Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Hcmute công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học sư phạm kỹ thuật tp hồ chí minh trong giai đoạn hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.19 MB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ÐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG TRỌNG ÐIỂM

CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAYTHỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Mã số: T2015 - 137

Chủ nhiệm đề tài: THS. GV. LÊ QUANG CHUNG

SKC005606

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11/2015

Luan van


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KH&CN CẤP TRƯỜNG

CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT THÀNH PHỐ HỒ


CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Mã số: T2015 - 137

Chủ nhiệm đề tài: Ths. LÊ QUANG CHUNG

TP. HCM, THÁNG 11 NĂM 2015

Luan van


DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
Họ và tên: Lê Quang Chung

Học vị: Thạc sĩ

Chức danh khoa học:

Năm sinh: 1988

Đơn vị công tác: Khoa Lý luận chính trị

Di động: 01632 186 368

Email:
THÀNH VIÊN THAM GIA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Thứ tự

Họ và tên


Đơn vị công tác
và lĩnh vực
chuyên môn

Nội dung nghiên
cứu cụ thể được
giao

Chữ ký

1.
2.
3.
ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
Tên đơn vị trong và ngồi nước

Nội dung phối hợp nghiên cứu

Luan van

Họ và tên người
đại diện đơn vị


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài .................................................... 1
2. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................................. 2
3. Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 6

5. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 6
6. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1: ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY ......................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề nhận thức về đạo đức ........................................................................... 7
1.2. Tầm quan trọng và nội dung của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ................. 14
1.2.1. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên ................................ 14
1.2.2. Nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay ........................ 25
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH THỜI GIAN QUA .........34

2.1. Giáo dục đạo đức cho sinh viên thông qua việc giảng dạy và học tập các môn học,
nhất là các môn khoa học Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh ......................................... 34
2.2. Tác động của các phong trào chính trị - xã hội đối với hoạt động giáo dục đạo đức
cho sinh viên ........................................................................................................................ 36
2.3. Giáo dục đạo đức qua quá trình tự giáo dục, rèn luyện, tu dƣỡng của sinh viên.......... 38
CHƢƠNG 3: NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC
SƢ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ............ 41
3.1. Nguyên nhân của thực trạng công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Nhà
trƣờng................................................................................................................................... 41
3.1.1. Nguyên nhân của những thành tựu ........................................................................... 41
3.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế ............................................................................. 42
3.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên trong Nhà trƣờng hiện nay ........................................................................................... 43

Luan van


KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 45

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 48
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 49

Luan van


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN VỊ
Tp. HCM, ngày 29 tháng 10 năm 2015

THƠNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Thơng tin chung:

- Tên đề tài: “Công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm
Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và giải pháp”.
- Mã số: T2015 - 137
- Chủ nhiệm: Ths. Lê Quang Chung
- Cơ quan chủ trì: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
- Thời gian thực hiện: 12 tháng
2. Mục tiêu:
Nghiên cứu làm rõ thực trạng, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp.
Hồ Chí Minh hiện nay.
3. Tính mới và sáng tạo:
- Chưa có đề tài nào trước đó nghiên cứu về thực trạng công tác giáo dục đạo đức

cho sinh viên tại Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.
- Đề tài đã trình này những nội dung cơ bản về thực trạng của công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên thời gian qua, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Nhà trường hiện
nay.
4. Kết quả nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tầm quan trọng của công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng của cơng tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Nhà
trường thời gian qua.

Luan van


- Chỉ ra nguyên nhân chủ yếu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công
tác giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay.
5. Sản phẩm:
Sản phẩm của đề tài là tài liệu dùng để phục vụ cho việc tìm hiểu về đạo đức, tầm quan
trọng của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay; về thực trạng của công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên trong Nhà trường thời gian qua, nguyên nhân, giải pháp nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Nhà trường hiện nay. Đồng thời, những kết quả
nghiên cứu có được của đề tài sẽ góp phần định hướng cơng tác giảng dạy các môn học khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, pháp luật đại cương… nhằm mục đích tăng cường
công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trong Nhà trường hiện nay.
6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng:
Là tài liệu mang tính chất tuyên truyền về đạo đức và tầm quan trọng của công tác giáo
dục đạo đức cho sinh viên hiện nay, đề tài mong muốn tác động đến ý thức của giảng viên, sinh
viên về ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho sinh viên, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của
cơng tác giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức cho sinh viên nối riêng ở trong Nhà trường, đào
tạo nên lực lượng nhân lực trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên” cho đất nước.

Sau khi hoàn thành, đề tài được chuyên giao cho Thư viện trường, Khoa Lý luận chính trị
làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các giảng viên, sinh viên quan tâm đến nội dung của đề
tài; Chuyển giao cho Phòng Quản lý khoa học và Quan hệ quốc tế quản lý.

Trưởng Đơn vị
(ký, họ và tên)

Chủ nhiệm đề tài
(ký, họ và tên)

Nguyễn Đình Cả

Lê Quang Chung

Luan van


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Sinh viên là một bộ phận không tách rời của thanh niên, đồng thời là một bộ phận
tương lai của đội ngũ trí thức nước nhà; là lực lượng có uy tín trong xã hội trội hơn các
thành phần thanh niên khác cùng lứa tuổi về mặt học vấn. Sinh viên là đối tượng có thái
độ nhạy cảm, dễ tiếp thu cái mới, có ý chí, bản lĩnh trong cuộc sống, hăng say sáng tạo
trong cơng việc, có hồi bão, ước mơ, lý tưởng và niềm tin hướng tới tương lai.
Tuy nhiên, chính sự nhảy cảm và dễ tiếp thu cái mới, cái lạ của sinh viên thường
thiếu cân nhắc, thiếu chọn lọc những ảnh hưởng của các trào lưu, tư tưởng văn hóa từ
bên ngồi, đặc biệt là trong điều kiện cơng nghệ thơng tin ngày càng phát triển mạnh

