặc có trụ sở. Vì ở những nơi này chấp hành viên có điều kiện tiếp
xúc với đơng sự, xác minh tài sản của họ...thuận lợi cho việc thi hành án. Cả ba
Pháp lệnh thi hành án dân sự mà Nhà nớc đã ban hành đều xác định thẩm
quyền ra quyết định thi hành án dựa trên cơ sở đó. Căn cứ vào Điều 21 và Điều
24 của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì thủ trởng cơ quan thi hành
án nơi Toà án đã xét xử sơ thẩm có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có
quyền uỷ thác cho cơ quan thi hành án nơi ngời phải thi hành án c trú, làm việc
hoặc có tài sản, trụ sở liên quan đến việc thi hành án ra quyết định thi hành án.
Các cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh, cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện và cơ quan thi hành án trong
quân đội. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án của các cơ quan này qui định
tại Điều 21 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 nh sau:
Thủ trởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh ra quyết định thi hành các bản
án quyết định sau:
+ Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ơng;
+ Bản án, quyết định thuộc thẩm quyền ra quyết định thi hành án của
thủ trởng Cơ quan thi hành án cấp huyện nhng do tính chất phức tạp liên quan
đến nhiều huyện mà thấy cần thiết lấy lên để thi hành;
+ Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi
hành án cấp tỉnh;
+ Bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác;
+ Bản án dân sự của Toà án nớc ngoài, quyết định của Trọng tài nớc
ngoài đợc Toà án Việt nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
17
+ Quyết định của Trọng tài thơng mại Việt Nam.
Thủ trởng Cơ quan thi hành án quân khu ra quyết định thi hành các bản

án, quyết định sau:
+ Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự quân
khu, Toà án quân sự khu vực trên địa bàn của Toà án quân sự quân khu;
+ Quyết định về tài sản trong bản án hình sự của Toà án quân sự Trung -
ơng chuyển giao cho Cơ quan thi hành án cấp quân khu;
+ Bản án, quyết định của Toà án nhân dân tối cao gửi cho cơ quan thi
hành án cấp quân khu;
+ Bản án quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.
Thủ trởng Cơ quan thi hành án cấp huyện ra quyết định bản án, quyết
định sơ thẩm của Toà án cấp huyện; bản án, quyết định phúc thẩm của Toà án
cấp tỉnh; bản án, quyết định Toà án nhân dân tối cao gửi cho Cơ quan thi hành
án cấp huyện; bản án, quyết định do Cơ quan thi hành án nơi khác uỷ thác.
3. Uỷ thác thi hành án
Việc uỷ thác thi hành án là việc Cơ quan thi hành án có thẩm quyền
giao lại việc thi hành án cho Cơ quan thi hành án khác. Để đảm bảo việc thi
hành án, pháp luật qui định trong trờng hợp bản án, quyết định có liên quan
đến nhiều ngời phải thi hành án mà những ngời này c trú ở nhiều nơi khác
nhau, hoặc tài sản thu nhập của họ ở những nơi khác nhau, ngời phải thi hành
án chuyển đi nơi khác thì cần phải uỷ thác thi hành án. Với những trờng hợp
này, việc uỷ thác thi hành án nhằm đảm bảo việc thi hành án có hiệu quả, bảo
vệ quyền lợi chính đáng của nhà nớc, của xã hội và của mọi công dân. Trớc
đây việc uỷ thác thi hành án đợc qui định tại Điều 4 Pháp lệnh thi hành án dân
sự năm 1993 và Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 5 Nghị định 69/CP ngày
18/10/1993 của Chính Phủ. Hiện nay, uỷ thác thi hành án dân sự đợc qui định
tại Điều 24 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Thẩm quyền ra quyết định uỷ thác thuộc thủ trởng Cơ quan thi hành án
cấp tỉnh, thủ trởng Cơ quan thi hành án quân sự và thủ trởng Cơ quan thi hành
án cấp huyện. Khi uỷ thác phải ra quyết định uỷ thác thời hạn ra quyết định uỷ
18
thác không quá 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định có căn cứ uỷ thác.

