Tải bản đầy đủ (.pdf) (243 trang)

Luận án năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại việt nam trong bối cảnh tham gia hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.55 MB, 243 trang )

1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Trong chương 1, nhằm cung cấp thông tin khái quát về vấn đề nghiên cứu của luận án,
tác giả trình bày những vấn đề cơ bản và tổng quan nhất của nghiên cứu bao gồm: sự cần thiết
của nghiên cứu, mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương
pháp và dữ liệu nghiên cứu, đóng góp mới và kết cấu của luận án.
1.1. Sự cần thiết của nghiên cứu
1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Hội nhập kinh tế thế giới theo xu thế tự do hóa tài chính được coi là hướng đi thích hợp
trong bối cảnh hiện nay và được nhiều quốc gia thực hiện, trong đó có Việt Nam. Để mở rộng
quy mô và thị trường hợp tác thương mại quốc tế, các quốc gia tiến hành tự do hóa tài chính
từng bước thơng qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) với các đối tác trong khu vực tham
gia. Hiện nay, theo tổng hợp từ (Trung tâm WTO và Hội nhập, 2020), Việt Nam có thể được
xem là một trong những nước có số lượng FTA được ký kết nhiều nhất thế giới, với 16 FTA.
Việc ký kết các hiệp định thương mại được kỳ vọng giúp Việt Nam tăng khả năng khai thác
nguồn lực và cơ hội tồn cầu để đẩy nhanh cơng cuộc phát triển, đồng thời gia cường năng lực
thích ứng của quốc gia với sự đổi thay và biến động trong thị trường quốc tế.
Trong các FTA đã được kí kết, Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (The Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – sau
đây gọi là Hiệp định CPTPP) được xem là hiệp định thương mại tự do có quy mơ và tầm cỡ
lớn, có tác động sâu và rộng trên nhiều quan hệ thương mại giữa các quốc gia trong khối thành
viên. Trải qua nhiều cuộc đàm phán, Hiệp định CPTPP được chính thức kí kết tại Chile vào
tháng 3 năm 2018. Khối CPTPP có 11 thành viên với tổng dân số 500 triệu người, tổng GDP
vượt hơn 10 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 13,5% GDP toàn cầu và khoảng 14% tổng thương
mại thế giới. CPTPP là hiệp định thương mại có quy mơ rộng và được đánh giá là chứa nhiều
“tham vọng”. Quan chức cấp cao của các nước tham gia đàm phán đều tin tưởng rằng việc xây
dựng thành cơng Bản mơ tả các lĩnh vực đàm phán chính của hiệp định sẽ tạo cơ sở và động



2
lực cần thiết để kết thúc đàm phán hiệp định thành công. CPTPP được xác định là một hiệp
định mang tính bước ngoặc về thương mại của thế kỷ 21, thiết lập một tiêu chuẩn mới cho
thương mại toàn cầu và đưa ra những vấn đề thuộc thế hệ mới có khả năng tăng cường năng
lực cạnh tranh của các nước thành viên CPTPP trong nền kinh tế toàn cầu.
Khi có hiệu lực, CPTPP sẽ loại bỏ 11.000 dịng thuế của các bên và có khả năng sẽ đóng
vai trị như một khuôn mẫu cho các điều ước mậu dịch trong tương lai. Nội dung CPTPP đã
xây dựng được khung tổng thể của một hiệp định thương mại thế hệ mới, góp phần tăng cường
hơn nữa mối quan hệ thương mại và đầu tư, tạo cơ sở cho việc hình thành một Khu vực thương
mại tự do trên toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời hỗ trợ việc làm, tăng trưởng
kinh tế, nâng cao mức sống tại các quốc gia.
Theo (Vụ Chính sách thương mại đa biên, 2018), các nội dung cam kết trong hiệp định
CPTPP mang 5 đặc trưng chính như sau:
Thứ nhất, Tiếp cận thị trường toàn diện: bãi bỏ thuế quan và các hàng rào khác đối với
thương mại hàng hóa và đầu tư giữa các nước thành viên, tạo ra và duy trì việc làm ngày càng
nhiều. Mục tiêu của CPTPP là thúc đẩy hàng hóa của các nước thành viên được tiếp cận thị
trường của nhau một cách toàn diện, miễn thuế cũng như các hạn chế về dịch vụ được đồng
loạt xóa bỏ nhằm tạo ra cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp cũng như những lợi
ích trực tiếp cho người tiêu dùng.
Thứ hai, Hiệp định khu vực tồn diện: các nước tham gia CPTPP nhất trí xây dựng một
biểu thuế thống nhất cũng như các quy tắc xuất xứ chung để giúp các doanh nghiệp tận dụng
được hiệp định một cách dễ dàng hơn. Cách tiếp cận mang tính khu vực này sẽ giúp thúc đẩy
mạng lưới thương mại khu vực, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và
khuyến khích sử dụng các sản phẩm đầu vào của CPTPP. Điều này góp phần tạo thuận lợi cho
sự phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng giữa các thành viên trong CPTPP, đồng thời hỗ trợ
mục tiêu tạo việc làm, nâng cao mức sống, cải thiện phúc lợi xã hội và tăng cường phát triển
bền vững ở các nước thành viên.
Thứ ba, Các vấn đề thương mại xuyên suốt: hình thành khung hiệp định trên cơ sở
những thỏa thuận đã thực hiện trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác và bằng việc đưa
vào CPTPP có 4 vấn đề mới và mang tính xuyên suốt bao gồm:



3
Gắn kết mơi trường chính sách: các cam kết sẽ thúc đẩy thương mại giữa các nước thành
viên thông qua việc tạo môi trường trao đổi thương mại gắn kết và hiệu quả giữa các nước
trong CPTPP.
Tạo thuận lợi thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh: các cam kết sẽ nâng cao năng
lực cạnh tranh trong nước và khu vực của từng nền kinh tế CPTPP và thúc đẩy hội nhập kinh
tế cũng như tạo thêm việc làm thông qua phát triển sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực;
Doanh nghiệp vừa và nhỏ: các cam kết sẽ giải quyết những quan ngại của doanh nghiệp
vừa và nhỏ về các vấn đề khó khăn trong việc hiểu và vận dụng các hiệp định thương mại bên
cạnh đó khuyến khích họ giao thương quốc tế;
Phát triển: đẩy mạnh tự do hóa thị trường một cách tồn diện và mạnh mẽ, cải thiện tình
hình thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và các cam kết khác, bao gồm việc thiết lập
các cơ chế giúp các thành viên trong CPTPP thực thi hiệu quả và tận dụng được tối đa những
lợi ích mà Hiệp định mang lại, qua đó góp phần tăng cường vai trị của những thể chế quan
trọng đối với quản lý và phát triển kinh tế. Góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy những ưu tiên
phát triển kinh tế của từng thành viên CPTPP;
Thứ tư, Những vấn đề mới trong thương mại: tích cực thúc đẩy thương mại và đầu tư
đối với cá sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo, trong đó có nền kinh tế kỹ thuật số và công
nghệ xanh, đảm bảo một mơi trường kinh doanh lành mạnh trên tồn bộ khu vực CPTPP.
Thứ năm, Hiệp định mở: cho phép cập nhật hiệp định phù hợp khi cần thiết để giải
quyết các vấn đề thương mại nảy sinh trong tương lai cũng như các vấn đề mới phát sinh trong
quá trình mở rộng Hiệp định để kết nạp thêm các thành viên mới. Nói cách khác, mục tiêu cuối
cùng của Hiệp định CPTPP là mở rộng cho các quốc gia khác trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Các nhóm đàm phán đang tham vấn với những nước bày tỏ quan tâm đến việc
tham gia hiệp định, nhằm giúp các nước này nhận thức được các mục tiêu CPTPP đã nhất trí
theo đuổi. Tính mở của CPTPP có ưu điểm là chỉ bằng đàm phán CPTPP, một nước có thể
cùng có FTA với nhiều nước đối tác. Đây cũng chính là lý do các nước tham gia khó đạt được
sự nhất trí và thời gian đàm phán bị kéo dài.