mẽ. Điều đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến sự hình thành nhân cách của sinh viên.
Bên cạnh đó, ở độ tuổi này, nhận thức về cuộc sống, quan điểm sống của sinh viên
còn đang trong quá trình hình thành và từng bước đi vào ổn định nhưng lại chưa được
trải nghiệm thực tế cuộc sống nhiều. Do đó, trong nhận thức và hành động cịn thiếu
vững chắc, thiếu bản lĩnh, cịn mang tính tự phát và dễ bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo tham
gia vào các hoạt động không lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến bản thân, gia đình và xã
hội. Một bộ phận sinh viên cịn có thái độ trơng chờ, ỷ lại, không nỗ lực phấn đấu, tu
dưỡng, rèn luyện bản thân, hoặc thờ ơ, bàng quan trước đời sống chính trị - xã hội, ngại
tham gia các hoạt động đoàn thể xã hội, mơ hồ về lý tưởng cách mạng, không xác định
được mục tiêu, lý tưởng cuộc sống.
Hội thảo toàn quốc về giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên do Bộ
Giáo dục và Đào tạo tổ chức tại Hà Nội ngày 11/4/2014 đã nhận định rằng: Trong số
hơn 22 triệu học sinh, sinh viên trên cả nước, số học sinh, sinh viên có đạo đức, lối sống
không tốt tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng đã gây bao băn khoăn, lo lắng cho xã hội bởi
những hậu quả do sự xuống cấp về đạo đức, lối sống. Vì vậy, cơng tác giáo dục đạo
đức, lối sống, trang bị kỹ năng cho học sinh, sinh viên là công tác quan trọng, thường
xuyên, liên tục của ngành giáo dục, của những người làm công tác giáo dục và của toàn
xã hội.
Là một giảng viên, nhận thấy sự cần thiết và tầm quan trọng của vấn đề giáo dục
đạo đức cho sinh viên khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường là lý do để tôi chọn đề tài
1

Luan van


“Công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay- thực trạng và giải pháp” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Có thể nói rằng, vấn đề giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho

sinh viên nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà
nước, của các nhà nghiên cứu, các học giả, cũng như của các tổ chức chính trị, xã
hội, nghề nghiệp khác nhau. Trong đó có thể kể đến một số tác giả và cơng trình tiểu
biểu như sau:
Trong các tác phẩm: “Lời nói đầu phê phán triết học pháp luật của Hêghen”,
“Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, “Chống Đuyrinh”…
đứng trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định đạo đức là sản phẩm của điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Ý thức
đạo đức là sản phẩm của những hình thái kinh tế - xã hội cụ thể, nó phản ánh thực
tiễn đạo đức của xã hội, “xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới
nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn
luôn là đạo đức của giai cấp”. Trong đó, nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ
kinh tế mà lợi ích là cái chi phối trực tiếp, là cơ sở khách quan của đạo đức. Các ông
đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức có tính chất duy tâm, tơn giáo, phi
lịch sử. Các khái niệm, phạm trù đạo đức được sử dụng trong tác phẩm như: thiện,
ác, lương tâm, danh dự, vị tha, vị kỷ… đã được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa, lọc
bỏ những nội dung có tính chất duy tâm, tôn giáo…, đem lại cho chúng những nội
dung mới, đặt nền tảng cho một nền đạo đức khoa học - đạo đức cộngsản.
V.I.Lênin trong cơng trình nghiên cứu của mình đã viết: “Đạo đức giúp cho xã
hội lồi người tiến lên cao hơn, thốt khỏi ách bóc lột lao động”. Như vậy, theo quan
điểm mácxít, đạo đức khơng phải xuất hiện từ bên ngoài xã hội. Sự xuất hiện của đạo
đức là do nhu cầu khách quan của sự phát triển nhận thức, của đời sống xã hội, mà
trước hết là do nhu cầu liên kết giữa con người với nhau trong lao động sản xuất,
trong đấu tranh… Vì thế, “đối với chúng ta, đạo đức ở ngoài xã hội loài người
2

Luan van



thìkhơng thể có được; đó là lừa bịp”.
Trên nền tảng phương pháp luận Mác-Lênin, đã xuất hiện các cơng trình khoa
học về đạo đức, cả trong và ngoàinước.
Trong rất nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của mình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln nhấn mạnh vai trị, tầm quan trọng của đạo đức và việc giáo dục đạo đức
đối với việc hình thành, phát triển và bồi dưỡng nhân cách. Trong đó, nổi bật nhất là
tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hồ Chí Minh viết năm 1927, là cuốn sách bồi
dưỡng cho lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam đi theo học thuyết Mác Lênin và con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - con đường cách mạng
vô sản mà Người đã lựachọn.
Mở đầu cuốn sách - bài nói về “Tư cách một người cách mệnh”, Hồ Chí Minh
đã nêu lên một quan điểm lớn: phải có cái đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có “cái trí”
thì “cái đức” chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà
mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo. Những khái niệm như: trung, hiếu, nhân,
nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính… đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước trước
công nguyên; khái niệm dân chủ, tự do, công bằng, bác ái đã xuất hiện từ thời cổ đại
Hy Lạp - La Mã, chúng đã bị xuyên tạc trong nhiều thế kỷ qua, nhưng Hồ Chí Minh
đã đưa vào đó những nội dung mới, đồng thời, bổ sung những khái niệm, những
phạm trù đạo đức của thời đại mới. Vì vậy, những giá trị đạo đức mới đã được hoà
nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Hơn nữa, những giá trị đạo
đức truyền thống lại được nâng lên tầm caomới.
Tác phẩm “Giáo dục con người chân chính như thế nào?” của
V.A.Xukhơmlinxki, dưới hình thức những lời khuyên bảo của nhàgiáo
dục với trẻ em, thanh thiếu niên và những lời của tác giả nói với các nhà giáo dục,
trước hết là với các thầy giáo, cơ giáo. V.A.Xu-khơm-lin-xki trình bày một cách cụ
thể, sinh động, hấp dẫn các phạm trù đạo đức, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức
cùng phương pháp hình thành chúng trong học sinh. Giáo dục cho học sinh biết sống
đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối với bản thân và đối với người khác.
“Muốn cho lý tưởng đạo đức trở thành hiện thực, cần dạy cho con người biết sống

