Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Giải pháp đề hàng dệt may Việt Nam vượt qua rào cản kỹ thuật của EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.46 KB, 51 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại giữa các
nước là mang tính tất yếu. Bản chất của thương mại quốc tế chính là hoạt
động xuất nhập khẩu giữa các nước. Các hàng rào thuế quan và hạn ngạch
giảm dần và tiến tới xóa bỏ, việc lưu thông hàng hóa giữa các nước trở nên dễ
dàng hơn. Do vậy để đảm bảo nền sản xuất trong nước, bảo vệ người tiêu
dùng, hệ thống các rào cản kỹ thuật được các quốc gia sử dụng phổ biến. EU
được công nhận là một trong những thị trường khó tính nhất với những hệ
thống quy định và tiêu chuẩn rất khắt khe. Các rào cản kỹ thuật được sử dụng
trong hầu hết các ngành, không loại trừ ngành dệt may.
Hiện nay, EU đang là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam (đứng
thứ 2 sau Mỹ), chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU liên tục tăng trong những năm qua.
Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU chỉ đạt 2.3 tỷ EUR thì
đến năm 2008 con số này tăng lên 7,7 tỷ EUR. Trong đó tỷ trọng hàng dệt
may chiếm 9% tổng kim ngạch. Để có thể xuất khẩu bền vững tại thị trường
500 triệu dân này, đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có những
bước đi đúng đắn đáp ứng những yêu cầu mà thị trường đối tác đặt ra.
Góp phần giải quyết vấn đề trên, em đã chọn đề tài “Giải pháp đề
hàng dệt may Việt Nam vượt qua rào cản kỹ thuật của EU” làm chuyên đề
thực tập. Bài viết được hoàn thành trên cơ sở tổng hợp thông tin, phân tích và
đánh giá, tham khảo các nhận định của các chuyên gia kinh tế.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của chuyên đề
Đối tượng nghiên cứu: rào cản kỹ thuật của EU và tình hình vượt qua
các rào cản kỹ thuật của EU đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: các rào cản kỹ thuật của EU trong quản lý nhập
khẩu. Thời gian nghiên cứu 200 – 2009.
Phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Đề tài sử dụng các phương pháp lý luận thực tiễn, kết hợp phương pháp
tư duy logic, phương pháp phân tích số liệu, phương pháp so sánh và phương
pháp tổng hợp nhằm làm rõ nội dung đề tài.


Kết cấu chuyên đề
Nội dung bài viết được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan chung về thị trường EU và quan hệ thương mại
Việt Nam – EU.
Chương 2: Tổng quan về xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU
và thực trạng vượt qua các rào cản kỹ thuật của EU đối với hàng dệt may xuất
khẩu Việt Nam.
Chương 3: Triển vọng và giải pháp để hàng dệt may Việt Nam vượt
qua rào cản kỹ thuật vào thị trường EU.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG EU VÀ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM – EU
1.1. Khái quát thị trường EU
1.1.1. Lịch sử hình thành thị trường EU
EU có nguồn gốc từ Cộng đồng Than thép châu Âu thành lập từ sáu
nước năm 1951. Và đến ngày 25/3/1957 Liên minh Châu Âu (EU) ra đời với
hiệp ước thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu EEC (European Economic
Community) và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử Châu Âu (Euratom) được
ký tại Rome. Trụ sở của EU được đặt tại Bruxelles (thủ đô của Bỉ). EEC giờ
đã là Liên minh Châu Âu (EU) với số thành viên tăng từ 6 lên 27 qua nhiều
đợt mở rộng, tiêu biểu là việc Anh, Ireland, Đan Mạch tham gia năm 1973,
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha năm 1986. Lần mở rộng lớn nhất diễn trong
năm 2004 với việc kết nạp 10 thành viên mới, gồm nhiều nước Cộng sản cũ
tại Trung và Đông Âu. Đầu năm 2007, Romania và Bulgaria trở thành thành
viên chính thức thứ 26 và 27 của khối. Dự kiến rằng Croatia, Bosnia, Albania
có thể được kết nạp vào năm 2011 và Macedonia, Montenegro, Serbi, Thổ
Nhĩ Kỳ có thể được kết nạp vào năm 2013.
Có thể thấy rõ được quá trình thành lập EU và sự phát triển của liên kế
thông qua các hiệp ước và sự kiện sau:
Đầu tiên là Hiệp ước Paris năm 1951 đưa đến việc thành lập Cộng đồng

Than thép châu Âu (ECSC)
Thứ hai là Hiệp ước Roma năm 1957 đưa đến việc thành lập Cộng
đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom) và thành lập cộng đồng Kinh
tế châu Âu (EEC)
Tiếp đó là năm 1967 cơ quan điều hành của cộng đồng trên được hợp
nhất và gọi là Hội đồng châu Âu.
Năm 1987, EU bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng khối thị trường
chung châu Âu gọi là “Thị trường nội địa thống nhất châu Âu”
Hiệp ước thứ ba là hiệp ước Maastricht còn gọi là hiệp ước Liên hiệp
châu Âu, ký ngày 7/12/1991 tại Maastricht Hà Lan nhằm 2 mục đích: một là
thành lập liên minh kinh tế và liên minh tiền tệ vào cuối thập niên 1990, với
một đợn vị tiền tệ chung và một ngân hàng trung ương độc lập. Và hai là
thành lập một liên minh chính trị bao gồm việc thực hiện chính sách đối ngoại
và an ninh chung để tiến tới có chính sách phòng thủ chung, tăng cường hợp
tác về cảnh sát và luật pháp. Hiệp ước này đã đánh dấu một bước ngoặt trong
tiến trình nhất thể hóa châu Âu và dẫn đến thành lập Cộng đồng châu Âu.
Thứ 4 là hiệp ước Amsterdam là hiệp ước Masstricht sửa đổi, ký ngày
2/10/1997 (tại Amsterdam) đã sửa đổi và bổ sung một số lĩnh vực như những
quyền cơ bản, không phân biệt đối xử; Tư pháp và đối nội; chính sách xã hội
và việc làm và cuối cùng là chính sách đối ngoại và an ninh chung.
Thứ 5 là Hiệp ước Schengen: đây là hiệp ước mà phải mất 6 năm sau
ngày ký mới có hiệu lực (ký từ năm 1990 đến năm 1995mới có hiệu lực).
Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên. Đối
với công dân nước ngoài chỉ cần có visa của 1 trong 9 nước thành viên (tại
thời điểm ký) là được phép đi lại trong toàn khu vực Schengen. Hiện nay, 14
trong 27 nước thành viên EU đã tham gia khu vực Schengen.
Cuối cùng là hiệp ước Nice (11/12/2000) tập trung vào vấn đề cải cách
thể chế đón nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vài trò của Nghị
viện Châu Âu, thành lập lực lượng phản ứng nhanh (RRF)
Quá trình thành lập và phát triển của EU có thể được tóm tắt qua thời