Hoạt động ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế, chính vì vậy việc thực thi các cam
kết trong CPTPP sẽ có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến lĩnh vực tài chính ngân hàng các


4
nước thành viên nói chung và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng. Nhìn chung, các
nội dung được cam kết thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính của CPTPP hướng tới đẩy mạnh sự
phát triển của thị trường dịch vụ tài chính ở các nước thành viên như: Mở rộng cam kết về mở
cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa tạo cơ hội tiếp cận thị trường tốt hơn cho các
nhà đầu tư nước ngoài; Áp dụng cơ chế bảo hộ đầu tư nhằm bảo đảm đầy đủ lợi ích của các
nhà đầu tư; Bảo đảm khơng gian chính sách để thực hiện các biện pháp quản lý thận trọng
nhằm xây dựng một nền tài chính vĩ mơ ổn định. Đối với Việt Nam, các cam kết trong hiệp
định CPTPP mở rộng (so với WTO) đối với một số loại hình dịch vụ mới như: Mở cửa dịch
vụ nhượng tái bảo hiểm qua biên giới; Dành đối xử quốc gia cho các nhà cung cấp dịch vụ
chứng khốn nước ngồi đối với một số dịch vụ như xử lý dữ liệu tài chính qua biên giới; dịch
vụ tư vấn và các dịch vụ phụ trợ qua biên giới liên quan tới giao dịch tài khoản tự doanh hoặc
tài khoản của khách hàng; Mở cửa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư qua biên giới; Tăng cường
khơng gian chính sách và sự linh hoạt các quy định thông qua bổ sung các điều khoản mới về
“rút lui”, “gia nhập” và “rà soát lại” hiệp định.
Như vậy, mức độ tự do hóa tài chính trong khuôn khổ CPTPP rất cao dù các nước thành
viên được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn định tài chính và tính thống
nhất của hệ thống tài chính của mình. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng như các nước thành viên
được áp dụng các ngoại lệ cần thiết, gồm các biện pháp thận trọng bảo vệ an ninh quốc gia,
quyền lợi và thông tin cá nhân; chính sách về tỷ giá, tiền tệ nhằm bảo đảm mơi trường đầu tư
ổn định, an tồn. Đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính trong CPTPP, mặc dù yêu cầu cung cấp
nhiều cơ hội tiếp cận thị trường và đầu tư qua biên giới nhưng vẫn đảm bảo rằng, các nước
trong CPTPP có đủ năng lực điều hành thị trường và các tổ chức tài chính cũng như thực hiện
các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp khủng hoảng.
Ngành Ngân hàng Việt Nam đóng vai trị trung gian rất quan trọng trong việc kết nối mọi
hoạt động của nền kinh tế, là tiền đề của phát triển kinh tế xã hội, cũng sẽ khơng nằm ngồi

các tác động, ảnh hưởng từ CPTPP. Cùng với sự vận động phát triển của toàn nền kinh tế và
sự phát triển mạnh mẽ của các DN xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh (như dệt may, da giày, linh
kiện điện tử …), ngành ngân hàng sẽ phát huy tối đa vai trò là cầu nối, kênh dẫn vốn hiệu quả
giữa nền kinh tế và các doanh nghiệp, đồng thời mở rộng hệ thống thanh toán quốc tế giúp hỗ


5
trợ doanh nghiệp Việt Nam trong việc mở rộng hoạt động tới các thị trường mới. Qua đó, hiện
thực hóa các cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, ngành ngân hàng cũng cần phải chủ
động đánh giá các thách thức khó khăn, các sức ép cạnh tranh phải đối mặt để có những định
hướng, giải pháp phù hợp cho sự phát triển ổn định và bền vững trước bối cảnh mới.
1.1.2. Tổng quan nghiên cứu
Có nhiều nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng trong và
ngoài nước được thực hiện. Nhiều phương pháp đo lường và mơ hình nghiên cứu được đề cập
tùy theo đặc trưng của quốc gia nghiên cứu.
Để đo lường năng lực cạnh tranh và tác động của các yếu tố đến năng lực cạnh tranh
ngân hàng, các phương pháp đo lường chủ yếu dựa trên 3 chỉ số: phương pháp Panzar và Rosse
(1987) sử dụng chỉ số H, Lerner, Bone. Để đo lường mức độ ổn định ngân hàng, ban đầu các
nghiên cứu tập trung theo phương pháp phân tích tỷ lệ (ratio analysis), sau đó là phương pháp
phân tích đơn biến, phương pháp phân tích kết hợp các chỉ số được nhà kinh tế học Edward I
(1968). Nghiên cứu của Altman được tiến hành ra để dự báo xác suất phá sản của doanh nghiệp
kế thừa từ chỉ số Z-Score của (Edward I. Altman, 1968), hàng loạt các nghiên cứu thực nghiệm
còn sử dụng thêm các chỉ số khác để đo lường toàn diện hơn ổn định ngân hàng như: ROA,
ROE, RARROA, RARROE. Chỉ số thống kê H đã được nhiều học giả nghiên cứu sử dụng như:
(Claessens, 2001), (Carbó, S, Humphrey, D, Maudos, 2009), (Soedarmono, W., Machrouh,
2011). Chỉ số Lerner cũng được nhiều học giả trên thế giới sử dụng như: nghiên cứu của
(Berger et al, 2009), (Fungáčová et al, 2013), (Fu et al, 2014)…
Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam về năng lực cạnh tranh sử dụng chỉ số H và Lerner,
các nghiên cứu gần đây chủ yếu dùng chỉ số Lerner bởi tính thuận lợi trong việc thu thập dữ
liệu và sự phù hợp của kết quả tính tốn so với tình hình thực tế Việt Nam. Các nghiên cứu về

mức độ ổn định ngân hàng tại Việt Nam sử dụng chỉ số Zscore và thêm các chỉ số khác để đo
lường toàn diện hơn ổn định ngân hàng như: ROA, ROE, RARROA, RARROE …
Các nghiên cứu về hiệp định CPTPP trong và ngoài nước cho ngành ngân hàng chủ yếu
được thực hiện bằng phương pháp nghiên cứu định tính và nội dung nghiên cứu tập trung xác
định những nội dung cam kết liên quan, những cơ hội, thách thức mà ngành ngân hàng sẽ đối
mặt khi tham gia CPTPP. Có một vài nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước về tác động