3


Luan van


đúng, hành động đúng, có thái độ đúng đối với bản thân và đối với người khác”.
V.A.Xukhômlinxki đã nhấn mạnh giáo dục đạo lý làm người như một điều hệ
trọng bậc nhất, đối với thế hệ trẻ, từ trẻ thơ trong giáo dục mầm non đến thanh thiếu
niên trong giáo dục phổ thông và đại học. Điều hệ trọng ấy chính là làm cho mỗi con
người, từ khi cịn là một đứa trẻ đến khi trưởng thành, khôn lớn và vào đời, trong trái
tim và tâm hồn của nó ln ln nảy nở những tình cảm cao thượng, đẹp đẽ, hướng
tới những gì tốt đẹp nhất của con người và cuộc sống, để làm cho con người có “khát
vọng nhìn thấy vẻ đẹp của con người và của tâm hồn con người, củng cố cái đẹp
trong bản thân mình, khinh ghét sự hèn nhát, sự yếu đuối và sự nhu nhược”. Lòng
nhân hậu, vị tha là cội nguồn và là nền tảng vững chắc của những tình cảm đẹp đẽ ấy,
mà thiếu nó, con người khơng thể có được đời sống tinh thần phong phú, sự nhạy
cảm và tâm hồn dễ xúc động trước những cuộc đời và số phận con người. Đó là sự
qn mình, là làm cho đứa trẻ sớm biết quan tâm tới những niềm vui và nỗi đau của
người khác, rằng nó cần phải sống tốt đẹp, lương thiện và tử tế, vì nó cần cho những
người khác, nó sống vì người khác. Đó là chỗ sâu sắc nhất của nhân tính. Phát triển
và hồn thiện nhân tính, đó là chức năng cơ bản của giáo dục đạo đức. Vì thế, văn
hóa đạo đức trở thành thước đo hàng đầu về văn hóa làm người của mỗi cá nhân. Tuy
nhiên, tác giả cũng đã nhấn mạnh về vai trò của người giáo viên - với tư cách là một
nhà giáo dục khi và chỉ khi họ “nắm vững công cụ giáo dục vô cùng tinh tế là khoa
học về đạo đức - đạo đức học. Đạo đức học trong trường phổ thơng - đó là “triết học
thực hành về giáo dục”.
Cuốn sách: “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” của các tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc, các tác giả chỉ rõ
mặt tích cực của nền kinh tế thị trường là đã tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát
triển, song mặt khác kinh tế thị trường đã có những tác động tiêu cực nhất định tới
các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức. Vì vậy, để lý giải rõ

những vấn đề đạo đức nảy sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay, cần phải thấy rõ vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh
thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, để từ đó xây dựng đạo đức phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

4
Luan van


Cuốn sách: “Mấy vấn đề về đạo đức học mácxít và xây dựng đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”của tác giả Nguyễn
Thế Kiệt, đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về đạo đức như: Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, quy luật vận động và phát triển của đạo đức; Đạo đức mới,
vai trò và các nguyên tắc của đạo đức mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa); Xây dựng đạo
đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Cuốn sách “Tập bài giảng đạo đức học” của tác giả Phạm Văn Chung, đã góp
phần làm sáng tỏ và cụ thể hơn về lịch sử, lý luận và thực tiễn những vấn đề, nội
dung đạo đức cơ bản, quan trọng vốn được nêu lên và giải đáp trong lịch sử và lý
luận đạo đức như: bản chất, tính chất, nguồn gốc, cơ sở của đạo đức, của các phạm
trù: thiện, ác, hạnh phúc, lương tâm, nghĩa vụ, lẽ sống. Tác giả đã xem xét mối liên
hệ bên trong giữa các phạm trù, quan niệm đạo đức học theo một trình tự nhất định
trong hệ thống của chúng và cuối mỗi bài thường có sự nhận định về vị trí và ý nghĩa
của mỗi phạm trù, quan niệm saunày.
Luận án tiến sỹ triết học: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Sỹ Phán, đã
làm sáng tỏ thực chất, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách của con người nói chung và sự hình thành
và phát triển nhân cách của sinh viên Việt Nam nói riêng trong bối cảnh nền kinh tế
thị trường, giao lưu hội nhập mở cửa hiện nay. Tác giả khẳng định:Để phát triển giáo
dục, đào tạo theo hướng cân đối giữa “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”, trong đó “dạy

người” là mục tiêu cao nhất, trước mắt cần tăng cường hơn nữa công tác giáo dục
đạo đức cho sinh viên để hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức, những
giá trị nhân cách trong họ, mà sự phát triển những phẩm chất đạo đức, những giá trị
nhân cách là nội dung cơ bản và là mục tiêu trực tiếp của giáo dục đạo đức.
Song, trước xu thế phát triển mới của thời đại, của quá trình khu vực hóa, tồn
cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đang đặt chúng ta đứng trước những nguy cơ về
sự suy thoái, băng hoại đạo đức, lối sống, truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy,
việc nghiên cứu các giá trị đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên - một
lực lượng quan trọng của đất nước - ngày hôm nay và mai sau là không bao giờ đủ.