biểu sau:
Bảng 1.1. Các Hiệp ước, cơ cấu và lịch sử của Liên minh châu Âu
195 1 1957 1965 1992 1997 2001 2007
Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC)
Cộng đồng Kinh tế
châu Âu (EEC)
Cộng đồng châu Âu (EC)
...Các
Cộng
đồng châu
Âu:
ECSC,
EEC (EC,
1993),
Euratom
Công lý&
Nội vụ

Hợp tác Tư pháp và Cảnh sát
về Vấn đề Tội phạm (PJCC)
Chính sách An ninh và Ngoại giao chung
(CFSP)
LIÊN MINH CHÂU ÂU ( E U )
Euratom (Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử châu Âu)
Hiệp ước
Paris
Các Hiệp
ước
Rome
Hiệp ước

Sát nhập
Hiệp ước
Maastricht
Hiệp ước
Amsterdam
Hiệp ước
Nice
"Ba trụ cột" - ECS (ECSC, EEC/EC,
Euratom), CFSP, PJCC
Hiệp ước
Cải tổ
Nguồn:
Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường hấp dẫn với tổng diện tích
4.422.773 km2, và hơn 500 triệu dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với tổng
GDP khoảng 7000 tỷ USD. EU hiện là khu vực thương mại lớn nhất thế giới,
chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu toàn cầu, bao gồm cả
xuất - nhập khẩu trong nội bộ EU.
Liên minh Châu Âu là một hệ thống thể chế đặc biệt bao gồm 27 quốc
gia được hình thành trên cơ sở hiệp ước xác định và quản lý hợp tác về kinh
tế và chính trị giữa các nước thành viên. Liên minh Châu Âu còn có một đặc
điểm riêng là có các tổ chức lập pháp, hành pháp và tư pháp chung. Đây
không phải là liên minh chính trị vì mặc dù 27 quốc gia này luôn duy trì sự
hợp tác và hoà khí với nhau nhưng mỗi quốc gia này có chủ quyền riêng với
Quốc hội, nền văn hoá, và truyền thống riêng của mình.
Về Liên minh Kinh tế các nước EU đã tiến hành xoá bỏ kiểm soát giao
lưu vốn giữa các nước thành viên, thành lập Viện Tiền tệ Châu Âu năm 1994,
thành lập Ngân hàng Trung ương Châu Âu năm 1998, và từ ngày 01/01/1999
đồng Euro đã chính thức trở thành đồng tiền chung của 16 nước thuộc EU.
Liên minh Châu Âu là cái nôi của nền văn minh công nghiệp, là nơi
khai sinh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, EU vẫn đang đi tiên

phong trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp quốc tế (chiếm 47% FDI của toàn cầu).
1.1.2. Đặc điểm mô hình hợp tác kinh tế của EU
Sau 50 năm hình thành và phát triển, Liên minh châu Âu (EU) được
đánh giá là mô hình liên kết khu vực thành công nhất trên thế giới.
50 năm trước, ngày 25/3/1957, tại Rome khi sáu nước (Tây Đức, Pháp,
Italy, Bỉ, Hà Lan, Luxembourg) ký hiệp ước thành lập Cộng đồng Kinh tế
Châu Âu (EEC), “Dự án Châu Âu” đã đạt được những thành công đáng kinh
ngạc. Sau bài học lịch sử của Thế chiến thứ 2, Hiệp ước Rome là một nỗ lực
nhằm liên kết những kẻ thù trong chiến tranh vào một chương trình hợp tác
kinh tế để đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, cũng như tạo dựng môi trường, thể chế
thuận lợi cho tăng trưởng và phục hồi nền kinh tế bị tàn phá nặng nề. Qua 50
năm, nhìn chung mô hình này đã chứng tỏ hiệu quả trong việc đạt được mục
tiêu kép mà những kiến trúc sư của nó đặt ra.
Trong năm 2007, Uỷ ban châu Âu (EC) đã thực hiện một kế hoạch đầy
tham vọng nhằm hiện đại hóa thị trường chung của EU, tiến tới nhất thể hóa
về kinh tế, tiền tệ và chủ trương xây dựng EU thành khu vực mạnh nhất thế
giới, có chính sách chung về đối ngoại và quốc phòng. Kế hoạch này thực
hiện việc hiện đại hóa thị trường chung châu Âu đã dỡ bỏ những rào cản đang
tồn tại, với mục tiêu trước hết là đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và các
doanh nghiệp nhỏ của EU. Và đến nay đã đạt được những thành công nhất
định, mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế nhưng EU vẫn
tảng trưởng đều và bền vững dựa vào khả năng tiêu thụ nội khối.
Sức thu hút và sự thành công của EU chính vì nó xây dựng được một
không gian kinh tế ổn định và hợp tác, tạo điều kiện cho các nước thành viên
(đặc biệt là các nước nghèo) phát triển mà ví dụ điển hình là Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha và Ireland. Sự liên kết giữa các quốc gia đã tạo ra một thị trường
chung rộng lớn, xoá bỏ mọi rào cản cho lưu thông hàng hoá và vốn. Từ năm
2002, EU có đồng tiền chung chính thức lưu hành - đồng Euro - thúc đẩy
mạnh mẽ hoạt động thương mại và đầu tư. Việc di chuyển qua biên giới các
nước thành viên cũng hoàn toàn tự do, góp phần không nhỏ cải thiện môi