6
từ sự gia nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài đến thị trường ngân hàng nội địa sau kí kết
các hiệp định FTA nói chung.
Tại Việt Nam, tác giả chưa tìm được nghiên cứu nào “đo lường năng lực cạnh tranh và
mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia hiệp định
CPTPP”. Thơng qua việc xác định thực trạng tình hình hiện tại của các ngân hàng thương mại
Việt Nam, so sánh với hệ thống tài chính giữa các nước thành viên, kết hợp kết quả đo lường
thực nghiệm làm căn cứ đề xuất hàm ý chính sách hữu hiệu trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
Các nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng có xét tới yếu tố sự gia
nhập của ngân hàng nước ngồi vào Việt Nam rất ít. Tác giả cũng nhận thấy rằng hầu như chưa
có một cơ sở lý thuyết nền tảng về cạnh tranh và ổn định ngân hàng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế được tập hợp và trình bày đầy đủ, mang tính khoa học đóng vai trò như lý thuyết nền
nghiên cứu tại Việt Nam.
1.1.3. Khe hở nghiên cứu
Nhìn chung, những vấn đề mà các sản phẩm khoa học trước đó đã đề cập chủ yếu: Đã
khắc hoạ tiến trình Việt Nam tham gia ký kết TPP và CPTPP và những vấn đề được đặt ra khi
Việt Nam tham gia Hiệp định này; Các nhà nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế đã đưa
ra những khuyến nghị đối với cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ về những vấn đề phái
đồn đàm phán của Việt Nam cần lưu ý, cũng như là Hiệp định CPTPP mang lại những cơ hội
và thách thức nào đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung; Đề xuất giải pháp: Chính phủ phải
làm gì? Cộng đồng doanh nghiệp phải làm gì? Để nắm bắt cơ hội, hạn chế khó khăn thách thức
khi Hiệp định CPTPP được ký kết và chính thức có hiệu lực thực thi đối với Việt Nam.

Rất ít tài liệu và cơng trình nghiên cứu sâu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định
của NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, một hiệp định được đánh giá có phạm vi ảnh
hưởng sâu, rộng, mức độ tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế được mở rộng
đánh kể thông qua các nội dung cam kết giữa 11 nước trong khối thành viên. Bên cạnh đó, xu
thế tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập quốc tế, với các nội dung cam kết toàn diện và
tiến bộ trong CPTPP, việc xác định và đánh giá mức độ ảnh hưởng từ sự hiện diện của các tổ
chức tài chính (TCTC) nước ngồi tại Việt Nam là vơ cùng thiết thiết. Đây là cơ sở hàm ý
chính sách để các nhà hoạch định chính sách cũng như ban ngành chức năng liên quan đưa ra


7
những quyết sách đúng đắn dựa theo phạm vi, nội dung đã ký kết, thỏa thuận trong quá trình
đàm phán trước đó. Từ đó đề xuất các khuyến nghị và giải pháp cho các ngân hàng Việt Nam
tăng cường năng lực của mình để nắm lấy cơ hội và vượt qua được những thách thức CPTPP
mang lại.
Nhìn chung, các nghiên cứu trước cịn có một số khe hở nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, khoảng trống về không gian và thời gian nghiên cứu: Các nghiên cứu trước
đây chủ yếu trong giai đoạn trước năm 2016: Hiệp định CPTPP chưa được ký kết, vấn đề xử
lý nợ xấu và tái cấu trúc đang trong giai đoạn thực hiện, quy mô và thị trường hoạt động của
ngân hàng nước ngoài (NHNNg) tại Việt Nam còn nhiều rào cản và hạn chế, một số ngân hàng
thương mại Việt Nam (NHTM VN) đang trong giai đoạn thí điểm thực hiện theo chuẩn Base
2. Vì vậy nghiên cứu được tiến hành trên dữ liệu thu thập từ 31 NHTM tại Việt Nam và 11
NHTM có vốn nước ngoài (NH liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) giai đoạn 2010 – 2018.
Thứ hai, khoảng trống về phương pháp nghiên cứu: Phần lớn các nghiên cứu sử dụng
phương pháp định lượng để đo lường mức độ ổn định tài chính hoặc đo lường năng lực cạnh
tranh của NHTM VN. Các nghiên cứu về ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP
chủ yếu là nghiên cứu bằng phương pháp định tính thơng qua một số bài báo, nhận định chung
về thực trạng của ngân hàng Việt Nam hoặc dự đoán những cơ hội và thách thức mà CPTPP
mang lại cho Việt Nam. Để đánh giá những cơ hội – thách thức đến với hoạt động NHTM VN
chủ yếu là các nghiên cứu định tính dựa trên dữ liệu thứ cấp thu thập được. Trong nghiên cứu

này, luận án sử dụng phối hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng nhằm tăng tính
vững làm cơ sở lập luận để xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến tính ổn định và khả
năng cạnh tranh của NHTM VN. Từ đó là cơ sở để nắm bắt hiệu quả các cơ hội cũng như kịp
thời ứng phó các thách thức từ các cam kết về lĩnh vực ngân hàng trong CPTPP.
Thứ ba, khoảng trống về các yếu tố đo lường: Trong bối cảnh hội nhập CPTPP, NLCT
và mức độ ổn định ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng nhất định từ các tổ chức tín dụng nước ngồi
tại Việt Nam, rất ít nghiên cứu trong nước đo lường mức độ ảnh hưởng từ sự hiện diện NHNNg
đến NLCT và mức độ ổn định của NHTM VN vì vậy yếu tố số lượng chi nhánh NHNNg và tỷ
lệ tổng tài sản của các NHNNg trên toàn hệ thống tín dụng được đưa vào mơ hình nghiên cứu.


8
Thứ tư, khoảng trống về nội dung nghiên cứu: Hầu hết các nghiên cứu tập trung xác
định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN nói
chung hoặc nghiên cứu về các cơ hội – thách thức của NHTM VN khi tham gia CPTPP. Tuy
nhiên chưa có các nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề đo lường NLCT và mức độ ổn định của
các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, dựa vào một số chỉ tiêu vĩ mô đặc trưng để
so sánh giữa hệ thống NHTM VN với hệ thống tài chính của 10 thành viên cịn lại trong CPTPP,
từ đó làm căn cứ thiết thực xác định triển vọng và áp lực cạnh tranh nhằm góp phần cho các
nhà quản trị ngân hàng những hàm ý chính sách phù hợp nâng cao NLCT, giữ vững ổn định
của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
Đó là những khe hở nghiên cứu mà tác giả sẽ lấp đầy trong luận án, cũng là những điểm
mới của đề tài.
1.1.4. Sự cần thiết nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và ổn định ngân hàng trong bối
cảnh hội nhập CPTPP.
Ngày nay, xu thế tự do hóa tài chính trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thúc
đẩy mở rộng hoạt động thương mại ra thị trường thế giới đang được ủng hộ mạnh mẽ. Hoạt
động thương mại giữa các nước gắn liền với hoạt động của hệ thống ngân hàng của mỗi quốc
gia. Việc các hiệp định thương mại được thực thi theo các nội dung cam kết sẽ tác động rất lớn
đến nền kinh tế quốc gia nói chung và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng. Việt

Nam được xem là một trong những quốc gia có nhiều hiệp định thương mại tự do kí kết nhất
hiện nay. Trong đó, Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ Xun Thái Bình Dương có quy
mô lớn được đánh giá mang lại nhiều tiềm năng phát triển cho 11 thành viên, trong đó có Việt
Nam.
Đối với Việt Nam, việc ký kết thành công hiệp định CPTPP là bước ngoặc lớn đánh dấu
cột mốc quan trọng cho sự chuyển mình của nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân
hàng nói riêng. Ngành ngân hàng đóng vai trị huyết mạch của nền kinh tế quốc gia. Trong toàn
bộ những nội dung được ký kết có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực tài chính ngân hàng, kì vọng
sẽ mang đến những triển vọng lớn về mở rộng đầu tư và dịch vụ tài chính mới song cũng là
sức ép cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tự điều chỉnh, cơ cấu lại
phù hợp với tình hình mới.