5
Luan van


Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa thành tựu những cơng trình nghiên cứu đã có, vận dụng
phù hợp với điều kiện thực tế của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ
Chí Minh, tác giả mong muốn góp phần nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên của nhà trường thông qua kết quả nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài làm sáng tỏ vai trò, nội dung, thực trạng của công tác giáo dục đạo đức
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh thời gian
qua, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo
đức cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu

Giảng viên và sinh viên đang giảng dạy và học tập tại Trường Đại học Sư phạm

Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
-

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu đạo đức và công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
5. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cách tiếp cận
Khảo sát trực tiếp giảng viên và sinh viên.
- Phương pháp nghiên cứu
Lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch, so sánh đối chiếu, điều
tra phỏng vấn
6. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Đạo đức và tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên hiện nay
Chương 2: Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua
Chương 3: Nguyên nhân và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay.
6

Luan van


CHƢƠNG 1
ĐẠO ĐỨC VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY


1.1. Một số vấn đề nhận thức về đạo đức
Là một hình thái ý thức xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, đạo
đức nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự phát triển lịch sử.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: Trước khi sáng lập các thứ lý luận và
nguyên tắc, bao gồm cả triết học và lý luận học, con người đã hoạt động, tức là sản
xuất là sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. “Trong sự sản xuất xã
hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, khơng tùy
thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp
với một trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên
đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định, tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[10, tr.14 - 15].
Đạo đức phản ánh một lĩnh vực riêng biệt trong tồn tại xã hội của con người. Khi
nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định
giữa người với người trong sự giao dịch với nhau hàng ngày. Lề thói và tập tục biểu
hiện thành khuôn phép và quy tắc hành vi tồn tại; những khuôn phép và quy tắc được
công luận của xã hội hay một giai cấp thừa nhận.
Tư tưởng chính trị, pháp luật, đạo đức, tơn giáo, triết học… đều là những hình
thái ý thức xã hội riêng biệt, hình thái trong lịch sử và phản ánh các lĩnh vực khác
nhau của tồn tại xã hội và tác dụng riêng biệt đối với đời sống xã hội. Toàn bộ tư
tưởng thể hiện trong các hình thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ
điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, từ tồn tại xã hội của con người trong thời đại
đó, ý thức của con người là sự phản ánh tồn tại xã hội của con người. Các quan điểm
đạo đức chính là sản phẩm của các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos (moris) - lề thói (moralis
nghĩa là có liên quan về lề thói, đạo nghĩa). Cịn “ln lý” được xem như đồng nghĩa

7

Luan van



với “đạo đức” có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói đến đạo đức
là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người
trong sự giao tiếp với nhau hằng ngày. Sau này, người ta thường phân biệt hai khái
niệm: moral là đạo đức, còn ethicos là đạo đức học. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng khi
ta nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định
giữa người với người trong sự giao dịch với nhau hằng ngày. Lề thói và tập tục biểu
hiện thành khuôn phép và quy tắc hành vi tồn tại; những khuôn phép và quy tắc được
công luận của xã hội hay của một giai cấp thừa nhận.
Sự đánh giá hành vi của con người theo khuôn phép và quy tắc đạo đức biểu
hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa.
Những khái niệm này thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân
tộc khác và trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp
nhất định. Khuôn phép và quy tắc đạo đức là yêu cầu của cả xã hội hoặc của một giai
cấp nhất định đề ra cho hành vi của mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân đối
với xã hội (đối với Tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối kháng…) và đối
với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được công luận của
xã hội, hay của một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ
của mình đối với xã hội và đối với người khác (khuôn phép hành vi) là tiền đề của
hành vi đạo đức cá nhân. Là một thành viên của xã hội, con người phải chịu một sự
giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh giá đối với hành vi của mình và
trong những hồn cảnh nào đó còn chịu sự khiển trách của lương tâm… Cá nhân phải
có trách nhiệm chuyển những địi hỏi của xã hội và những thể hiện của chúng thành
nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của mình. Biểu hiện của sự chuyển
hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn cấm, những khuyến khích, những
chuẩn mực cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội… Do vậy, sự điều chỉnh đạo
đức mang tính tự nguyện và - xét về bản chất - đạo đức là sự tự do lựa chọn của con
người.
Chủ nghĩa Mác -Lênin quan niệm rằng, kiến trúc thượng tầng được hình thành

trên cơ sở hạ tầng và nó sẽ thay đổi theo sự thay đổi của cơ sở hạ tầng. Kiến trúc
thượng tầng liên hệ với sản xuất qua cơ sở hạ tầng và phản ánh sự biến đổi trong sản
xuất. Sự biến đổi này chỉ có thể phát sinh khi đã có sự biến đổi trong cơ sở hạ tầng.
8

Luan van


Kiến trúc thượng tầng cũng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có
giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Như vậy, sự phát sinh và phát triển
của đạo đức - xét đến cùng - là một quá trình do sự phát triển của phương thức sản
xuất quyết định. Về cơ bản, đạo đức có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người bên
cạnh các phương thức khác như phong tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật… Đối với
đạo đức, sự đánh giá hành vi con người theo khuôn phép chuẩn mực và quy tắc đạo
đức biểu hiện thành những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi
nghĩa. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai
cấp nhất định. Những khuôn phép (chuẩn mực) và quy tắc đạo đức là yêu cầu xã của
xã hội hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi
của cá nhân đối với xã hội và đối với người khác.
Thứ hai, đạo đức là một hệ thống các giá trị. Đạo đức là một hiện tượng xã hội,
mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo đức thường
biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc là phụ định lợi ích chính đáng hoặc khơng
chính đáng nào đó. Có nghĩa, nó bày tỏ sự tán thành hay phản đối trước thái độ hoặc
hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với cộng đồng trong một xã hội nhất
định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung hợp thành hệ thống giá trị xã hội. Sự hình
thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức khơng tách rời sự phát triển và
hồn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức
phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ thống đó có tính tích cực, mang tính nhân
đạo; ngược lại, hệ thống đó mang tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.