trường kinh doanh và thị trường lao động.
Để đạt được những thành công như trên EU đã có những bước đi đúng
đắn thể hiện qua chính sách thương mại đối nội và đối ngoại của khối. Nét
đặc trưng của chính sách của EU đó là bảo hộ nông nghiệp, bảo vệ môi
trường và bảo về sức khỏe người tiêu dùng.EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp
các nước trong khối đồng thời đánh thuế cao và áp dụng hạn ngạch đối với
một số mặt hàng nông sản nhập khẩu (gao, chuối, …), thêm vào đó là các yêu
cầu về xuất xứ, các tiêu chuẩn kỹ thuật của hàng hóa.
Về chính sách thương mại nội khối: EU hiện đang có những cải cách
sâu rộng và toàn diện về thể chế và luật pháp để phù hợp với tình hình chung
của thế giới. Tất cả các nước thành viên EU đều phải áp dụng một chính sách
thương mại đối với các nước ngoài khối. Hàng hoá của nhiều nước đang phát
triển xuất khẩu vào EU đang bị ràng buộc bởi nhiều hiệp định thương mại
khác nhau, nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các quy định, quy chế
cũng như các yêu cầu của thị trường này về chất lượng, y tế, an toàn và môi
trường. Một khi hàng hóa được đưa vào EU thì sẽ không còn phải thực hiện
bất kỳ một thủ tục thông quan nào nữa tại biên giới các nước thuộc nội bộ
khối EU.
Về chính sách thương mại bên ngoài khối: chính sách ngoại thương
của EU bao gồm chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại
dựa trên cơ sở được xây dựng trên những nguyên tắc đó là không phân biệt
đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Và hiện nay EU
đang thực hiện kế hoạch mở rộng thị trường với hình thức đẩy mạnh tự do
hóa thương mại.
Tuy vậy EU vẫn đang đứng trước rất nhiều thách thức lớn. Quá trình
nhất thể hóa gặp phải những trở ngại lớn do tỷ lệ ủng hộ của các nước
thành viên giảm mạnh, vấn đề mở rông EU cũng gây chia rẽ trong các nước
thành viên. Nền kinh tế EU trong những thập kỉ gần đây trì truệ và tụt hậu
so với nền kinh tế Mỹ. Và đẩy mạnh cải cách kinh tế đang là trọng tâm tới
đây của EU.

1.1.3. Đặc điểm của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn với diện tích hơn 4 triệu km2, với sức
mua của 500 triệu người tiêu dùng. Với những chính sách thúc đẩy tự do hóa
thương mại EU hiện là một thị trường thống nhất, cho phép mọi người thuộc
khối EU, hàng hoá được lưu thông tự do. Tuy vậy EU vẫn nổi tiếng là một thị
trường phức tạp và khó tính. Nó thể hiện rõ qua các đặc điểm sau:
1.1.3.1. Là một thị trường có nhu cầu tiêu dùng đa dạng, có sức mua lớn
EU là một thị trường có nhu cầu đa dạng thứ nhất do dân số đông (gần
500 triệu người) nhu cầu của mỗi người dân về hàng hóa tiêu dùng là không
hoàn toàn giống nhau. Thứ hai 27 nước thành viên của khối là 27 nền văn hóa
khác nhau, nó quyết định đến cách thức mua sắm và tiêu dùng của từng nơi.
Tuy tập quán, thị hiếu tiêu dùng của EU là của Châu Âu, nhưng từng nước
EU cũng giữ những đặc tính riêng của mình. Để có thể tạo ra được một sản
phẩm đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng của cả 27 quốc gia là một thách thức
lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải vượt qua khi tiếp cận thị
trường này, trong đó có các doanh nghiệp Việt Nam.
Với sức mua tương đương của nửa tỷ người tiêu dùng, thêm vào đó thu
nhập bình quân đầu người của người dân là rất cao (trên 27 nghìn Euro) do
vậy EU là một thị trường có sức mua rất lớn.
1.1.3.2. Là một thị trường khó tính
Một đặc điểm nổi bật của thị trường EU đó là quyền lợi của người tiêu
dùng được bảo vệ nghiêm ngặt. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng,
EU tiến hành kiểm tra các loại sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống
báo động giữa các quốc gia thành viên. EU có các tổ chức chuyên nghiên cứu
đại diện cho giới tiêu dùng để đưa ra quy chế định chuẩn quốc gia hoặc châu
Âu. Với 15 thành viên cũ thì tập quán tiêu dùng có phần khác với những
thành viên mới. Trước hết, do các thành viên cũ có trình độ phát triển cao hơn
(như Đức, Pháp, Ý... ) trong khi đó ở các nước thành viên mời thì phát triển
kinh tế thấp hơn. 15 nước thành viên cũ có tập quán tiêu dùng chặt chẽ, khắt
khe hơn. Tuy vậy tất cả các sản phẩm trong nước hay nhập khẩu để có thể có