9
Với các cam kết mở rộng xóa bỏ rào cản gia nhập giữa các nước thành viên trong khối
CPTPP chắc chắn sẽ có sự gia nhập từ các tổ chức tài chính nước ngồi với quy mơ lớn, trình
độ chun mơn cao, cơng nghệ tiên tiến và loại hình dịch vụ đa dạng sẽ tiến vào thị trường
Việt Nam. Đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy khi có sự hiện diện của các tổ chức
tài chính nước ngồi sẽ có nhiều tác động trực tiếp và gián tiếp đến hệ thống ngân hàng thương
mại trong nước, đặc biệt ở 2 hiệu ứng: hiệu ứng lan tỏa làm gia tăng mức sinh lợi và làm giảm
chi phí hoạt động; còn hiệu ứng cạnh tranh sẽ làm giảm mức sinh lời và chi phí hoạt động.
(Berger and Hannan, 1998). Điều này có thể sẽ là áp lực cạnh tranh hay tác động gây bất ổn
ngân hàng nhưng đồng thời cũng có thể là cơ hội tiếp cận các tiến bộ từ cộng đồng quốc tế cho
các ngân hàng thương mại nội địa. Vì vậy, để nắm bắt các cơ hội và kịp thời ứng phó thách
thức mang lại từ hiệp định CPTPP, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải tự xác định
thực trạng năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định trong hiện tại, dự đoán được những áp lực cạnh
tranh cũng như các nguy cơ bất ổn để có chiến lược ứng phó thách thức, nâng cao năng lực
cạnh tranh, củng cố giữ vững và gia tăng mức độ ổn định trong hoạt động ngân hàng trước bối
cảnh hội nhập CPTPP.
Khi CPTPP được thực thi đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế thì hoạt động của hệ

thống ngân hàng các nước trong khu vực sẽ có những thay đổi theo nội dung cam kết chung.
Mức độ ổn định tài chính của các NHTM VN cũng chịu ảnh hưởng bởi tác động của việc mở
rộng thị trường, sự gia nhập của các tổ chức tài chính nước ngồi vào Việt Nam và ngược lại,
áp lực cạnh tranh từ các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Hội nhập quốc tế về ngân hàng
giúp các NHTM trong nước thông qua môi trường cạnh tranh ngày càng tự do hơn và phù hợp
với thông lệ quốc tế. Đồng thời giúp ngân hàng trong nước cần nhận thức được tình hình mới
để tự nâng cao, hồn thiện nhằm đương đầu với cạnh tranh và duy trì sự ổn định của hệ thống
tài chính ngân hàng trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, đề tài “NĂNG
LỰC CẠNH TRANH VÀ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN
VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG” được tác giả chọn làm nội dung nghiên cứu.
Thông qua việc đo lường năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định của các NHTM VN, xác
định mức độ và chiều hướng tác động của các yếu tố đặc trưng nội tại của ngân hàng, yếu tố


10
ảnh hưởng từ sự gia nhập của ngân hàng ngoại, tác động của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng
trong bối cảnh hội nhập nhằm xác định điểm mạnh, điểm yếu của các NHTM VN trong bối
cảnh hội nhập CPTPP làm cơ sở hoạch định chiến lược tận dụng tối đa cơ hội, chuẩn bị chủ
động kiểm soát thách thức góp phần giúp ngân hàng Việt Nam hoạt động an toàn, hiệu quả,
vững mạnh và nâng dần vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Kết quả nghiên cứu được
dùng làm sơ sở khoa học để giúp các nhà quản trị ngân hàng một số hàm ý chính sách nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, gia tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường ổn định cho các NHTM
VN trước bối cảnh thực thi các nội dung cam kết trong hiệp định CPTPP.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án: đo lường năng lực cạnh tranh và mức độ
ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia CPTPP, từ đó đưa
ra các gợi ý chính sách từ các kết quả nghiên cứu của luận án.
Mục tiêu cụ thể: Để thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên, luận án sẽ tiến hành nghiên

cứu các mục tiêu cụ thể như sau:
- Xác định thực trạng hoạt động của các NHTM VN và so sánh với các nước thành viên
còn lại trong CPTPP giai đoạn 2010 - 2018.
- Đo lường năng lực cạnh tranh và chiều hướng tác động của các yếu tố đến năng lực cạnh
tranh của các NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP.
- Đo lường mức độ ổn định và chiều hướng tác động của các yếu tố đến mức độ ổn định
của các NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP.
- Đo lường chiều hướng tác động của năng lực cạnh tranh đến ổn định ngân hàng trong bối
cảnh tham gia CPTPP.
- Xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho các NHTM VN trong bối cảnh
tham gia CPTPP.
- Hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng trong
bối cảnh tham gia CPTPP.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu được xây dựng dựa trên các mục tiêu nghiên cứu cụ thể trên như sau:


11
Câu hỏi 1: Thực trạng kết quả hoạt động của các NHTM VN so với các nước thành viên
trong CPTPP?
Câu hỏi 2: Đo lường năng lực cạnh tranh và chiều hướng tác động của các yếu tố đến năng
lực cạnh tranh của các NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP?
Câu số 3: Đo lường mức độ ổn định và chiều hướng tác động của các yếu tố đến mức độ
ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP?
Câu số 4: Chiều hướng tác động của năng lực cạnh tranh đến mức độ ổn định của các
NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP?
Câu số 5: Xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho các NHTM VN trong
bối cảnh tham gia CPTPP?
Câu hỏi 6: Hàm ý chính sách nào giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định
cho các NHTM VN trong bối cảnh tham gia CPTPP?

1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong
bối cảnh tham gia CPTPP.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt không gian: nghiên cứu thực hiện trên 31 ngân hàng thương mại Việt Nam.
Tính đến thời điểm 31/12/2018 theo thống kê của NHNN, tổng số NHTM 100% vốn của Việt
Nam là 35 ngân hàng (gồm 4 NHTM Nhà nước và 31 NHTM Cổ phần). Tổng tài sản của 35
NHTM VN tại thời điểm 31/08/2018 là 9.418.330 tỷ đồng. Tổng tài sản của 31 NHTM VN
được tác giả sử dụng tại thời điểm 31/12/2018 là 9.398.556,489 tỷ đồng, chiếm 99,78% tổng
tài sản của các NHTM VN. Như vậy, 31 NHTM được tác giả lựa chọn đảm bảo đại diện cho
các NHTM tại Việt Nam.
- Về mặt thời gian: nghiên cứu xác định trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2018.
Do trong giai đoạn này các NHTM VN bắt đầu áp dụng Luật các tổ chức tín dụng năm 2010,
trong đó có nhiều quy định mới về tổ chức, quản trị, điều hành phù hợp với thông lệ quốc tế,
thực hiện việc tái cấu trúc tồn diện hoạt động, trong đó có tái cấu trúc hệ thống quản trị ngân
hàng. Đặc biệt là Hiệp định CPTPP được ký kết vào tháng 3/2018 và chính thức có hiệu lực