Thứ ba, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh
hiện thực đạo đức xã hội.Đạo đức cũng như các quan điểm triết học, chính trị, nghệ
thuật, tơn giáo, đều mang tính chất của kiến trúc thượng tầng. Chế độ kinh tế - xã hội
là nguồn gốc quan điểm về đạo đức con người. các quan điểm này thay đổi cùng với
sự thay đổi của cơ sở hạ tầng đã sinh ra chúng. Cơ sở kinh tế xã hội mới cũng có
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, khn phép hành vi mới thích ứng với nó. Ví dụ:
thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người nơng nô bị cột
chặt vào ruộng đất là đạo đức xã hội nơng nơ. Thích ứng với chế độ tư bản dựa trên cơ
sở bóc lột người cơng nhân làm th là đạo đức tư sản. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra
9

Luan van


một nền đạo đức mới biểu hiện mối quan hệ hớp tác trên tình đồng chí và quan hệ
tương trợ lẫn nhau của những người lao động đã được giải phóng khỏi cách bóc lột.
Như vậy, sự phát sinh và phát triển của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự
phát triển của phương thức sản xuất quyết định.
Trong tác phẩm Chống Đuy rinh, Ph.Ăng ghen đã khẳng định rằng, thực chất và
xét đến cùng, các nguyên tắc, chuẩn mực, quan điểm đạo đức chẳng qua chỉ là sản
phẩm và quan hệ tương trợ lẫn nhaucủa các chế độ kinh tế, các thời đại kinh tế mà
thôi.
Thứ tư, trong xã hội có giai cấp, đạo đức mang tính giai cấp. Tính giai cấp là một
trong những biểu hiện bản chất xã hội của đạo đức. Các nhà triết học trước C.Mác và
ngồi mácxít hoặc là khơng thấy tính giai cấp của đạo đức, hoặc là cố tình phụ nhận
tính giai cấp của đạo đức. Vì vậy, họ thường tuyệt đối hóa tinh thần nhân loại phổ
biến của đạo đức và tuyên truyền cho những chuẩn mực, những giá trị đạo đức chung
chung có thể áp dụng cho mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi giai cấp.
Chủ nghĩa Mác -Lênin khơng phủ nhận tính phổ biến tồn nhân loại của đạo
đức, nhưng khẳng định rằng, trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì khơng

thể có một nền đạo đức chung thống nhất cho mọi giai cấp. Ph.Ăng ghen chỉ rõ: “Con
người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo đức của
mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ
những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi” [11, tr.136]. Vì vậy,
trong xã hội có giai cấp đối kháng, tương ứng với mỗi giai cấp nhất định là một hệ
thống đạo đức nhất định biện hộ cho lợi ích của giai cấp đó. “Cho đến nay xã hội đã
vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là đạo đức
của giai cấp” [11, tr.137]. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, phản
ánh và khẳng định lợi ích của mỗi giai cấp. Mỗi giai cấp đều sử dụng đạo đức của
mình như là cơng cụ bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, hệ thống đạo đức được áp
đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là hệ thống đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù,
trong cuộc sống hằng ngày, mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo những lợi ích trực tiếp của
mình.Cịn giai cấp bị trị, do bị tước đoạt mất những điều kiện và tư liệu sản xuất tinh
thần, các giai cấp bị thống trị khơng thể đạo đức của mình ngang tầm với đạo đức của
giai cấp thống trị. Hệ thống này luôn bị chèn ép và do đó kém phát triển. Chính vì
10

Luan van


vậy, đạo đức của giai cấp bị trị không đủ điều kiện để ảnh hưởng đến toàn bộ các
thành viên của giai cấp mình. Nó tồn tại như cái khơng chính thống, khơng phổ biến
bằng đạo đức của giai cấp thống trị, vì các giai cấp bị trị khơng có điều kiện để sản
xuất, tuyên truyền và sử dụng đạo đức của mình trên phạm vi tồn xã hội.
Sự phân biệt giai cấp là một hiện tượng có tính lịch sử, do vậy, tính giai cấp của
đạo đức cũng có tính lịch sử. Sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng làm cho
đạo đức xã hội mang đi tính thống nhất ban đầu của nó. Truyền thống đạo đức của xã
hội nguyên thủy được tiếp tục trong đạo đức của những người lao động, những người
bóc lột. Trong giai cấp thống trị coi thường lao động và người lao động. Điều đó được
phản ánh vào trong đạo đức học. Các học thuyết đạo đức chính thống - tức là những

học thuyết đạo đức biện hộ cho địa vị, sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị đều
cho rằng, những phẩm chất, những đức tính như: sự cơng minh, tính hào hiệp, lịng
dũng cảm… là thuộc về những người thuộc tầng lớp trên của xã hội, cịn những thói
xấu về mặt đạo đức, sự phục tùng… là bản chất của những người ở tầng lớp dưới. Ví
dụ như Platon cho rằng, chỉ có một số ít người ưu tú mới có năng lực đạo đức, cịn đại
bộ phận dân chúng khơng có năng lực đạo đức, chỉ có năng lực đạt đến sự khuất phục.
Cịn Khổng Tử khẳng định, người quân tử cầu nghĩa, kẻ tiểu nhân cầu lợi…
Trong xã hội có giai cáp, ngồi những giai cấp đối kháng còn tồn tại những giai
cấp và tầng lớp trung gian: những người bình dân, tiểu tư hữu. Đạo đức của các giai
cấp, tầng lớp này thường đan xen những chuẩn mực của cả giai cấp thống trị lẫn bị trị.
Đạo đức của giai cấp thống trị khơng chỉ tác động trong giai cấp thống trị, mà
cịn ảnh hưởng nhất định đến những giai cấp khác. Ví dụ, thái độ coi thường lao động,
trọng nam khinh nữ, thói gia trưởng… vốn là đạo đức của giai cấp phong kiến, nhưng
trong chừng mực nhất định đã ảnh hưởng tới nhân dân lao động.
Cùng với tính giai cấp, tính dân tộc cũng là một trong những biểu hiện bản chất
xã hội của đạo đức. Có sự khác nhau về chuẩn mực đạo đức, những đức tính và thói
xấu giữa các dân tộc khác nhau. Sự khác nhau đó xuất phát từ sự khác nhau trong điều
kiện sinh hoạt vật chất, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất khơng giống nhau. Ví dụ, khi các quốc gia phương Tây đã ở trình độ văn minh
công nghiệp, đã thiết lập các quan hệ tư bản trên mọi lĩnh vực xã hội thì các quốc gia
phương Đơng cịn ở tình trạng tiền tư bản. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đòi hỏi
11