Quyết định uỷ thác ghi rõ nội dung uỷ thác, khoản đã thi hành xong, khoản
đang thi hành dang dở, khoản tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho
việc thực hiện uỷ thác. Nếu đã ra quyết định thi hành án khi uỷ thác phải thu
hồi lại quyết định thi hành án đã ra. Quyết định uỷ thác gửi kèm theo bản sao
bản án, quyết định, bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản nếu có. Cơ quan
thi hành án đã uỷ thác có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án
chuyển giao bản án, quyết định, Viện kiểm sát cùng cấp và ngời đợc thi hành
án biết việc uỷ thác.
Khi bản án, quyết định đợc đa ra thi hành theo đơn yêu cầu của ngời đợc
thi hành án thì phải có quyết định thi hành án của ngời có thẩm quyền mà ở
đây là thủ trởng Cơ quan thi hành án. Trớc khi đa bản án, quyết định ra thi
hành thủ trởng Cơ quan thi hành án phải xác định có đủ cơ sở pháp lý để đa ra
thi hành cha ( nh: bản án, quyết định có hiệu lực thi hành không; ngời làm đơn
thi hành án có phải ngời đợc thi hành án không...). Nếu có đủ cơ sở pháp lý để
đa bản án, quyết định ra thi hành thì thủ trởng cơ quan thi hành án ra quyết
định thi hành án. Thẩm quyền ra quyết định thi hành án trong trờng hợp phải
uỷ thác thì các quyết định cũng tơng tự nh đối với trờng hợp thi hành án theo
đơn yêu cầu. Việc vào sổ bản sao, quyết định việc vào sổ thụ lý, việc thi hành
án cũng đợc thực hiện nh đối với trờng hợp thi hành án theo đơn yêu cầu. Đối
với trờng hợp chủ động thi hành án cơ quan thi hành án nhận đợc uỷ thác mà
không có điều kiện thực hiện uỷ thác thì sẽ uỷ thác tiếp cho cơ quan thi hành
án nơi có điều kiện thi hành. Đối với những bản án, quyết định của Toà án đợc
đa ra thi hành theo yêu cầu của đơng sự thì Cơ quan thi hành án nhận uỷ thác
trả lại đơn yêu cầu thi hành án cho đơng sự và hớng dẫn cho họ đến Cơ quan
thi hành án có thẩm quyền yêu cầu thi hành án trong trờng hợp cơ quan này
không có điều kiện thi hành.
II. Thủ tục thi hành án dân sự
1. Cấp, chuyển giao bản sao bản án, quyết định
a, Thủ tục cấp bản sao bản án, quyết định.
19

Nhiệm vụ của thi hành án dân sự là phải thi hành nghiêm chỉnh kịp thời,
đúng đắn bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án . Vì vậy theo
qui định tại Điều 18 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì khi bản án,
quyết định có hiệu lực thi hành thì Toà án có nghĩa vụ cấp cho ngời đợc thi
hành án và ngời phải thi hành án bản sao bản án, quyết định có ghi để thi
hành. Việc cấp bản sao bản án, quyết định trong thời điểm này nhằm làm cơ
sở để ngời phải thi hành án thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đợc qui định
trong bản án, quyết định của Toà án. Đồng thời làm căn cứ để ngời đợc thi
hành án thực hiện yêu cầu thi hành án của mình. Để đảm bảo quyền lợi cho
ngời đợc thi hành án, khi cấp bản sao bản án, quyết định Toà án đồng thời phải
giải thích luôn cho họ biết quyền làm đơn yêu cầu thi hành án, thời hiệu thi
hành án và các vấn đề khác có liên quan đến việc thi hành án nh: quyền yêu
cầu hoãn thi hành án, quyền yêu cầu không thi hành án một phần hay toàn bộ
bản án, quyết định của Toà án.
Pháp luật tố tụng không qui định cụ thể thời hạn cấp bản sao bản án,
quyết định của Toà án cho đơng sự. Nhng về nguyên tắc, kể từ khi bản án,
quyết định đợc thi hành thì Toà án phải cấp cho đơng sự. Việc cấp bản sao bản
án, quyết định của Toà án đợc tiến hành trong một thời hạn nhất định. Đối với
bản án, quyết định sơ thẩm Toà án cấp ngay sau khi hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị mà đơng sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
Đối với bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm thì ngay sau khi Toà án xét xử xong phải cấp ngay cho đơng sự
bản sao bản án, quyết định đó.
b, Thủ tục chuyển giao bản sao bản án, quyết định của Toà án cho cơ
quan thi hành án .
Ngoài thủ tục cấp bản sao bản án, quyết định của Toà án cho đơng sự
Toà án còn có nghĩa vụ chuyển giao bản sao bản án, quyết định cho cơ quan
thi hành án bởi lý do sau:
Thứ nhất, bên cạnh quyền yêu cầu thi hành án của đơng sự, Pháp luật
còn qui định cho cơ quan thi hành án quyền chủ động đa ra thi hành án những

20

×