Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đường lối lãnh đạo và bài học kinh nghiệm của đảng ta về đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.5 KB, 26 trang )

Bìa


MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................2
I. Đường lối của Đảng về đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong
thời kỳ đổi mới.........................................................................................2
1.1. Đường lối đối ngoại........................................................................2
1.2. Đường lối hội nhập kinh tế quốc tế................................................5
II. Thực tiễn hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam...................................................................................................9
2.1. Những dấu ấn trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam................9
2.1.1. Về hình ảnh vị thế Việt Nam trong mắt cộng đồng bạn bè
quốc tế...............................................................................................9
2.1.2. Bảo vệ lãnh thổ biên giới, chủ quyền, quyền chủ quyền biển,
đảo...................................................................................................10
2.1.3. Về nội dung chủ trương, chính sách, đường lối đối ngoại....10
2.2. Những kết quả đạt được trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam.....................................................................................................12
2.2.1. Thành tựu..............................................................................12
2.2.2. Hạn chế..................................................................................13
III. Một số bài học kinh nghiệm...........................................................14
IV. Giải pháp thúc đẩy hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc
tế của Việt Nam trong giai đoạn tới.....................................................15
4.1. Đối với hoạt động đối ngoại.........................................................15
4.2. Đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế...................................17
i



C. KẾT LUẬN...............................................................................................21
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................22

ii


A. MỞ ĐẦU
Đường lối đối ngoại là một bộ phận của đường lối lãnh đạo chung của
Đảng ta, ở mỗi giai đoạn cách mạng có mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể và
góp phần phục vụ đường lối đối nội. Qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội: Kinh tế tăng trưởng khá, chính trị ổn định, quốc phịng - an ninh
được tăng cường, văn hóa - xã hội có bước phát triển mới; đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân được cải thiện; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng,
đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng
cao. Quan hệ đối ngoại của Đảng không ngừng được mở rộng và tăng cường
với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa phương
và đa dạng hóa các quan hệ. Cơng tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao
Nhà nước và đối ngoại nhân dân kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi
to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần phát triển đất nước trong những năm
qua.
Trong 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thắng lợi trong cơng tác
đối ngoại. Trước bối cảnh tình hình khu vực, thế giới tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó lường, cơng tác đối ngoại cần tiếp tục kiên trì nắm vững nhiệm vụ,
mục tiêu, tơn chỉ nhằm giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, vì lợi ích quốc
gia - dân tộc. Nắm bắt được tính thời sự về vấn đề trên, tác giả đã chọn đề tài
“ Đường lối lãnh đạo và bài học kinh nghiệm của Đảng ta về đối ngoại và
hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới” nhằm có cái nhìn sâu và
rộng hơn về vấn đề đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả Đối ngoại và Hội nhập quốc tế.

1


B. NỘI DUNG
I. Đường lối của Đảng về đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời
kỳ đổi mới
1.1. Đường lối đối ngoại
Tháng 2-2021 vừa qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã thành công rực rỡ, thông qua Nghị quyết Đại hội và các văn kiện
quan trọng, tổng kết các thành tựu và bài học của nhiệm kỳ qua cũng như 35
năm đổi mới, đề ra tầm nhìn, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể của
đất nước từ nay đến năm 2045.
Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương hướng
đối ngoại, đó là:
Một là, Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc
tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các nguồn lực
bên ngoài để phát triển đất nước.
Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta,
vừa là sự nhìn nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm
vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trị tiên phong của đối ngoại” khơng
chỉ có ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự
phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà
nước. Trong thời bình, cơng tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan
trọng, cùng với quốc phòng - an ninh đóng vai trị tiên phong, góp phần bảo
vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là, Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.

Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu
chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị
2


quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ
đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước.
Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hịi mà thúc
đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Ba là, Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;
Cần thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả
vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia.
Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc khác
nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen lợi
ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực
tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “Tích cực triển khai các cam kết
khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và
chương trình phát triển kinh tế - xã hội”.
Bốn là, tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những
bước phát triển mới.
Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại
song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và
“tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần chủ động tham gia, tích cực đóng
góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa
phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” và “trong những vấn đề, các cơ
chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp với khả

năng và điều kiện cụ thể. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận và thực
tiễn từ Đại hội XII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư (8-8-2018). Điều này phù
hợp thế và lực mới của đất nước cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối
3