Luan van


những chuẩn mực và những giá trị đạo đức khác với nền sản xuất nông nghiệp của xã
hội tiền tư bản. Bởi vậy, giữa các quốc gia phương Đông và các quốc gia phương Tây
còn tồn tại khá nhiều khác biệt về các chuẩn mực và giá trị đạo đức. Ở phương Tây,
những đức tính, chuẩn mực, giá trị đạo đức gắn liền và phản ánh những yêu cầu phát

triển của kinh tế thị trường. Tinh thần thực tế, tính tháo vát, năng động, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm, khát vọng làm giàu, chủ nghĩa cá nhân, ý chí tự
khẳng định… ln là những chuẩn mực, những định hướng giá trị nổi trội. Cịn ở
phương Đơng, nền kinh tế nơng nghiệp và những quan hệ phong kiến địi hỏi những
đức tính, những chuẩn mực gắn liền với tinh trạng trì trệ của kinh tế và xã hội, cùng
với những quan hệ đẳng cấp dường như bất di bất dịch. Những chuẩn mực, những yêu
cầu của Nho giáo như: trung, hiếu, tiết, hạnh, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… chính là sự
phản ánh điển hình tình trạng đó.
Tính dân tộc của đạo đức còn bị quy định bởi các yếu tố tự nhiên, tức là sự khác
biệt về mặt địa lý, khí hậu, địa vực cư trú của các dân tộc, tộc người. Bên cạnh đó,
tính dân tộc của đạo đức cũng bị quy định bởi sự khác biệt, tính độc đáo trong bản sắc
văn hóa của các dân tộc. Trong q trình thích ứng với những điều kiện địa lý khác
nhau, các dân tộc, các tộc người khác nhau hình thành các thói quen, tập tục, cách ứng
xử khác nhau với tự nhiên, với con người, từ đó hình thành những chuẩn mực, những
quan niệm giá trị, những đánh giá đạo đức khác nhau. Ví dụ, trong điều kiện tự nhiên
bất lợi cho sản xuất thì những yêu cầu, chuẩn mực như cần cù, tiết kiệm, phân phối
công bằng trở thành những chuẩn mực ưu trội. Đồng thời, sự trừng phạt đối với việc
vi phạm những chuẩn mực này cũng trở nên nghiêm khắc hơn. Hay như, trong điều
kiện giá lạnh vùng Bắc cực, tộc người Exkimô luôn phải mặc da thú che kín người. Vì
vậy, đối với họ, ăn mặc kín đáo là một chuẩn mực đạo đức. Tình cảm xấu hổ của họ
đối với lối ăn mặc thiếu kín đáo phát triển mạnh hơn so với những tộc người da đỏ
sống ở vùng nhiệt đới. Một số tộc người da đỏ ở Nam Mỹ cho đến nay vẫn cịn sống
khỏa thân. Khí hậu nhiệt đới khiến họ khơng hình thành ý thức và tình cảm đạo đức
đối với trang phục.
Bên cạnh đó, tính dân tộc của đạo đức cịn được quy định bởi sự khác biệt, tính
độc đáo trong bản sắc văn hóa của các dân tộc. Nhân tố này ban đầu cũng phụ thuộc
vào điều kiện sinh hoạt vật chất; nhưng sau đó, với tư cách là yếu tố thuộc kiến trúc
12

Luan van



thượng tầng, nó có tính độc lập tương đối nhất định và tác động một cách mạnh mẽ
đến đạo đức. Bản sắc đó được phản ánh vào đạo đức tạo nên tính độc đáo của các
quan niệm, các chuẩn mực, cách ứng xử đạo đức, nghĩa là tạo nên tính độc đáo trong
đời sống đạo đức của mỗi dân tộc. Ph.Ăngghen đã từng khẳng định: “Từ dân tộc này
sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, những quan niệm về thiện và ác
đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau” [11, tr.135]. Ví dụ,
Nhật bản ở trình độ phát triển về trình độ sản xuất, về khoa học - kỹ thuật, về xã hội
chẳng khác gì Mỹ và các nước Tây Âu, nhưng Nhật Bản vẫn có truyền thống văn hóa,
tinh thần võ sĩ đạo, sự đề cao các giá trị cộng đồng.
Ngày nay, tính dân tộc của văn hóa nói chung, của đạo đức nói riêng khơng chỉ
là một thực tế, mà còn là một thực tế được tự giác xây dựng. Các quốc gia, đặc biệt là
các quốc gia đang phát triển, rất có ý thức trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của
văn hóa và đạo đức. Ở nước ta, yêu cầu xây dựng “hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới
phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu thời đại” đã được khẳng định tại
Đại hội lần thứ VIII của Đảng. Và yêu cầu này đã được cụ thể hóa tại Hội nghị Trung
ương 5 khóa VIII thành những chuẩn mực, những đức tính, đó là:
-

“Có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đồn
kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
-

Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.

-


Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân

nghĩa, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải
thiện môi trường sinh thái.
-

Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng

suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
-

Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ

thẩm mỹ và thể lực” [2, tr.58 - 59].
Tuy nhiên, khi khẳng định tính dân tộc của đạo đức, khơng vì vậy mà phủ nhận
tính nhân loại chung của đạo đức. Tính nhân loại của đạo đức tồn tại ở hình thức thấp
được biểu hiện ở những quy tắc đơn giản, thông thường, nhưng lại rất cần thiết để
13

Luan van


đảm bảo trật tự bình thường cho cuộc sống hằng ngày của con người. Biểu hiện cao
hơn trong tính nhân loại của đạo đức là những giá trị đạo đức tiến bộ nhất trong từng
giai đoạn phát triển lịch sử. Những giá trị đạo đức này thường là những giá trị đạt
được ở các giai cấp tiến bộ nhất trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.
1.2. Tầm quan trọng và nội dung của công tác giáo dục đạo đức cho sinh
viên
1.2.1. Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên

Sinh viên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, là tương lai của sự phát triển
đất nước. Sinh viên có độ tuổi trung bình khoảng từ 18 đến 25 tuổi.
Xét về mặt sinh lý thì đây là lứa tuổi trong giai đoạn “dậy thì”. Ở giai đoạn này,
hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và phối hợp giữa các chức năng. Thời
kỳ đầu của giai đoạn này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 2/3 trọng lượng của
cơ thể trưởng thành. Bộ não đã đạt được trọng lượng tối đa (khoảng 1.400 gram), hoạt
động thần kinh cao cấp đã đến mức trưởng thành vì số tế bào thần kinh phát triển
tương đối đầy đủ. Các chức năng sinh sản bắt đầu q trình hồn thiện; giới tính phân
biệt rõ ràng và phát triển đầy đủ ở mỗi giới cả về hình thể lẫn biểu hiện nội tiết tố.
Xét về mặt tâm lý thì đây là thời kỳ phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng
cao năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng
lực giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày càng khó khăn hơn, có khả năng lập luận
lơ gic, trí tưởng tượng phong phú. Thời kỳ này cũng là thời kỳ phát triển khả năng
hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập cao.
Ở độ tuổi này, sinh viên có tính nhảy bén cao, khả năng giải thích và gắn ý nghĩa cho
những ấn tượng cảm tính nhờ vào kinh nghiệm và tri thức có trước đây. Sự phát triển
này cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo ra khả năng cho lứa tuổi này
biết cách lĩnh hội kiến thức một cách tối ưu. Đây chính là cơ sở vững chắc cho tồn bộ
q trình học tập và nghiên cứu khoa học của sinh viên.
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là sự phát
triển của khả năng tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức, sự đánh
giá tồn diện về bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là điều
kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo yêu cầu của xã hội.
14

Luan van


Sinh viên có tâm lý nhạy cảm, thích cái mới lạ, thích tìm tịi, khám phá, sáng tạo;
là những người giàu ước mơ, hồi bão, giàu trí tưởng tượng, ln mong muốn tự

khẳng định mình, khơng lệ thuộc vào người khác, có nhu cầu cao về học vấn, tình
bạn, tình u nam nữ, thích cơng bằng, ghét bất cơng, thích giao lưu và tham gia các
hoạt động xã hội.
Về mặt xã hội, sinh viên có sự phong phú, phức tạp, bộc lộ nhiều mối quan hệ xã
hội khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội nhiều vẻ, đa dạng. Sinh viên đã biết quan tâm
đến tương lai của bản thân và sự phát triển của dân tộc. Họ đã bước đầu ý thức được
trách nhiệm của người công dân cũng như nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Về
hoạt động, hoạt động chính của sinh viên là học tập, nhưng đây cũng chính là giai
đoạn quá độ chuyển từ vị trí là học trị sang vị thế “nhà trí thức” sinh viên hiện tại và
là trí thức tương lai. Dưới sự điều khiển, hướng dẫn của giảng viên, hoạt động học tập
của sinh viên có tính chất nghiên cứu nhằm lĩnh hội tri thức, các kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết cho nghề nghiệp của mình sau này. Hoạt động học tập, rèn luyện của Nhà trường
làm người sinh viên lớn lên về mọi mặt, đặc biệt là khả năng trí tuệ, tư duy độc lập,
sáng tạo ngày càng phát triển, năng lực khái quát hóa, trừu tượng hóa được nâng cao;
khối lượng tri thức, thông tin trở nên phong phú theo thời gian.
Tuy nhiên, một bộ phận sinh viên cịn thiếu kinh nghiệm về cuộc sống xã hội, dễ
nhìn nhận và đánh giá nông cạn đối với các hiện tượng trong đời sống xã hội, nhất là
đối với quá khứ lịch sử, nên sinh viên cũng dễ có thái độ cực đoan đối với các hiện
tượng nảy sinh trong xã hội mà họ đang sống, và đơi khi cịn dễ bị kích, động, thiếu tự
chủ, tình cảm nhiều lúc lấn át lý trí, thích phiêu lưu, mạo hiểm, khi gặp khó khăn dễ
sinh ra hoang mang, dao động.
Sinh viên là lực lượng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chăm lo giáo
dục, đào tạo để trở thành những người lao động giỏi, cán bộ tốt, chủ nhân của xã hội
tương lai. Nhưng sinh viên có phát huy được khả năng tiềm ẩn của mình hay khơng,
điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng, sự rèn luyện, tu dưỡng của bản
thân, ngồi ra cịn phụ thuộc vào sự giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng
phù hợp với sự phát triển của họ.

15


Luan van


Vì vậy, trong cơng tác giáo dục nói chung thì giáo dục đạo đức cho sinh viên là
một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng mang tầm chiến lược và ở một chừng mực nào đó
có ý nghĩa sống cịn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, giáo dục đạo đức góp phần xây dựng nhân cách sinh viên phát triển
toàn diện, đáp ứng yêu cầu nguồn lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phát triển đất nước.
Khi bàn về mối quan hệ giữa “tài” và “đức”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
đạo đức là cái gốc của người cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa quyết định của việc xây
dựng con người mới, bởi vì: có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, thậm chí cịn
gây hai cho cách mạng, cho đồng bào; có đạo đức thì con người mới nhận thức đầy đủ
trách nhiệm của mình và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Người cách mạng phải
biết làm việc phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, khơng có tri thức, khơng có văn
hóa thì khơng thểxây dựng chủ nghĩa được, nhưng “cũng như sơng thì có nguồn mới
có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân” [9, tr.292].
Thấy rõ sức mạnh to lớn mà đạo đức mới đem lại cho người cộng sản, Chủ tịch
Hồ Chí Minh rất coi trọng nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, đặc biệt
là cho thanh niên. Người cho rằng, họ cần phải học tập, tu dưỡng và trau dồi đạo đức
cách mạng.
Việt Nam đang trong q trình đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đổi mới tồn diện đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng và văn minh”, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và để thực hiện
thành công mục tiêu to lớn này, cần có những con người xã hội chủ nghĩa với những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn. Chính nhờ
có đạo đức mà mỗi người, đặc biệt là thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng mới có
thể phấn đấu hồn thiện mình, nâng cao năng lực bản thân để tham gia tích cực vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đạo đức chính là nền tảng vững chắc, là gốc
nhân cách để sinh viên vươn lên, xứng đáng là người chủ tương lai của xã hội.
Thứ hai, đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội,
hoàn thiện con người nói chung, sinh viên nói riêng.
16