12
tại Việt Nam vào 14/01/2019 nên một số chỉ tiêu nghiên cứu theo dữ liệu cập nhật đến hết quý
3/2019.
- Về mặt nội dung: để thực hiện các mục tiêu được đặt ra, phạm vi nội dung luận án
tiến hành xác định thực trạng kết quả hoạt động của các NHTM VN và so sánh với hệ thống
tài chính các nước thành viên còn lại trong CPTPP; đo lường năng lực cạnh tranh, mức độ định
ổn định và chiều hướng tác động của các yếu tố nghiên cứu đến năng lực cạnh tranh và mức
độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh tham gia hiệp định CPTPP; Từ đó, xác định
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với các NHTM VN trong bối cảnh tham gia
hiệp định CPTPP; làm cơ sở lập luận đưa ra các hàm ý chính sách cho nhà quản trị nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định cho các NHTM VN, đồng thời có chiến lược phù

hợp nắm bắt các cơ hội và kịp thời ứng phó thách thức trong tình hình mới.
1.4. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp 2 phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng.
1.4.1.1. Phương pháp định tính
Luận án sử dụng các phương pháp liệt kê, phân tích, so sánh, tổng hợp các lý thuyết và
nghiên cứu trước đây nhằm thực hiện mục tiêu cụ thể bao gồm hình thành cơ sở lý thuyết về
năng lực cạnh tranh, ổn định tài chính và dựa theo các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh, mức độ ổn định ngân hàng để xây dựng mơ hình thực nghiệm phù hợp cho Việt Nam.
Luận án cũng sử dụng phương pháp thống kê, mơ tả và phân tích kết quả nghiên cứu,
so sánh kết quả tình hình hoạt động của các nước trong CPTPP. Dựa vào kết quả lược khảo từ
các nghiên cứu trước, từ cơ sở lý thuyết liên quan và kết quả đo lường thực nghiệm, luận án
vận dụng mơ hình SWOT để xác định điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với các
NHTM VN khi tham gia hiệp định CPTPP mục đích tăng tính vững cho lập luận đề xuất hàm
ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định ngân hàng trong bối cảnh
gia nhập CPTPP.
1.4.1.2. Phương pháp định lượng
Để thực hiện mục tiêu ước lượng năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định của các NHTM
VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, luận án sử dụng:


13
Phương pháp đo lường bằng chỉ số Lerner với các chỉ số được hình thành từ các tiêu
chuẩn sẵn có nhằm thực hiện ước lượng năng lực cạnh tranh và mức độ tác động của các yếu
tố đến năng lực cạnh tranh, thảo luận từ kết quả đo lường.
- Phương pháp đo lường bằng chỉ số Zscore với các chỉ số được hình thành từ các tiêu
chuẩn sẵn có nhằm thực hiện ước lượng mức độ ổn định và mức độ tác động của các yếu tố
đến mức độ ổn định, thảo luận từ kết quả đo lường.
- Các phương pháp kinh tế lượng được thực hiện bằng phần mềm Stata 14.0, cụ thể như
sau: Phương pháp nghiên cứu định lượng xây dựng mơ hình hồi quy, thơng qua các kiểm định

phù hợp để đo lường mức độ ảnh hưởng từ các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh, mức
độ ổn định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
1.4.1.3. Thiết kế khung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu xác định năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của
các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP, tác giả tiến hành lược khảo lý thuyết và các
nghiên cứu thực nghiệm có liên quan đến đề tài. Từ kết quả tổng quan nghiên cứu, tác giả đề
xuất khung quy trình nghiên cứu được tóm tắt như sau:


14
NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI
TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG

Các nghiên cứu trước và cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh,
mức độ ổn định, các nội dung trong Hiệp định CPTPP về ngân hàng

Bối cảnh thực tiễn và dữ liệu 31 ngân hàng
thương mại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2018

Phương pháp định tính

Phương pháp định lượng

Thống kê, phân tích, tổng hợp trên bộ dữ
liệu 11 nước CPTPP giai đoạn 2010 2018
Thực trạng tại VN và so sánh với 10
nước CPTPP giai đoạn 2010 - 2018

Chỉ số Lerner


Đề xuất mơ hình
đo lường năng
lực cạnh tranh

Chỉ số Zscore

Đề xuất mơ
hình đo lường
mức độ ổn định

Xác định năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định và
chiều hướng tác động của các yếu tố đến NLCT, ổn
định ngân hàng VN khi tham gia CPTPP

Thảo luận kết quả nghiên cứu

Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức cho các NHTM VN khi tham gia CPTPP

Đề xuất hàm ý chính sách cho các NHTM Việt Nam
Nguồn: Đề xuất của tác giả


15
1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng kết quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam và 10
nước thành viên trong CPTPP sử dụng dữ liệu thứ cấp trong khoảng thời gian từ 2010 – 2018,
được thu thập từ báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam, báo cáo tài chính
của Ngân hàng Nhà nước, dữ liệu công bố tại World Economic Outlook (WEO) của Quỹ tiền
tệ quốc tế (International Monetary Fund – IMF), Tổng cục thống kê Việt Nam, Ngân hàng thế

giới (Worldbank - WB).
Dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm mơ hình đo lường năng lực cạnh tranh và mức độ ổn
định được thu thập từ nguồn dữ liệu thứ cấp của 31 ngân hàng thương mại Việt Nam tại cơ sở
dữ liệu Bankscope, báo cáo thường niên, báo cáo tài chính hợp nhất có kiểm tốn, tài liệu đại
hội đồng cổ đơng thường niên theo năm của các NHTM chính thức cơng bố, báo cáo tài chính
của Ngân hàng Nhà nước.
Dữ liệu các yếu tố bên ngồi thuộc mơi trường vĩ mô được thu thập từ bộ dữ liệu WEO
của IMF, Tổng cục thống kê Việt Nam, WB.
Dữ liệu có cấu trúc dạng bảng và khơng cân bằng.
1.5. Đóng góp của luận án
Về mặt khoa học: Mơ hình luận án được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết về các
học thuyết kinh tế nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của ngân hàng; các
yếu tố đặc trưng cho ngân hàng được sử dụng trong mô hình dựa trên khung phân tích
CAMELS và bộ chỉ tiêu đo lường năng lực hoạt động của IMF, kế thừa từ các nghiên cứu
trước luận án chọn lọc các nhân tố phù hợp với NHTM VN trong bối cảnh hội nhập. Từ đó,
dựa trên lược khảo từ các nghiên cứu trước và tình hình thực tế của các NHTM VN, nghiên
cứu tiến hành xây dựng mơ hình hồi quy đo lường thực nghiệm thông qua chỉ số Lerner và
Zscore xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến NLCT và ổn định của NHTM VN trong
bối cảnh hội nhập CPTPP. Dựa trên cơ sở lý thuyết về cạnh tranh, ổn định ngân hàng và kết
quả ước lượng hồi quy làm cơ sở để đưa ra các kết luận. Kết quả này bổ sung tính vững cho
các lập luận, nhận định và bằng chứng thực nghiệm về đo lường NLCT và mức độ ổn định
NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.