mặt ở trên thị trường đều phải vượt qua được những tiêu chuẩn đảm bảo an
toàn chung của EU. Thêm vào đó là 500 triệu người tiêu dùng khó tính nên
EU vẫn được mệnh danh là “Pháo đài châu Âu”. Thị hiếu của người tiêu dùng
EU hướng nhiều tới yếu tố sức khỏe và thể chất, người dân EU đặc biệt quan
tâm đến những sản phẩm có tính năng bảo vệ sức khỏe, chất liệu từ thiên
nhiên và hạn chế hóa chất. Họ quan tâm đến những mặt hàng thể hiện được
tính cá thể, người tiêu dùng muốn họ là trung tâm do vậy mà các sản phẩm
phải đề cao được tính cá thể của họ. Và ngoài ra họ còn quan tâm đến các
thông tin khác về sản phẩm như thông tin về xuất sứ sản phẩm, nhà cung
cấp... Riêng đối với hàng may mặc trước đây người tiêu dùng EU quan tâm
đến những sản phẩm có danh tiếng, có thương hiệu trên thị trường thì nay vấn
đề họ quan tâm là mẫu mã sản phẩm, họ quan tâm đến tính thời trang mà như
vậy thì thời gian tồn tại của mặt hàng trên thị trường là không dài. Do vậy mà
các doanh nghiệp dệt may càng gặp khó khăn hơn trong việc đáp ứng được thị
hiếu người tiêu dùng.
1.1.3.3. Là một thị trường có tính cạnh tranh cao
EU là một thị trường mở nên mang tính cạnh tranh rất cao, giảm dầnvà
xóa bỏ hàng rào thuế quan . Hiện tại, EU đã xóa bỏ thuế nhập khẩu (0%) đối
với hầu hết các mặt hàng của các nước chậm phát triển và một số nước được
công nhận có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Từ trước tới nay EU vẫn luôn ủng
hộ chính sách thương mại tự do, hàng hóa trên thị trường luôn theo phương
trâm cạnh tranh công bằng, minh bạch. Đối với hàng hóa nhập khẩu của Việt
Nam vào thị trường này ngày càng gặp phải những thách thức lớn, đặc biệt là
sau khi EU ký hiệp định song phương với Trung Quốc và sau khi nước này
tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO.
1.1.3.4. Là một thị trường thống nhất
Liên minh châu Âu EU là một liên minh kinh tế chính trị đầu tiên trên
thế giới. EU phát triển thành một thị trường chung, thống nhất bằng một hệ
thống luật tiêu chuẩn áp dung chung cho tất cả các nước thành viên nhằm đảm
bảo sự lưu thông tự do của người dân, của hàng hóa, dịch vụ và vốn. EU duy

trì các chính sách chung về thương mại, nông nghiệp, ngư nghiệp và phát
triển địa phương. Toàn khối EU sử dụng một đồng tiền chung thống nhất
(hiện đã có 16 nước sử dụng) đó là đồng EURO, tạo nên một khu vực đồng
Euro. EU đã tạo nên một “Thị trường nội địa thống nhất châu Âu”. Hiện tại,
EU đã xóa bỏ biên giới hải quan giữa 27 quốc gia nên khi hàng hóa nước
ngoài đã được nhập khẩu vào một nước thì tự do lưu thông ở tất cả các nước
còn lại trong khối. Quan hệ của Việt nam với các nước Đông Âu như Ba Lan,
Cộng hoà Séc, Slovakia...đã hình thành và quen biết từ lâu nên hàng của Việt
Nam có thể vào EU qua các “cửa hải quan” đó dễ hơn các nước khác.
Tóm lại EU là một thị trường rộng lớn, đa dạng và có nhiều triển vọng
cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng đó cũng là một thị trường “sang
trọng” và “khó tính”. Vì vậy để chinh phục được thị trường này là một điều
không dễ dàng để thực hiện trong một thời gian ngắn.
1.2. Quan hệ thương mại Việt Nam EU
Hơn nửa thế kỷ hình thành và phát triển, EU đã lớn mạnh dần từ 6
nước thành 27 nước thành viên như hiện nay. Với sức mạnh tổng hợp của
khoảng 500 triệu dân, đóng góp tới 28% GDP thế giới, EU là một khu vực
kinh tế hùng mạnh và đầy tiềm năng của thế giới. EU được đánh giá là hình
mẫu về hoà bình và thịnh vượng trên toàn cầu, có quan hệ rộng khắp trên
thế giới. Trong đó quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và EU cũng được hình
thành khá sớm.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên của EU
bắt đầu phát triển mạnh từ những năm đầu thập kỷ 90, sau khi Việt Nam và
EU ký một loạt các hiệp định song phương như Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế khoa học và kỹ thuật năm 1990; các Hiệp định về dệt may 15/12/1992,
năm 1997; Hiệp định giày dép năm 2000. Liên minh Châu Âu là khách hàng
nhập các loại hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 35% tổng số
xuất khẩu của Việt Nam trong ngành hàng này trong các năm trước đây. Sự
kiện ngày 17/7/1995 ký “Hiệp định hợp tác giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu” đã đánh dấu quan hệ thương mại giữa Việt

Nam và EU sang một giai đoạn phát triển mới . Hiệp định này sẽ thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của Việt Nam giúp Việt Nam thực hiện tốt hơn quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ năm 2007 khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150
của tổ chức thương mại thế giới WTO thì vị thế của Việt Nam được nâng cao
và tạo tiền đề cho Việt Nam mở rộng buôn bán bình đẳng với các nước thành
viên khác của WTO, do vậy mà quan hệ của Việt Nam với EU ngày càng phát
triển, mở rộng cả về phạm vi, số lượng và chất lượng trên tất cả các lĩnh vực,
đặc biệt trong lĩnh vực thương mại. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam vào thị trường EU như hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, khoáng
sản (than đá) và các hàng tiêu dùng sử dụng nhiều lao động như đồ gỗ, hàng
thủ công mỹ nghệ với chất lượng mẫu mã và tiêu chuẩn phù hợp với người
tiêu dùng châu Âu. Mới đây nhất, Ủy ban châu Âu (EC) đã thông qua chiến
lược hợp tác với Việt Nam giai đoạn 2007 – 2013 nhằm tập trung hỗ trợ các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Chính phủ Việt Nam luôn đánh giá cao vai trò của EU trong chiến lược
phát triển kinh tế. Có nhiều các cuộc viếng thăm của các lãnh đạo cấp cao của
Việt Nam đến EU và các nước thành viên nhằm ký kết nhiều hiệp định kinh tế
quan trọng về thương mại và đầu tư thông qua các tập đoàn kinh tế lớn. Chính
phủ đã giao cho các Bộ ngành hữu quan chủ động đề xuất và thực hiện các
giải pháp đồng bộ để thúc đẩy quan hệ kinh tế với EU lên tầm chiến lược.
Theo đó Việt Nam cam kết không phân biệt đối xử với các công ty của EU và
thực hiên một số biện pháp mở cửa thị trường trong các lĩnh vực mà doanh
nghiệp EU quan tâm.
Về phía EU, trong những năm qua, nhất là năm 2007, đã có nhiều nhà
lãnh đạo cấp cao của các nước EU và lãnh đạo EC cùng hàng trăm nhà doanh
nghiệp đã đến Việt Nam tìm hiểu thị trường và cơ hội đầu tư phát triển
thương mại. Các nhà lãnh đạo EU và Việt Nam đã chính thức khởi động đàm
phán Hiệp định về đối tác và hợp tác (PCA) Việt Nam – EU từ năm 2007
nhằm đưa quan hệ kinh tế giữa hai bên lên tầm cao mới theo phương châm

“Quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, lâu dài và tin cậy vì hoà bình
và phát triển”.
Quan hệ buôn bán thương mại Việt Nam - EU phát triển rất khả quan,
trong 10 năm từ năm 1990 - 1999 với quy mô tăng lên 12 lần và tốc độ tăng
bình quân mỗi năm là 32%. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều
đạt gần 4500 triệu USD, trong đó, Việt Nam xuất khẩu hơn 3300 triệu USD. 6
tháng đầu năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt khoảng 1400 triệu
USD. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9
lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng
xuất khẩu. Theo dự kiến thì đến năm 2010, tăng trưởng thương mại hai chiều
giữa Việt Nam và EU sẽ vượt mức 20% và đạt 15 tỷ USD.
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG
EU VÀ THỰC TRẠNG VƯỢT QUA CÁC RÀO CẢN KỸ THUẬT CỦA
EU ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
2.1. Tổng quan về tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang thị
trường EU
2.1.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam
Sau 24 năm thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành công lớn cùng với đó ngành dệt may cũng ngày càng khẳng định được
vai trò của mình. Năng lực sản xuất trong nước cũng như hàng hóa xuất khẩu
ngày càng được nâng cao, các mặt hàng xuất khẩu được nhiều bạn hàng trên
thế giới đón nhận.
Về năng lực sản xuất: Hiện nay Việt Nam có khoảng 2500 doanh
nghiệp dệt may. Trong đó Doanh nghiệp nhà nước chiếm 0,5%, doanh nghiệp
nước ngoài chiếm 25%, còn lại là Doanh nghiệp tư nhân và các công ty cổ
phần. Toàn ngành hiện đang sử dụng khoảng 2,2 triệu lao động, sản xuất
khoảng 2 tỷ sản phẩm dệt may trong đó các sản phẩm nhằm phục vụ xuất
khẩu lên đến 65%. Các Doanh nghiệp dệt may thương tập trung chủ yếu ở các
thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh có 1500 doanh nghiệp, 500 doanh

nghiệp tập trung vào Hà Nội và các vùng lân cận, còn lại thì nằm ở vùng
duyên hải và miền trung.
Vấn đề luôn được ngành đặt lên hàng đầu đó là tìm được nguồn cung
cấp nguyên liệu trong nước. Trước đây hầu hết các nguyên liệu dệt may của
Việt Nam là phải nhập khẩu. Như vậy thứ nhất là không đảm bảo được nguồn
nguyên liệu, thứ hai nếu không tìm được nguồn nguyên liệu đạt yêu cầu sẽ
không đáp ứng được những rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu đặt biệt
là một thị trường khó tính như EU. Vì vậy ngành công nghiệp phụ trợ đã và
đang được chú trọng phát triển. Tính đến nay ngành đã đáp ứng được một
phần nguyên liệu cho ngành dệt may. Ta có thể thấy được điều này qua bảng
2.1 sau:
Bảng 2.1. Tình hình cung cấp các sản phẩm phụ liệu dệt may trong nước
Loại phụ liệu Đơn vị đo
Nhu cầu trong
nước
Sản
xuất
Tỷ lệ đáp
ứng (%)
Cúc nhựa Triệu chiếc/năm 3.215,15 765 24
Mex không dệt Triệu chiếc/năm 31,61 12 38
Mex dệt Triệu chiếc/năm 30,02 0 0
Nhãn Triệu chiếc/năm 822,15 120 15
Băng chun Triệu chiếc/năm 590,46 25 4
Băng dệt Triệu chiếc/năm 81,51 0 0
Khóa kéo Triệu chiếc/năm 222,88 65 29
Băng gai Triệu chiếc/năm 42,16 0 0
Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam VINATEX
Nhìn vào bảng trên ta thấy tình hình đáp ứng nguyên phụ liệu trong
nước vẫn chưa đạt yêu cầu, mức đáp ứng còn dưới 40% cao nhất mới chỉ đạt

được 38% (Mex không dệt), các nguyên liệu như Mex dệt, bằng dệt, băng gai
còn chưa được triển khai sản xuất (mức đáp ứng vẫn là 0%). Ngành dệt may
đang phấn đấu đến năm 2012 tỷ lệ đáp ứng nguyên phụ liệu nội địa đạt 50%.
Tình hình sản xuất hóa chất thuốc nhuộm phục vụ cho khâu sản xuất
cũng đang phát triển theo triều hướng khả quan thể hiện trong bảng 2.2:
Bảng 2.2. Hóa chất dùng chủ yếu trong ngành dệt may
Tên hóa chất
Sản lượng
(tấn/năm)
Tỷ lệ đáp ứng
nhu cầu (%)
Công dụng
Phân đạm Ure 800.000 50 Chất trợ nhuộm
Axit sunphuric 286.000 70 Tạo môi trường cho công
nghệ nhuộm
Axit photphoric 18.700 80 Xử lý nước cấp
Xút 100%NaOH 59.097 80
Axit Clohydric 36.200 Tạo môi trường cho công
nghệ nhuộm
Natri silicat 40.500 Công nghệ tẩy vải
Phèn nhôm 22.100 Xử lý nước cấp
Bột giặt 151.958 100 Công nghệ giặt vải và sản
phẩm may
Kem giặt 116.829 100 Công nghệ giặt vải và sản
phẩm may
Thuốc nhuộm 0 0 Nhuộm vải
Chất trợ 353,125 5
Hóa chất cơ bản 1.989,375 15
Nguồn: Tổng công ty hóa chất Việt Nam
Theo bảng trên ta có thể thấy được khả năng đáp ứng nhu cầu hóa chất