Luan van


Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường đang tác động mạnh mẽ
đến đời sống đạo đức của xã hội theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Mặt khác,
các thế lực thù địch không ngừng dùng những thủ đoạn thâm độc, thực hiện âm mưu
“diễn biến hịa bình” nhằm chống phá chế độ và sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.
Trong điều kiện đó, đạo đức càng thể hiện vai trị đặc biệt quan trọng của nó, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội, hoàn thiện con người nói
chung, sinh viên nói riêng.
Đạo đức góp phần trong việc thúc đẩy và định hướng nền kinh tế phát triển lành
mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn xã hội, hồn
thiện con người nói chung, sinh viên nói riêng.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức chịu sự tác động và ảnh
hưởng của kinh tế, đồng thời, đến lượt nó, đạo đức tác động mạnh mẽ đến kinh tế như
một sức mạnh được vật chất hóa. Tùy thuộc vào trạng thái của đạo đức trong kinh tế
như thế nào, tác động của nó có thể làm cho kinh tế suy thoái hoặc tăng trưởng; sự
phát triển của kinh tế có thể đem lại sự ấm no, hạnh phúc, công bằng cho con người
hay làm trầm trọng thêm tình trạng bóc lột, áp bức, bất cơng, bình đẳng; thu hẹp hay
khoét sâu thêm khoảng cách giàu - nghèo…
Cơ chế thị trường với sự tác động của nhũng quy luật kinh tế khách quan, đặc
biệt là quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị đã tạo ra những hiệu ứng nhất định về xã
hội - đạo đức. Ở đây, hiệu quả và lợi nhuận là mối quan tâm đầu tiên của mọi chủ thể
kinh tế, do đó, người ta coi “thương trường như chiến trường”. Trong “cuộc chiến”

đó, rất có thể người ta gạt bỏ mọi quy phạm đạo đức, chỉ tôn thờ một thứ duy nhất đồng tiền, gắn hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống với nó. Thực tế, sự sùng bái đồng tiền
đã trở thành một nguyên tắc xử thế và chuẩn mực hành vi của khơng ít người. Đây là
một trong những ngun nhân của những hành vi trái đạo đức, thậm chí là vi phạm
pháp luật.
Do tính khốc liệt của nó, kinh tế thị trường vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện
dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo và phân tầng xã hội một cách nhanh chóng, đồng thời,
những bất cơng, bất bình đẳng trong xã hội vì thế có điều kiện và cơ hội sinh sơi, nảy
nở. Thực tế đó có thể dẫn đến kết cục ngồi mong muốn của chúng ta: sự suy thoái về
mọi mặt của đời sống xã hội, không chỉ về đạo đức, lối sống mà cả về kinh tế.
17

Luan van


Đạo đức với bản chất khoa học và cách mạng sẽ là liều thuốc vơ cùng quan trọng
có thể chữa lành những căn bệnh “nan y” của kinh tế thị trường. Cùng với việc hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường, xây dựng đạo đức mới trở thành một giải pháp cơ bản
nhằm bảo đảm cho sự phát triển bền vững, lành mạnh của nền kinh tế, là sự khắc phục
tình trạng phát triển thuần kinh tế nhưng lệch chuẩn về đạo đức, sự tăng trưởng kinh tế
nhưng sa sút về đạo đức xã hội. Một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường được
xây dựng và phát triển với những chuẩn mực đạo đức sẽ là sự thống nhất cao giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, từng bước khắc phục những tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đời sống đạo đức xã hội nói chúng và đạo
đức sinh viên nói riêng.
Đạo đức vừa góp phần hiện thực hóa mục tiêu chính trị của Đảng ta, vừa góp
phần củng cố, giữ gìn sự ổn định của chế độ chính trị, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát
triển xã hội, hồn thiện con người nói chung, sinh viên nói riêng.
Trong mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị trong xã hội chủ nghĩa, có thể thấy,
mục đích chính trị của giai cấp vơ sản Việt Nam và lý tưởng đạo đức cách mạng có
sự thống nhất cao độ, đó là xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, độc lập, dân chủ

và giàu mạnh, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, ở mỗi con
người cách mạng đều là sự thống nhất giữa con người chính trị và con người đạo đức,
phẩm chất chính trị chân chính cũng là phẩm chất đạo đức cách mạng, ngược lại,
phẩm chất đạo đức cách mạng cũng bao hàm phẩm chất chính trị của họ. Trong đó,
đạo đức cách mạng là gốc để đề ra đường lối chính trị đúng đắn, cịn chính trị là
đường lối, là biện pháp để thực hiện những nội dung, nguyên tắc của đạo đức cách
mạng. Cùng với việc nâng cao trình độ, năng lực chun mơn, việc giữ gìn và nâng
cao phẩm chất đạo đức cách mạng ở mỗi người, nhất là ở sinh viên đang là yêu cầu
cấp bách.
Thứ ba, giáo dục đạo đức góp phần xây dựng hài hòa giữa đời sống vật chất và
đời sống tinh thần cho sinh viên.
Vai trò này xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội. Bản chất của đạo đức là quan hệ lợi ích, biểu hiện ở sự quan tâm, tự nguyện, tự
giác của mỗi người đối với lợi ích của người khác và của xã hội. Từ đó hình thành

18

Luan van


×