16
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu xác định thực trạng kết quả hoạt động của các NHTM
VN, có so sánh với hệ thống tài chính các nước thành viên trong CPTPP qua một số yếu tố vĩ
mô, kết hợp với kết quả đo lường thực nghiệm NLCT và mức độ ổn định, từ đó xác định điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP.
Bên cạnh đó, luận án được thực hiện trên bộ dữ liệu thu thập trong giai đoạn 2010 – 2018, tiệm

cận nhất với thời điểm CPTPP được kí kết ở Việt Nam. Luận án đưa ra các hàm ý chính sách
được gợi ý trên cơ sở kết quả nghiên cứu cụ thể. Đây có thể là nguồn tham khảo hữu ích để
các nhà hoạch định chiến lược xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao NLCT và có chiến
lược ổn định NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra
được mức độ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh cũng như mức độ ổn định tài chính từ sự hiện
diện của các NHNNg đối với với các ngân hàng nội địa. Từ đó, giúp các nhà quản trị ngân
hàng có thể sử dụng kết quả nghiên cứu làm cơ sở tham khảo để xây dựng chính sách phù hợp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường mức độ ổn định ngân hàng, đồng thời dự đốn
được các tình huống để có chiến lược ứng phó với thử thách và nắm bắt cơ hội mà các cam kết
chung trong hiệp định CPTPP mang lại.
1.6. Kết cấu của luận án
Gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về nghiên cứu
Chương 1 trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu chính của luận án, bao gồm: tính
cần thiết của vấn đề nghiên cứu, tổng quan các nghiên cứu trước, khe hở nghiên cứu, mục tiêu
và câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp
của của luận án, kết cấu của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận và bằng chứng thực nghiệm liên quan
Chương 2 trình bày tồn bộ cơ sở lý thuyết về các vấn đề liên quan đến nghiên cứu: tự
do hóa tài chính, năng lực cạnh tranh và ổn định ngân hàng. Luận án cũng lược khảo các nghiên
cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố đến năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định ngân
hàng, tác động của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng.


17
Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên mục tiêu nghiên cứu ở chương 1 và cơ sở lý thuyết vấn đề nghiên cứu được
trình bày ở chương 2, nội dung chương 3 trình bày dữ liệu và phương pháp nghiên cứu phù
hợp để đo lường tác động của các yếu tố đến NLCT và mức độ ổn định của các NHTM VN.
Cụ thể các bước đi từ việc xây dựng mơ hình nghiên cứu, mơ tả các biến độc lập và biến phụ

thuộc đến thu thập và xử lý cơ sở dữ liệu thứ cấp của các NHTM VN. Cuối cùng luận án thực
hiện các ước lượng và kiểm định cần thiết cho các hệ số hồi quy trong các mơ hình đó.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Căn cứ vào các thao tác thực hiện hồi quy và kiểm định hệ số hồi quy của biến độc lập
ở chương 3, chương 4 tiến hành trình bày kết quả hồi quy và các kiểm định chi tiết của các mơ
hình sử dụng để đo lường tác động của các yếu tố đến NLCT, mức độ ổn định của các NHTM
VN. Bên cạnh đó, nghiên cứu tập trung thảo luận về dấu các hệ số hồi quy và biện giải kết quả
trả lời các câu hỏi nghiên cứu được xác định từ mục tiêu nghiên cứu ban đầu. Từ đó xác định
những cơ hội và thách thức đối với các NHTM VN trong bối cảnh gia nhập CPTPP.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Với kết quả nghiên cứu được thực hiện ở chương 3 và chương 4, nội dung chương 5 là
toàn bộ các gợi ý về mặt chính sách của luận án liên quan năng lực cạnh tranh và mức độ ổn
định của các NHTM VN trong bối cảnh hội nhập CPTPP nhằm giúp cho các nhà hoạch định
chính sách và quản trị ngân hàng xây dựng những chiến lược trong tương lai góp phần thúc
đẩy hệ thống NHTM Việt Nam phát triển bền vững và ổn định hơn.


18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này, tác giả đã giới thiệu khái quát về nghiên cứu của luận án để người
đọc có thể bước đầu hình dung về nghiên cứu. Đầu tiên, chương 1 nêu lên sự cần thiết nghiên
cứu về về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng thương mại Việt Nam
trong bối cảnh tham gia hiệp định CPTPP. Tiếp theo, sơ lược quá trình nghiên cứu về năng lực
cạnh tranh và mức độ ổn định của các ngân hàng được trình bày để thơng qua đó, các khe hở
nghiên cứu được đưa ra dựa trên vấn đề nghiên cứu về năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định
ngân hàng tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP cịn q ít. Tiếp theo, luận án trình
bày sự cần thiết thực hiện đề tài nghiên cứu cho các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương
này cũng nêu lên mục tiêu nghiên cứu của luận án là đo lường năng lực cạnh tranh, mức độ ổn
định của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập CPTPP, từ đó đưa ra

các gợi ý chính sách cho cơ quan quản lý nhà nước từ kết quả thực nghiệm. Đồng thời, chương
1 cũng nói rõ đối tượng nghiên cứu là năng lực cạnh tranh và mức độ ổn định cùng với phạm
vi nghiên cứu là 31 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2010 – 2018. Thêm vào
đó, chương 1 cũng trình bày phương pháp nghiên cứu bao gồm các phương pháp định tính như
liệt kê, mơ tả, phân tích, so sánh, tổng hợp để làm rõ cơ sở lý thuyết và xây dựng mơ hình thực
nghiệm, các phương pháp định lượng và các kiểm định để tiến hành các mơ hình thực nghiệm.
Về dữ liệu nghiên cứu, chương 1 cũng nêu rõ có dữ liệu 31 ngân hàng thương mại Việt Nam,
tổng tài sản và số lượng ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các chỉ số yếu tố vĩ mô như tốc
độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát. Song song đó, chương 1 nêu rõ các đóng góp mới của luận
án ở hai khía cạnh học thuật và thực tiễn. Cuối cùng, chương 1 nêu lên bố cục luận án là gồm
5 chương và nội dung khái quát của từng chương.


19

CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
Trong chương 2, luận án xác định khung lý thuyết nền dựa trên các cơ sở lý thuyết về
các vấn đề liên quan đến nghiên cứu: hội nhập quốc tế, tự do hóa tài chính, năng lực cạnh tranh
và ổn định trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, thơng qua kết quả lược lược khảo từ các
nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các yếu tố đến năng lực cạnh tranh, mức độ ổn định
ngân hàng, tác động của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng, tác giả xác định phương pháp và
dữ liệu phù hợp cho nội dung nghiên cứu của luận án.
2.1. Một số khái niệm liên quan đến nghiên cứu
2.1.1. Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Để tìm hiểu khái niệm “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng” cần tìm hiểu các
khái niệm sau: “Tồn cầu hóa kinh tế”, “Khu vực hóa kinh tế”, “Hội nhập kinh tế quốc tế”,
“Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ” để từ đó đưa ra khái niệm về “Hội nhập
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng”.
Theo tài liệu nghiên cứu và tổng hợp từ (Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử):