với công tác đối ngoại. Tư duy về không gian và các trọng điểm chiến lược
của đất nước cũng được thể hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực
tiểu vùng Mê Công, ASEAN, châu Á - Thái Bình Dương, các nước lớn và các
đối tác quan trọng…
Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phịng,
an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn
định của đất nước, giữ nước từ sớm, từ xa.
Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh,
làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Về bảo vệ chủ quyền,
biển đảo nêu rõ tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an
tồn hàng hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa bình, an
ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến
đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng. Đối ngoại cũng phải tăng
cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không
để bị động, bất ngờ.
Sáu là, sự quan tâm và quan điểm của Đảng và Nhà nước về cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Văn kiện nêu rõ cần hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa vị
pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại.
Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh…
Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng

cao lịng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thơng tin tình hình trong
nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với
lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt
Nam ở nước ngồi đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
4


quốc. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách
nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập với xã hội sở tại, đồng thời
tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Bảy là, Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Tính “tồn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và
đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thơng tin đối ngoại,
cơng tác về người Việt Nam ở nước ngồi, bảo hộ cơng dân…, qua đó phát
huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ
mục tiêu phát triển của đất nước, ngoại giao sẽ không chỉ triển khai các nhiệm
vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mơ, mà cịn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh
nghiệp, người dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát
triển của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm
tới. Tính “hiện đại” của ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát
triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy,
cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm
quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục tiêu phát triển của đất nước.
Tám là, Cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Văn kiện Đại hội XIII đã nêu Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực,
phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình

hình. Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là yếu tố
quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu
nhiệm vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới.

5


1.2. Đường lối hội nhập kinh tế quốc tế
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đánh giá toàn diện kết quả công
tác, bài học kinh nghiệm của nhiệm kỳ qua. Trong đó, đối ngoại là một trong
các lĩnh vực nhận được sự quan tâm cao. Về thành tựu công tác đối ngoại, Đại
hội đã đánh giá: “Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở
rộng và đi vào chiều sâu, tạo khuôn khổ quan hệ ổn định và bền vững với các
đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể
chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các
nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các
đối tác khác. Văn kiện Đại hội đã khẳng định những điểm nổi bật về phương
hướng đối ngoại, đó là:
Một là, Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc
tạo lập và giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định, huy động các nguồn lực
bên ngoài để phát triển đất nước.
Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng ta,
vừa là sự nhìn nhận vai trị quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm
vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới. “Vai trò tiên phong của đối ngoại” khơng chỉ
có ngoại giao mà cả quốc phòng, an ninh và các binh chủng khác, trong sự
phối hợp liên ngành dưới sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Đảng và Nhà
nước. Trong thời bình, công tác đối ngoại sẽ tiếp tục là một mặt trận quan
trọng, cùng với quốc phịng - an ninh đóng vai trị tiên phong, góp phần bảo
vệ an ninh, độc lập và chủ quyền đất nước.
Hai là, Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các

nguyên tắc cơ bản Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng và cùng có lợi.
Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu
chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại. Không những vậy, Nghị
quyết Đại hội lần thứ XIII còn xác định đây là một trong những quan điểm chỉ
6


đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển của đất nước.
Đồng thời, Việt Nam không theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi mà thúc
đẩy lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Ba là, Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan
hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Độc lập, tự chủ là cơ sở, tạo ra sức mạnh nội sinh để nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. “Hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng” nghĩa là hội nhập đầy đủ trên các lĩnh vực, các tầng nấc
khác nhau với mức độ tham gia, đóng góp thực chất hơn, cam kết và đan xen
lợi ích cao hơn. Hội nhập quốc tế cũng phải bám sát, gắn chặt và phục vụ trực
tiếp nhiệm vụ phục vụ phát triển với việc “tích cực triển khai các cam kết khu
vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương
trình phát triển kinh tế-xã hội”.
Bốn là, Tư duy về đối ngoại song phương và đa phương có những
bước phát triển mới.
Về song phương, chúng ta cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại
song phương đi vào chiều sâu, đồng thời cần “tạo thế đan xen lợi ích” và
“tăng độ tin cậy”. Đối ngoại đa phương cần “chủ động tham gia, tích cực
đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể
chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”, và “trong những vấn đề,
các cơ chế quan trọng, có tầm chiến lược đối với lợi ích Việt Nam, phù hợp

với khả năng và điều kiện cụ thể”. Điều này phù hợp với thế và lực mới của
đất nước cũng như những đòi hỏi thực tiễn mới đối với công tác đối ngoại. Tư
duy về không gian và các trọng điểm chiến lược của đất nước cũng được thể
hiện rất rõ, đó là các nước láng giềng, khu vực tiểu vùng Mekong, ASEAN,
châu Á – Thái Bình Dương, các nước lớn và các đối tác quan trọng…