của ngành công nghiệp phụ trợ tương đối khả quan như về bột giặt, kem giặt
khả năng đáp ứng là 100%, các loại axit cũng đạt 80%. Tuy nhiên hóa chất có
thể nói là quan trọng nhất trong ngành dệt may đó là thuốc nhuộm thì ta lại
chưa có khả năng sản xuất, vì các thị trường xuất khẩu hàng dệt may họ yêu
cầu rất khắt khe về các hóa chất nhuộm (đặc biệt là EU) nên để có thể xuất
khẩu thành công vào thị trường này cần phải chú trọng phát triển sản xuất hơn
nữa các loại hóa chất phụ trợ
Về cơ cấu mặt hàng dệt may: cơ cấu hàng dệt may đã có những thay
đổi rõ rệt cả về mẫu mã và nguyên liệu sử dụng.
Về nguyên liệu: trước đây ngành dệt may chủ yếu sử dụng nguyên liệu
tự nhiên thì đến nay đã được thay thế nhiều bằng các sợi nhân tạo có chất
lượng cao như: polyester, cotton/visco, …. Các loại vải dệt ngày càng phong
phú về chủng loại và nâng cao về chất lượng gabdin, kaki, tissues pha len, pha
cotton… trước đây chỉ một số chất liệu đơn giản như xatanh, vải phin…
Về chủng loại các mặt hàng cũng ngày càng được bổ sung phong phú
hơn: trước đây sản xuất nghiêng về các loại như quần áo bảo hộ lao động,
đồng phục học sinh thì đến nay ngành đã sản xuất được các sản phẩm có chất
lượng cao như quần jeans, comple, … với nhiều thương hiệu nổi tiếng được
trong và ngoài nước biết đến (Công ty Việt Tiến, Công ty may Thăng Long,
An Phước, …)
Về đầu tư: được nhà nước xác định là ngành kinh tế mũi nhọn nên
ngành dệt may đã và đang được chú trọng đầu tư thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3. Vốn đầu tư toàn ngành dệt may Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010
Đơn vị: Tỷ đồng
Vốn đầu tư Toàn ngành Vinatex
Tổng chi phí đầu tư 30.000 9.500
Trong đó
Đầu tư xây dựng 2.550 900
Đầu tư trang thiết bị 18.000 5.800
Đầu tư các lĩnh vực khác 1.500 500

Chi phí phát sinh 1.500 500
Chi phí nhân công 6.450 1.800
Nguồn: Bộ công thương
Tuy nhiên theo như phân tích ở trên thì ta thấy ngành vẫn còn những
tồn tại cần khắc phục. Thứ nhất là về khả năng đáp ứng nguyên phụ liệu trong
nước, thứ hai là chất lượng và mẫu mã sản phẩm cần phải được nâng cao hơn
nữa mới có thể đáp ứng được yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước, có
thể vượt qua được những rào cản kỹ thuật của thị trường đối tác. Thứ ba cần
đầu tư hơn nữa vào đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng suất lao động.
Về tình hình xuất khẩu: trong những năm gần đây ngành dệt may đã có
những đóng góp to lớn vào nền kinh tế nước ta nói chung và vào kim ngạch
xuất khẩu nói riêng, xuất khẩu dệt may đã mang về nguồn thu ngoại tệ lớn
cho nước nhà. Có thể thấy sự phát triển rõ rệt của ngành dệt may qua bảng số
liệu sau:
Bảng 2.4. KNXK hàng dệt may Việt Nam giai đoạn 2004 – 2009
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
Ngành dệt may Tổng KNXK
KNXK Tăng (%) KNXK Tăng (%)
%KNXKDM/
Tổng KNXK
2004 4,3 19,44 26,5 31,5 16,23
2005 4,8 11,63 32,2 21,6 14,9
2006 5,8 20,83 39,6 22,8 14,65
2007 7,8 34,48 48,5 22,5 16,08
2008 9,12 16,92 65 33,9 14,03
2009 10 9,65 76,7 18 13,04
Nguồn: Bộ Công thương
Nhìn vào bảng trên ta thấy xuất khẩu hàng dệt may liên tục tăng qua
các năm từ 2004 – 2009. Năm 2004 tốc độ tăng là 19,44% so với năm 2003,

từ năm trước đó đến năm 2004 xuất khẩu dệt may Việt Nam tăng mạnh là do
Việt Nam đã kỹ hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA) đã có tác đông rõ rệt
lên hoạt động xuất khẩu dệt may. Nhưng sang đến năm 2005, tốc độ tăng
giảm hẳn chỉ còn 11,63% KNXK đạt 4,8 tỷ USD thấp hơn so với mục tiêu
toàn ngành đề ra là 5,2 tỷ USD. Năm 2005 là năm EU dỡ bỏ hạn ngạch đối
với hàng dệt may Việt Nam nhưng do hạn ngạch giữa các thành viên WTO
cũng đã được bãi bỏ từ ngày 1/1/2005 trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ,…
Mặt khác hàng dệt may Việt Nam lại chưa đủ sức để cạnh tranh với hàng dệt
may của các nước này, do vậy mà kim ngạch xuất khẩu không tăng mạnh.
Sang năm 2006 thì KNXK đã tăng trưởng trở lại đạt 5,8 tỷ USD tăng lên 1 tỷ
so với năm 2005 với tốc độ tăng đạt 20,83%. Đặc biệt năm 2007 là bước
nhảy vọt của dệt may Việt Nam, tốc độ tăng lên đến 34,48% so với năm 2006
vượt mức chỉ tiêu lên đến 7 tỷ USD. Mặc dù trong năm 2007 ngành dệt may
Việt Nam đã phải đối mặt với không ít khó khăn đó là sản phẩm dệt may Việt
Nam bị giám sát chông bán phá giá tại thị trường Mỹ làm sản phẩm bị mất
tính cạnh tranh. Nhưng nhờ có sự nỗ lực không ngừng từ phía chính phủ, hiệp
hội và các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm
và đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của các thị trường lớn (EU, Mỹ,
Nhật Bản) mà KNXK hàng dệt may vẫn tăng đột biến. Việt Nam đã lọt vào
tốp 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất Thế giới. Sang
những năm tiếp theo 2008, 2009 sự tăng trưởng vẫn được duy trì, tuy nhiên
tốc độ tăng chậm lại do xu hướng các nước nhập khẩu (EU, Mỹ,…)ngày càng
giảm dần và xóa bỏ hàng rào thuế quan mà thay vào đó là các hàng rào phi
thuế như các rào cản kỹ thuật. Các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam
đang dần phải thích nghi với các rào cản đó.
Xét về cơ cấu thị trường : tính đến nay các thị trường xuất khẩu dệt may trụ
cột của Việt Nam vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Trong đó Mỹ vẫn là thị trường
nhập khẩu lớn nhất của dệt may Việt Nam (56,10%) sau đó là EU (18,70) và
Nhật Bản (9,00%) thể hiện rõ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam

(năm 2008)
56,10%
18,70%
9,00%
16,20% Mỹ
EU
Nhật Bản
Các nước khác
Nguồn: Niên giám thống kê
2.1.2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU
Hiện nay EU đang là thị trường xuất khẩu quan trọng thứ hai (sau Mỹ)
của Việt Nam, chiếm 23% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam (năm 2008).
Các bạn hàng truyền thống của Việt Nam thuộc khối EU như Đức, Pháp,
Anh, Hà Lan... Năm 2003, xuất khẩu của Việt Nam sang EU chỉ đạt 2,3 tỷ
Euro thì đến năm 2008 con số này đã tăng lên 7,7 tỷ Euro trong đó xuất khẩu
hàng may mặc chiếm tỷ lệ cao.
Ta có thể theo dõi kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU qua
bảng sau:
Bảng 2.5. kim ngạch xuất khẩu của EU giai đoạn 2005 - 2009
Đơn vị triệu USD
Năm 2005 2006 2007 2008 2009
KNXK 841 1243 1489 1704 2000
Tăng (%) 27,61 47,9 16,57 15,8 19,19
Nguồn: Niên giám thống kê
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng đều
qua các năm nhưng tốc độ tăng không ổn định. Năm 2006 có KNXK là 1243
triệu USD với tốc độ tăng là 47,9%, sang đến năm 2007 KNXK vẫn tiếp tục
tăng nhưng với tốc độ chậm hẳn lại chỉ còn là 16,57%. Tốc độ tăng tiếp tục
giảm trong năm 2008 những vẫn giữ được KNXK tăng và năm 2009 tốc độ
tăng lấy lại được vị trí cân bằng tăng 19,19%. Mặc dù có những biến đổi

nhưng EU vẫn được đánh giá là thị trương đầy tiềm năng của xuất khẩu dệt
may Việt Nam, chỉ tiêu đặt ra cho năm 2010 KNXK vào thị trường này đạt
2,2 tỷ USD.
Tính riêng năm 2009, trong tháng 7 đầu năm kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam sang EU đạt 187,8 triệu USD, tính chung 7 tháng đầu
năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 939,40 triệu USD. Trong đó chủng
loại mặt hàng dệt may có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh nhất sang EU là bít
tất, với giá trị xuất khẩu là 3.143,857 USD, tăng 122,6% so với cùng kì năm
2008. Đứng thứ hai là mặt hàng vải, với giá trị đạt 13.764,620 tăng 63,9%.
Ngoài ra còn một số mặt hàng tăng khá cao so với cùng kì năm trước như là
quần áo trẻ em, áo len, quần áo ngủ, áo khoác và váy với các giá trị tăng lần
lượt là 50,2%; 42,5%; 27,5% và 26,4%. Tuy nhiên cũng phải kể đến một số
mặt hàng giảm khá mạnh so với cùng kì năm ngoái như quần áo bảo hộ lao
động (giảm 30,6% tương đương với 11.676,834 USD), quần áo thể thao
(giảm 27,9%), mặt hàng khăn cũng giảm khá mạnh 25,14%. Trong điều kiện
phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may của Trung Quốc, một quốc gia có
ngành công nghiệp dệt may phát triển và chủ động được nguyên liều và khả
năng đáp ứng nhiều loại sản phẩm hàng hoá, Ngành dệt may Việt Nam đạt
được những kết quả trên là đáng ghi nhận.
Mặc dù chất lượng, giá cả, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu sang EU được
đánh giá khá tốt, nhưng không vì thế mà hàng dệt may của Việt Nam có thể
thống lĩnh được thị trường này. Cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa
đạt được đúng tiêu chuẩn của khách hàng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả
năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong việc nâng cao uy
tín mở rộng thị trường. Tuy nhiên, thị trường EU tiêu dùng theo tầng lớp nên
sản phẩm dệt may Việt Nam thường thích hợp, thoả mãn với nhu cầu của tầng
lớp trung lưu nghĩa là đã có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng
cũng như giá cả vừa với mức thu nhập của họ.
Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới
liên tục, mặt khác yêu cầu về kỹ thuật đối với hàng dệt may của EU tương đối

khắt khe. Vì vậy điều quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường EU là
phải nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu
sắc, đáp ứng tốt các rào cản kỹ thuật mà EU đặt ra nhằm cạnh tranh với các
nước khác để tồn tại trên thị trường này. Để đáp ứng được nhu cầu của một
thị trường rộng lớn với 27 nước thành viên như EU là một bài toán khó cần
tìm lời giải đáp.
Xét về cơ cấu thị trường nhập khẩu trong khối EU: các thị trường nhập
khẩu hàng dệt may của Việt Nam chủ yếu là Đức, Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Hà Lan còn lại các nước khác chỉ chiếm một phần không đáng kể. Tỷ trọng
về thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU được thể hiện trong
bảng sau:
Bảng 2.6. Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dệt may Việt Nam
trong khối EU năm 2008
Đức Anh Tây Ban Nha Hà Lan Pháp TT khác
28,70% 18,50% 13% 8,80% 23,30% 8,70%
Nguồn: Niên giám thống kê và Bộ Công thương
Biểu 2.2. Tỷ trọng thị trường nhập khẩu dệt may Việt Nam
trong khối EU năm 2008
28.7
18.5
13
8.8
23.3
8.7
Đức
Anh
Tây Ban Nha
Hà Lan
Pháp
TT khác