Khái niệm tồn cầu hóa kinh tế là một quá trình trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ
thuộc lẫn nhau về mọi mặt của đời sống xã hội giữa các quốc gia. Trong khi đó, khu vực hóa
kinh tế lại là hiện tượng trong quan hệ kinh tế quốc tế, bao gồm các hoạt động hợp tác kinh tế
giữa một số nước tập hợp thành những nhóm khu vực (dưới dạng định chế / tổ chức) có mức
độ liên kết kinh tế khác nhau.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau tuy nhiên ở đây chỉ đề cập đến một khái niệm tổng
hợp nhất về hội nhập kinh tế được các nhà nghiên cứu thường xuyên sử dụng, đó là “Hội nhập
kinh tế là q trình thơng qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương,
song phương và đa phương chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường của từng nước với kinh tế
khu vực và kinh tế thế giới” (Balassa Bela, Richard D. Irwin Inc., Homewood, lllinois, 1961).
Như vậy hội nhập quốc tế thực chất cũng là sự chủ động tham gia vào q trình tồn cầu hóa,
khu vực hóa. Nói cách khác, hội nhập bao hàm các nỗ lực về mặt chính sách và thực hiện của


20
các quốc gia để tham gia vào các định chế, tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh
tế quốc tế có nghĩa là tham gia vào cuộc cạnh tranh kinh tế ở cả trong và ngoài nước vì quá
trình hội nhập làm cho nền kinh tế mỗi nước ngày càng liên kết chặt chẽ với các nền kinh tế
thành viên khác, từ đó làm cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng tạo ra một thị trường
chung thống nhất trong đó những cản trở đối với sự giao lưu và hợp tác quốc tế dần dần giảm
và mất đi, sự cạnh tranh trở nên gay gắt.
Khái niệm hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, có thể đưa ra một khái niệm
chung nhất đó là “Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng là quá trình chủ động gắn kết
hoạt động ngân hàng của mỗi nước với hoạt động của hệ thống ngân hàng trong khu vực và
thế giới, thông qua những nỗ lực mở cửa và tự do hóa hoạt động ngân hàng trong nước với
điều kiện các hoạt động đó phải phù hợp với thông lệ, với luật pháp quốc tế. Hoạt động ngân
hàng phải tuân thủ theo quy luật thị trường và các nguyên tắc kinh doanh quốc tế, hoạt động
ngân hàng được thực hiện theo tín hiệu thị trường do thị trường quyết định mà không bị ngăn
chặn bởi các biện pháp quản lý hành chính, lãi suất, tỷ giá, hoạt động tín dụng …”
Đối với hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ được hiểu là quá

trình mà các nước, các khu vực thực hiện mở cửa cho sự tham gia của các yếu tố bên ngồi
vào lĩnh vực tài chính - tiền tệ, bao gồm cơng nghệ, vốn đầu tư, tín dụng và lao động có trình
độ chun mơn cao. Hội nhập quốc tế về tài chính - tiền tệ là thực hiện q trình tự do hóa tài
chính (xóa bỏ các định hướng, hạn chế, hay ràng buộc trong việc phân bổ nguồn lực tài chính).
2.1.2. Khái niệm tự do hóa tài chính
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế tự do hóa tài chính đã và đang trở thành xu thế lớn của
kinh tế học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh. Sự phát triển kinh tế
của các quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều chính sách cũng như cơ cấu tài chính của quốc gia
đó. Tự do hóa tài chính đã và đang là xu thế của kinh tế học hiện đại.
Theo Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) "Tự do hố tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối
cùng là huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia,
làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo qui luật thị trường".
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tự do hóa tài chính là q trình giảm thiểu và
cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc


21
gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường. Nội
dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay
của các NHTM, tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính
trên thị trường tài chính.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có của
thị trường và chuyển vai trị điều tiết tài chính từ Chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra
sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm
vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa tài chính thườngđược thể hiện bằng tỷ số giữa
tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Tự do hóa tài chính là một khái niệm rộng và đa đạng, hàm ý: Thứ nhất, tự do hóa tài
chính đó là sự xóa bỏ đi các hạn chế, định hướng hay ràng buộc trong quá trình phân bổ nguồn
lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá trình phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa
là các tổ chức tài chính được quyền tự do xác định lãi suất – tiền gửi và cho vay. Điều này cũng

bao hàm việc xóa bỏ mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn
vốn huy động được (ví dụ như các khoản tín dụng ưu đãi). Thứ hai, tự do hóa tài chính cũng
đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động tài chính mang tính chất trung
gian, điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa những loại
hình hoạt động khác nhau.
2.1.3. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là sự tranh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có chức năng như
nhau thơng qua các hành động, nổ lực và các biện pháp để giành phần thắng trong cuộc đua,
để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần, lợi nhuận, hiệu quả,
an toàn, thương hiệu, … Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc
biệt, nhằm “mua” và “bán” một lợi ích có liên quan tới tài chính song khơng tồn tại dưới dạng
vật chất. Đã là doanh nghiệp thì khái niệm cạnh tranh của doanh nghiệp cũng đúng cho các
NHTM.
Theo K.Marx (1977): Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa


22
để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Khi nghiên cứu sâu hơn về bản chất của cạnh tranh tư bản
chủ nghĩa trong nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, Marx cho rằng quy luật cạnh tranh cơ
bản là sự điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành. Theo Michael E. Porter (1980):
Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận cao hơn mức
lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả của q trình cạnh tranh là sự bình
qn hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể
giảm đi. Ngồi ra, khi đề cập đến cạnh tranh theo cấp độ doanh nghiệp, M.E.Porter (1996) lý
giải đó là việc đấu tranh hay giành giật giữa các đối thủ về khách hàng, thị phần hay nguồn lực
của các doanh nghiệp. Bản chất của cạnh tranh trong giai đoạn mới không phải là sự tiêu diệt,
loại trừ lẫn nhau mà chính là việc gia tăng giá trị hay tạo ra sự mới lạ, độc đáo hơn cho hàng
hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Để từ đó khách hàng lựa chọn mình chứ khơng phải

đến với đối thủ cạnh tranh. Sau đó, trong cuốn Competitive Advantage (1998), Porter khẳng
định tầm quan trọng của cạnh tranh quyết định thành cơng hay thất bại của một cơng ty. Ơng
cho rằng cạnh tranh giúp xác định sự phù hợp trong hoạt động mà qua đó nâng cao hiệu quả
của cơng ty ở một số mặt cụ thể như: sự đổi mới, gắn kết văn hóa, hoạt động tốt hơn,…
Một khái niệm nữa về cạnh tranh được hai nhà kinh tế học P.A. Samuelson và
W.D.Nordhaus (1985) đưa ra: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp với nhau
nhằm để giành khách hàng hoặc thị trường”
Năng lực cạnh tranh
Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh (NLCT) được hiểu là khả
năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường
cạnh tranh, đảm bảo thực hiện một tỉ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỉ lệ đòi hỏi tài trợ cho những
mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời đạt được những mục tiêu doanh nghiệp đặt ra. NLCT có
thể được chia thành 3 cấp:
+ NLCT quốc gia: Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu
hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
+ NLCT của doanh nghiệp: Là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. NLCT của doanh nghiệp thể
hiện qua hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó đạt được.