7


Năm là, đối ngoại được giao trọng trách tham gia cùng quốc phịng,
an ninh và cả hệ thống chính trị vào việc bảo đảm mơi trường hịa bình, ổn
định của đất nước.
Về an ninh quốc gia, văn kiện nêu rõ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm
thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công
việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Về bảo vệ chủ quyền, biển đảo
cần tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng
hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên Hợp
Quốc và Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh,
hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường
biên giới trên bộ với các nước láng giềng”. Đối ngoại cũng phải “tăng cường
công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, chiến lược về đối ngoại, không để bị
động, bất ngờ.
Sáu là, văn kiện khẳng định sự quan tâm và quan điểm của Đảng và
Nhà nước về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Văn kiện nêu rõ cần hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngồi có địa vị
pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội nước sở tại.
Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh…
Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng
cao lịng tự hào, tự tơn dân tộc. Làm tốt cơng tác thơng tin tình hình trong

nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với
lợi ích quốc gia – dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt
Nam ở nước ngồi đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Đây sẽ là phương hướng để xây dựng những chủ trương, chính sách
nhằm hỗ trợ, tạo thuận lợi cho bà con hội nhập với xã hội sở tại, đồng thời
tiếp tục giữ gìn văn hóa, bản sắc dân tộc và đóng góp vào xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
8


Bảy là, Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là
đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân
Tính “tồn diện” thể hiện trên các chủ thể, địa bàn, cả song phương và
đa phương, trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, thơng tin đối ngoại,
cơng tác về người Việt Nam ở nước ngồi, bảo hộ cơng dân…, qua đó phát
huy hiệu quả sức mạnh của tất cả các binh chủng. Đặc biệt, nhằm phục vụ
mục tiêu phát triển của đất nước, ngoại giao sẽ không chỉ triển khai các nhiệm
vụ chính trị lớn ở tầm vĩ mơ, mà cịn phục vụ trực tiếp các địa phương, doanh
nghiệp, người dân, tranh thủ mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược và đối tác
toàn diện để mở rộng địa bàn, thị trường, tranh thủ nguồn ngoại lực cho phát
triển của đất nước. Đây sẽ là trọng tâm lớn của công tác đối ngoại những năm
tới. Tính “hiện đại” của ngoại giao được thể hiện ở việc xây dựng ngành, phát
triển và nâng tầm phương thức triển khai công tác đối ngoại, tổ chức bộ máy,
cơ sở hạ tầng, công nghệ và trang thiết bị… đạt trình độ khu vực và vươn tầm
quốc tế, qua đó phục vụ tốt mục tiêu phát triển của đất nước.
Tám là, Cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
Văn kiện Đại hội XIII đã nêu “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực,
tính chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của
tình hình”. Qua đó nhấn mạnh phẩm chất, năng lực của cán bộ đối ngoại là

yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm bảo đảm đáp ứng được các yêu
cầu nhiệm vụ ngày một cao hơn trong tình hình mới.
II. Thực tiễn hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam
2.1. Những dấu ấn trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam
2.1.1. Về hình ảnh vị thế Việt Nam trong mắt cộng đồng bạn bè quốc tế
Hình ảnh và uy tín của Việt Nam đã được nâng cao trong mắt bạn bè
trong thời gian qua. Việt Nam vốn được biết đến và được yêu quý, vì là đất
9