Nguồn: Niên giám thống kê và Bộ Công thương
Từ trước đến nay Đức vẫn là thị trường truyền thống số một của dệt
may Việt Nam, kim ngạch nhập khẩu của Đức đối với hàng dệt may Việt
Nam năm 2008 đạt 395,5 triệu USD chiếm 23,32% thị phần xuất khẩu của
Việt Nam sang EU, chiếm 4,34% tổng kim ngạch nhập khẩu dệt may của EU.
Đứng thứ hai là Pháp, sau đó là Anh, Tây Ban Nha và Hà Lan.
2.2. Thực trạng vượt qua các rào cản kỹ thuật của EU đối với hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam
2.2.1. Các loại rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may
Hàng rào kỹ thuật là một loại hàng rào phi thuế quan. Hàng rào này liên
quan đến việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật như tiêu chuẩn chất lượng hàng
hóa, các biên pháp nhằm đảm bảo quá trình sản xuất hàng hóa phải an toàn,
vệ sinh, bảo vệ môi trường , đảm bảo sức khỏe người tiêu dung và các vấn đề
liên quan đến ghi nhãn, vận chuyển, bảo quản hàng hóa… Chúng là những
rào cản hợp lý và hợp pháp, cần được duy trì. Đối với hàng dệt may hàng rào
kỹ thuật chủ yếu được chia thành 5 nhóm sau:
2.2.1.1. Các biện pháp bảo vệ sự an toàn và sức khỏe của con người
Quy định về trách nhiệm xã hội (SA8000): SA8000 là một hệ thống các
tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội để hoàn thiện các điều kiện làm việc
cho người lao động tại các doanh nghiệp do Social Accountability International
(SAI) phát triển và giám sát. Các nhà sản xuất hàng dệt may xuất khẩu sang các
thị trường phải thỏa mãn các yêu cầu của SA8000 như là: sử dụng lao động
theo đúng độ tuổi quy định, không thuê hoặc ủng hộ việc sử dụng lao động
cưỡng bức, phải đảm bảo sức khỏe và an toàn, quyền lợi và chế độ bồi thường
cho người lao động, thời gian làm việc phải theo tiêu chuẩn quốc tế, …
2.2.1.2. Các biện pháp bảo vệ môi trường
Quy định về bảo vệ môi trường (ISO14000): quy định này nêu rõ các
yêu cầu về hệ thống quản lý môi trường trong đó đặc biệt lưu ý đến các quy
định pháp lý về tác động và ảnh hưởng của môi trường nhằm giúp các
doanh nghiệp dệt may hệ thống hóa các chính sách và các mục tiêu môi

trường của mình. Trong ISO14000 bao gồm ISO14001 và ISO14004,
ISO14001 là các yêu cầu đối với hệ thống còn ISO14004 là các văn bản
hướng dẫn xây dựng hệ thống theo các yêu cầu đó. Các doanh nghiệp dệt
may cần phải nắm bắt và hiểu rõ để tuân thủ các yêu cầu thực hiện trách
nhiệm xử lý ô nhiễm môi trường và sử dụng nguyên nhiên liệu không làm
mất cân bằng sinh thái, các sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo đạt tiêu
chuẩn không gây ô nhiễm môi trường.
2.2.1.3. Các quy định bảo vệ người tiêu dùng và cách ghi nhãn
Các biện pháp bảo vệ an toàn sức khỏe đối với người tiêu dùng: các
biện pháp này quy định về chất lượng và an toàn sản phẩm bao gồm nhãn
mác, đóng gói bao bì, dán nhãn sinh thái… các quy định này nhằm đảm bảo
hàng hóa an toàn.
Quy định về tiêu chuẩn chất lượng (ISO9000): đây là bộ tiêu chuẩn về quản lý
chất lượng do tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. Bộ tiêu chuẩn này
bao gồm các tiểu chuẩn quy định những yêu cầu của một hệ thống quản lý
chất lương mà doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng
muốn được chứng nhận phải áp dụng như ISO9001/2/3; hoặc ISO9000:2000,
và các tiêu chuẩn hỗ trợ khác.
2.2.2. Một số rào cản kỹ thuật đối với hàng dệt may tại thị trường EU.
EU là thành viên của WTO nên chế độ quản lý nhập khẩu dựa trên
nguyên tắc của tổ chức này. Để quản lý hàng hóa nhập khẩu , EU không sử
dụng nhiều các biện pháp quản lý bằng hạn ngạch và sử dụng nhiều các biện
pháp phi thuế quan cụ thể là các rào cản kỹ thuật. EU có một hệ thống các rào
cản kỹ thuật rất chặt chẽ và khắt khe.
2.2.2.1. Quy định của EU đối với hàng dệt may về môi trường, an toàn và sức
khỏe của con người
Các thông tư, quy chuẩn, luật, sắc luật được EU ban hành liên quan
đến cấm việc nhập khẩu và bán các loại hàng hóa có chứa các chất bị cấm.
 Theo thông tư 2002/61/EC và đã được 27 nước thành viên đưa vào
luật quốc gia. Đó là cấm bán sản phẩm dệt may có chứa thuốc

nhuộm azo gây ung thư.
 Thông tư 2003/3/EC về hạn chế bán và sử dụng thuốc nhuộm màu
xanh nước biển.

×