23
+ NLCT của sản phẩm và dịch vụ: đo bằng thị phần của sản phẩm dịch vụ trên thị trường.
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó, dựa vào
chất lượng, tính độc đáo, dịch vụ, yếu tố cơng nghệ chứa trong sản phẩm dịch vụ đó.
Theo Michael Porter: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là tổng hợp khả năng nắm
giữ và chiếm lĩnh thị trường của chủ thể tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được
hiệu quả tối ưu trong một môi trường kinh doanh cụ thể”. NLCT được đánh giá dựa trên năng
suất, giá trị của hàng hố dịch vụ làm ra tính trên một đơn vị nhân lực, vốn và tài nguyên của
một quốc gia. Năng suất cao tạo ra mức lương cao (cho người lao động), đồng tiền mạnh (cho
một quốc gia), lợi nhuận hấp dẫn trên một đồng vốn (cho doanh nghiệp) và cuối cùng là mức

sống cao (cho người dân).
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp, nhưng hoạt động ngân hàng là loại hình kinh
doanh đặc biệt, đó là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. NLCT của ngân
hàng thương mại là sự tổng hợp tất cả khả năng của ngân hàng đáp ứng được nhu cầu khách
hàng về việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng có chất lượng cao, đa dạng và phong
phú, tiện ích và thuận lợi, có tính độc đáo so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại trên thị
trường, tạo ra được lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận hàng năm của các ngân hàng, tạo
được uy tín, thương hiệu và vị thế cao trên thị trường, có khả năng chống đỡ và vượt qua những
biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.
Như vậy, thông qua các nghiên cứu và định nghĩa của các nhà kinh tế học nêu trên, khái
niệm về NLCT của NHTM có thể được rút ra như sau: “NLCT của hệ thống NHTM là khả
năng ngân hàng tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh
tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn hơn, tạo ra lợi nhuận cao và phát triển bền vững”
2.1.4. Khái niệm ổn định ngân hàng
Khái niệm ổn định ngân hàng được dựa trên khái niệm ổn định tài chính. Tuy nhiên,
hiện nay trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa về ổn định tài chính, đặc trưng như:
Ổn định hệ thống tài chính nghĩa là một hệ thống tài chính mà trong đó các chủ thể trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực hiện tốt các chức năng của
mình và có khả năng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn (Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ).


24
Ổn định tài chính là khả năng vận hành tốt các chức năng chính của hệ thống tài chính,
kể cả trong thời kỳ kinh tế căng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ cấu nhằm giúp phân bổ một
cách có hiệu quả các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo nền tảng hạ tầng tài chính hiệu
quả (Ngân hàng Trung ương Đức).
Ổn định hệ thống tài chính là 1 trạng thái mà trong đó các trung gian tài chính, thị trường
và hạ tầng tài chính phân bổ tốt các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế (Ngân hàng Trung ương Úc).
Ổn định tài chính hàm ý việc xác định rủi ro trong hệ thống tài chính và hành động để
giảm thiểu chúng (Ngân hàng Trung ương Anh).

Ổn định tài chính là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài
chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro
do sự mất cân đối tài chính gây ra từ đó làm giảm bớt khả năng sụp đổ của các trung gian tài
chính vốn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư (Ngân hàng Trung
ương Châu Âu).
Một hệ thống tài chính ổn định và an tồn là một hệ thống có thể trụ vững được trước
những biến động bất thường của nền kinh tế và trước các cú sốc tài chính nảy sinh từ bên trong
hoặc bên ngồi hệ thống tài chính (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Như vậy, thông qua các nghiên cứu và định nghĩa của các nhà kinh tế học nêu trên, khái
niệm về ổn định ngân hàng có thể được rút ra như sau “Việc ngân hàng hoạt động có hiệu quả,
có khả năng ứng phó tốt đối với những tác động bên trong và bên ngoài, trong hiện tại và cả
tương lai, đặc biệt là các cú sốc của nền kinh tế mà vẫn duy trì được khả năng thanh tốn cho
các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động một cách bình thường”.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, những đặc trưng trong cam kết của hiệp định
thương mại CPTPP được đánh giá đây là hiệp định mở, tiếp cận thị trường toàn diện, hiệp định
thương mại khu vực, gắn kết thị trường hoạt động chung toàn diện và tiến bộ trên phạm vi sâu,
rộng … ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế. Các nội dung cam kết liên quan
đến lĩnh vực tài chính ngân hàng cho thấy mức độ tự do hóa tài chính trong khn khổ CPTPP
rất cao dù các nước thành viên được quyền chủ động thực hiện các biện pháp củng cố tính ổn


25
định tài chính và tính thống nhất của hệ thống tài chính của mình. Khi thực thi CPTPP, q
trình cạnh tranh giữa các nước trong khu vực, giữa các ngành nghề trong và ngoài nước là tất
yếu, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ ổn định tài chính của mỗi thành viên trong khối
CPTPP. Vì vậy cơ sở lý thuyết của luận án chủ yếu dựa trên các học thuyết kinh tế về hội nhập
quốc tế, tự do hóa tài chính, lý thuyết cạnh tranh, lý thuyết ổn định trong lĩnh vực ngân hàng.
Cơ sở lý thuyết nghiên cứu dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế được nghiên cứu của nhiều nhà
kinh tế học như John Maynard Keynes, Shaw và McKinnon, Adam Smith, Carl Menger, Eugen

von Bohm – Bawerk, Friedrich von Wieser) … và lược khảo từ các kết quả nghiên cứu trước.
2.2.1. Lý thuyết tự do hóa tài chính trong hội nhập quốc tế về ngân hàng
Trong bối cảnh hội nhập CPTPP, các nghiên cứu liên quan về tự do hóa tài chính trong
q trình hội nhập quốc tế về ngành ngân hàng có vai trị rất quan trọng. Việc nghiên cứu này
có ý nghĩa thiết thực giúp các nhà quản trị ngân hàng sẽ có chiến lược, định hướng đúng đắn
trong việc xác định các cơ hội cũng như các rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động của các ngân hàng
trong quá trình hội nhập quốc tế.
2.2.1.1. Các quan điểm về tự do hóa tài chính
Trong q trình tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa tài chính là xu thế
tất yếu của mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước
đang phát triển đã thu hút được lượng vốn đầu tư rất lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện
đại từ các nước công nghiệp phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu,
gia tăng áp lực thúc đẩy cạnh tranh, tăng chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (xóa
bỏ độc quyền). Tuy nhiên, dòng vốn vào tăng mạnh cũng như sự gia nhập của nhiều TCTC
vào một thị trường cạnh tranh chung cũng cũng gây khó khăn cho các cơ quan quản lý tài chính
trong việc duy trì ổn định tài chính và ngăn chặn nguy cơ đào thốt của dòng vốn đầu tư. Điều
này đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi chiến lược, không chỉ dừng lại ở các biện pháp tái cơ
cấu đơn thuần, nhất là về tài chính và đầu tư phát triển sản xuất trong bối cảnh các luồng tài
chính bị kiểm sốt chặt chẽ hơn, qua đó sẽ nhanh chóng tránh được những tác động tiêu cực từ
bên ngồi. Hiện nay có hai quan điểm lớn về tự do hóa tài chính đang tồn tại và đối lập nhau:
Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng hệ thống tài chính có vai trị rất nhỏ bé
trong sự phát triển kinh tế “thực”. Nó chỉ đơn thuần cung cấp cho khu vực tư nhân cơ hội hợp


×