nước có nền văn hóa rất đặc sắc, có nhiều cộng đồng dân tộc và có lịch sử lâu
dài. Đặc biệt người ta biết đến Việt Nam là dân tộc u chuộng hịa bình
nhưng là dân tộc bất khuất và đã giành được thắng lợi trong việc bảo vệ nền
độc lập của mình trong chiều dài lịch sử. Việt Nam cũng được biết đến nhiều
về thành tựu của quá trình đổi mới, Việt Nam trở thành điểm đến của các nhà
đầu tư là đối tác thương mại trên thế giới. Do đó, hình ảnh Việt Nam được thế
giới rất trân trọng. Lại thêm việc trong 5 năm qua, Việt Nam tạo ấn tượng rất
lớn khi đóng góp tích cực và có trách nhiệm đối với các vấn đề quốc tế, tham
gia hoạt động gìn giữ hịa bình.
Có thể khẳng đinh, hình ảnh Việt Nam hiện nay rất tốt đẹp đối với cộng
đồng quốc tế. Với những lý do như vậy, đó là thuận lợi rất lớn cho chúng ta,
khơng chỉ trong q trình triển khai cơng tác đối ngoại mà cả trong quá trình
đổi mới, triển khai chiến lược phát triển kinh tế xã hội với những mục tiêu rất
lớn.
2.1.2. Bảo vệ lãnh thổ biên giới, chủ quyền, quyền chủ quyền biển, đảo
Mục tiêu đường lối đối ngoại của Việt Nam là giữ được mơi trường hịa
bình, ổn định cho phát triển đất nước, tranh thủ được tốt nhất điều kiện thuận
lợi cho quá trình đổi mới cũng như quá trình phát triển kinh tế xã hội. Đó
cũng là mục tiêu nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời

đó cũng là mục tiêu làm sao đóng góp vào cơng việc của cộng đồng quốc tế.
Một mục tiêu đã được đề ra rất quan trọng là cần kiên quyết, kiên trì giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Điều này được khẳng định giữ vị trí
hàng đầu trong đường lối đối ngoại của chúng ta trong nhiều Đại hội vừa qua,
trong đại hội này, trong tổng thể thực hiện các mục tiêu đó.
2.1.3. Về nội dung chủ trương, chính sách, đường lối đối ngoại
Chúng ta đã nâng cao hiệu quả và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối
tác quốc tế, mở rộng thêm quan hệ với nhiều đối tác quốc tế, nâng số lượng
đối tác chiến lược và đối tác toàn diện lên con số 30, gồm tất cả các nước là
Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, phần lớn các nước
10


thành viên các nhóm chính trị, kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là các nước
láng giềng.
Một điều rất quan trọng là chúng ta đã giữ vững được toàn vẹn lãnh
thổ, chủ quyền, đạt được nhiều thành tựu cụ thể trong giải quyết vấn đề biên
giới. Đối với đường biên giới trên bộ (khoảng trên 5.000 km), chúng ta đã
hoạch định xong tồn bộ với cả ba nước có biên giới chung là Lào,
Campuchia, Trung Quốc. Trước đây chúng ta đã phân giới cắm mốc xong với
Lào, Trung Quốc, và vừa qua đã hoàn thành 84% phân giới cắm mốc với
Campuchia.
Điểm lớn nữa là chúng ta đã tranh thủ tốt hội nhập quốc tế cho phát
triển kinh tế xã hội, thể hiện từ chủ trương quan hệ chính trị, hội nhập quốc tế.
Chúng ta đã thu hút được nguồn lực đầu tư rất lớn, thúc đẩy thương mại, du
lịch, tranh thủ về khoa học, công nghệ, giáo dục… Đồng thời chúng ta vẫn
giữ được độc lập, tự chủ, trong đó có tự chủ về kinh tế.
Trên cơ sở đó, chúng ta vẫn thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đã
đem lại những thành tựu phát triển của đất nước và được sự ủng hộ rộng rãi
của khu vực và cộng đồng quốc tế. Đó là đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,

hồ bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam là bạn, đối tác trách nhiệm, tin cậy
trong cộng đồng quốc tế; đa phương hoá, đa dạng hố và bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia, dân tộc dựa trên luật pháp quốc tế, bình đẳng giữa các quốc gia.
Lần này có điểm nhấn rất mạnh là chúng ta đặt ra nhiệm vụ đối ngoại, phát
huy vai trị tiên phong trong tạo dựng và gìn giữ mơi trường hồ bình, tranh
thủ điều kiện thuận lợi cho q trình phát triển và đổi mới đất nước cũng như
nâng cao vị thế của Việt Nam.
Đảng và Nhà nước cũng nêu rất rõ đối ngoại gồm 3 trụ cột: đối ngoại
Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Nhân dân. Đây là 3 lực lượng phát
huy tác dụng trong quá trình kháng chiến để nâng cao vị thế của đất nước,
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kể cả tinh thần và vật chất cũng như trong
11


quá trình đổi mới thời gian qua. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đại
hội nói rõ 3 trụ cột này. Để thực hiện điều đó phải xây dựng đội ngũ cán bộ
đối ngoại có năng lực cao hơn, có trình độ tốt hơn, tồn diện hơn, đặc biệt là
xây dựng nền ngoại giao toàn diện và hiện đại.
2.2. Những kết quả đạt được trong hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
2.2.1. Thành tựu
Thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng, số lượng đối tác thương mại
gia tăng, tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và
các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào tăng trưởng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự
chuyển dịch mạnh theo hướng giảm tỷ lệ nông sản thô, nguyên nhiên liệu và
tăng tỷ lệ các mặt hàng công nghiệp và chế biến; phát triển được nhiều ngành,
sản phẩm có năng lực cạnh tranh, phục vụ tốt yêu cầu phát triển kinh tế và cải
thiện vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh tế của khu vực và thế giới.
Tạo được những chuyển biến lớn về tư duy của cả chính quyền, doanh
nghiệp và xã hội, tạo động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới; hoàn

thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật
pháp; điều chỉnh chính sách theo các chuẩn mực quốc tế, từ đó nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong 5 năm, Việt Nam đã sửa đổi và
xây dựng 86 luật để tạo điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Với sự ra đời Luật đầu tư nước ngoài, và sự điều chỉnh của các
điều luật, cơ chế, chính sách khác, Việt Nam đã và đang tạo lập môi trường
pháp lý ngày càng thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong và ngồi nước.
Tiếp thu cơng nghệ mới và đào tạo nguồn nhân lực. Hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo cơ hội và động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận, áp
dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới nhất. Nhiều công nghệ hiện
đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được áp dụng, tạo ra bước phát triển mới
trong các ngành sản xuất. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần
12


đào tạo cán bộ trên nhiều lĩnh vực. Hàng vạn lao động trực tiếp, cán bộ kỹ
thuật, cán bộ quản lý,… được đào tạo và trưởng thành có thể tiếp cận và
chuyển giao thành công các công nghệ hiện đại của nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam.
Từng bước đưa doanh nghiệp và nền kinh tế bước vào môi trường cạnh
tranh. Hội nhập kinh tế quốc tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh
tranh ở cả thị trường trong nước và nước ngồi, do đó các doanh nghiệp phải
khơng ngừng đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao năng suất và chất
lượng, xây dựng thương hiệu để không ngừng phát triển. Hiện nay nhiều mặt
hàng của nước ta được đánh giá có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Một số doanh nghiệp đã đầu tư hoạt động ở nước ngoài như: Viettel, Petro
Vietnam, Hoàng Anh Gia Lai, cà phê Trung Nguyên, Vinamilk,… Thị trường
chủ yếu là Lào, Nga, Singapore, Campuchia, Anh, Ấn Độ, Đài Loan,…
Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và tương đối ổn định,
góp phần cải thiện đời sống của nhân dân. Năm 1990, thu nhập bình quân đầu

người nước ta ở mức dưới 100 USD, năm 2005 đạt 640 USD, năm 2010 đạt
1168 USD. Tuy nhiên đến Đại hội XII của Đảng, “Tốc độ tăng Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình qn 5 năm đạt trên 5,9%/năm. Quy mơ và tiềm
lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2020 đạt 343 tỷ USD, bình
quân đầu người khoảng 3.600 USD. Góp phần củng cố hệ thống chính trị - an
ninh - quốc phòng Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp củng cố hệ
thống chính trị, nâng cao uy tín, vai trị của Đảng và Nhà nước, làm cho vị thế
và vai trò quốc tế của Việt Nam được tăng cường. Mặt khác hộ nhập kinh tế
quốc tế tạo nền tảng để bảo đảm an ninh, quốc phòng, tạo điều kiện tốt hơn để
thực hiện các chương trình xã hội như xóa đói giảm nghèo, phát triển vùng
sâu vùng xa.
Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng
cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Trên tinh thần đó, Đại hội XII của Đảng xác định: “Nâng cao hiệu quả
13


hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững mơi trường hịa
bình và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước
2.2.2. Hạn chế
Chưa xác lập được một cách thật sự bền vững môi trường thuận lợi cho
phát triển đất nước. Quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng
chưa ổn định, còn tồn tại nhiều trở ngại trong phát triển quan hệ giữa nước ta
với các nước đối tác lớn. Hiệu quả hoạt động đối ngoại trong một số trường
hợp chưa được như mong muốn; việc triển khai thực hiện các kết quả, các
thỏa thuận chưa kịp thời; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn chưa nhịp
nhàng và
đồng bộ.
Đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế
chưa được các cấp, các ngành quán triệt đầy đủ, chậm cụ thể hóa và thế chế

hóa; các đơn vị chưa nhận thức rõ, chủ động tận dụng các cơ hội, cũng như
chưa thấy được thách thức mới nảy sinh để chủ động ứng phó.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu nâng cao
hiệu quả, phát triển bền vững, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an tồn xã
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; chưa được tiến hành đồng
bộ với quá trình gia tăng liên kết giữa các vùng, miền trong cả nước. Cơ chế
chỉ đạo, điều hành, giám sát và phối hợp quá trình hội nhập, từ Trung ương
đến địa phương, giữa các ban, ngành cịn nhiều bất cập.
Hợi nhập q́c tế về quốc phịng, an ninh, văn hóa, xã hội và một số
lĩnh vực khác chưa đi vào chiều sâu, chưa gắn kết và tạo tác động tích cực đối
với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; trong nhiều trường hợp cịn bị động;
khuynh hướng tiếp nhận trợ giúp q́c tế còn phổ biến.

14


III. Một số bài học kinh nghiệm.
Từ thực tiễn triển khai đường lối và chính sách đối ngoại, hội nhập
quốc tế của Đảng thời kỳ đổi mới, có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm
như sau:
Một là, cần nhìn nhận thế giới một cách khách quan, biện chứng. Cần
có nhận thức khoa học và tư duy thay đổi linh hoạt về thế giới để có những
chiến lược, sách lược phù hợp nhất với lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng rất thành công bài học này, và trong bối cảnh
môi trường quốc tế diễn biến ngày càng phức tạp hiện nay, đây là bài học cần
hết sức lưu ý, chú trọng.
Hai là, gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, để lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn là đặc
trưng của đối ngoại nước ta nói chung và đối ngoại thời kỳ đổi mới nói riêng.
Ba là, huy động và củng cố sức mạnh vật chất gắn với huy động và

phát huy sức mạnh tinh thần; kết hợp sức mạnh tự thân với sự đồng tình, ủng
hộ của bạn bè quốc tế; đặc biệt chú trọng đến sự đồng thuận, thống nhất trong
cả quá trình, từ điều hành cho tới triển khai các hoạt động đối ngoại
Bốn là, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Kiên trì ngun
tắc độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ đất nước, và xây dựng đất nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, linh
hoạt, mềm dẻo nhưng kiên quyết trong việc bảo đảm những nguyên tắc bất di
bất dịch ấy.
Năm là, nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước. Việt Nam đã
từng bước phá thế bao vây, cấm vận, bình thường hóa quan hệ với các nước;
tiến tới đa dạng hóa, đa phương hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại; đưa
các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững.
Trong hội nhập, khởi đầu bằng việc gia nhập ASEAN, Việt Nam đã gia nhập
các tổ chức quốc tế lớn hơn như ASEM (1996), APEC (1998), và WTO
15


(2006)... Từ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã từng bước mở rộng hội
nhập trong các lĩnh vực khác, từ chính trị, quốc phịng, an ninh đến các lĩnh
vực văn hóa, xã hội, khoa học, cơng nghệ, giáo dục, đào tạo.
IV. Giải pháp thúc đẩy hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam trong giai đoạn tới
4.1. Đối với hoạt động đối ngoại
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh hoạt động đối ngoại
Cần đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa
phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế
đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê
Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và
các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và
điều kiện cụ thể.

Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các
nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN
xây dựng Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của
ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực. Đoòng thời đẩy mạnh và làm sâu sắc
hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích
và tăng độ tin cậy.
Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an
ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công
việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các
vấn đề trên biển, an ninh, an tồn hàng hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp
quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.

16


Củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải
quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các
nước láng giềng. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến
lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ. Đổi mới nội dung, phương
pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ cơng dân,
triển khai tồn diện và mạnh mẽ hơn cơng tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp về hội nhập quốc tế
Cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện,
sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự
chủ, chủ quyền quốc gia. Gắn kết chặt chẽ q trình chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy

động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng
cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước.
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn
hóa, du lịch và các lĩnh vực khác. Tích cực triển khai các cam kết khu vực và
quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình
phát triển kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao
vai trị của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật
tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp
định thương mại đã ký kết.
Mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã
hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp
tác phát triển và tiến bộ xã hội. Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực,
phong cách chuyên nghiệp, đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác
đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình

17



×