Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Quan điểm duy vật lịch sử về vị trí con người và vận dụng quan điểm đó trong việc định hướng nghề nghiệp và quá trình học tập, tu dưỡng của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.56 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
====***====

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về vị trí con người và vận dụng quan
điểm đó trong việc định hướng nghề nghiệp và quá trình học tập, tu dưỡng của
sinh viên”

Họ và tên

: Lê Thị Thư

Mã sinh viên

: 11226089

Lớp tín chỉ

: LLNL1105

Giảng viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Hồng

Hà Nội, tháng 01 năm 2023


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………...
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI……………………………………………………………………………4
1. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRƯỚC MÁC…………………………….4


2. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN…………5
2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội ……………………………………...9
2.2. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội……………………….10
2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch
sử……………………………………………………………………………………… 11
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI
CHẤT CỦA CON NGƯỜI TRONG VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP
VÀ TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG CỦA SINH
VIÊN……………………………………………………………………………11
1 . QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI TRONG
VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN……………………11
2 . QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI TRONG QUÁ
TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG CỦA SINH VIÊN……………………………12
KẾT LUẬN………………………………………………………………………14
TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


LỜI MỞ ĐẦU
Con người là vấn đề trung tâm, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa
học như sinh vật học, tâm lý học, y học, … do sự phong phú, phức tạp, giá trị vô tận
và ý nghĩa thực tiễn ở mọi thời đại. Đối với vấn đề con người, mỗi lĩnh vực khoa
học có cách thức tiếp cận và phương án giải quyết khác nhau, song chủ đề về con
người vẫn luôn là một vấn đề mới mẻ, là tâm điểm của mọi cuộc bàn luận. Với tư
cách là” khoa học của mọi ngành khoa học”, triết học đã nêu ra quan điểm về con
người một cách bao quát, chi tiết và đầy đủ nhất. Mỗi nhà triết học, mỗi trường phái
triết học khác nhau lại có những quan điểm, nội dung và sắc thái riêng biệt về con
người, thể hiện lập trường và bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau.
Tuy nhiên, các quan điểm trước Mác vẫn còn tồn tại cách nhìn phiến diện trong

phương pháp tiếp cận, lý giải các vấn đề triết học về con người. Cũng do vậy, trong
lịch sử tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người. Quan điểm của
Hegel phát triển theo hướng chủ nghĩa duy tâm, mang tính siêu tự nhiên, phi thể xác.
Quan điểm của Feuerbach tiến bộ hơn khi cho rằng con người là sản phẩm tự nhiên.
Chỉ đến khi triết học Mác-Lênin ra đời, vấn đề về con người mới được xem xét và
biểu hiện một cách sâu sắc, nhất quán, toàn diện trên cơ sở lập luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
Do nhận thức được tầm quan trọng vấn đề con người và ý nghĩa thực tiễn của
nó, em xin chọn đề tài “Quan điểm duy vật lịch sử về vị trí con người và vận dụng
quan điểm này trong việc định hướng nghề nghiệp và quá trình học tập , tu dưỡng
của sinh viên”

3


I. QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI
1. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ TRIẾT HỌC TRƯỚC
MÁC
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một
tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản
chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của mn lồi.
Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn.
Chủ nghĩa duy tâm và tơn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy
định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn con người tồn tại mãi mãi. Chủ
nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn,
khơng có linh hồn nào là bất tử cả, và q trình nhận thức đó khơng ngừng được phát
hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không
ngừng khắc phục lý luận trước đó.

Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật
máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ
nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của
cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tơi khơng có khả
năng vượt q cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng
tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người,
mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn
cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Kant đến Hegel đã phát triển quan điểm
triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt, Hegel quan niệm
con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời sống
con người chỉ được xem xét vè mặt tinh thần. Song Hegel cũng là người đầu tiên
thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra quy
luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời, triết học gia này cũng
4


đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái qt các quy luật cơ bản của q trình
đó. Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Hegel, Feuerbach đã phê phán tính
siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Hegel, ông quan niệm con người
là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học trực quan, phụ
thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh
mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong
cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì
Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm.
Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý luận xem xét
người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con
người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hố phần
xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ vẫn cịn nhiều hạn chế, các

quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Sau này chủ nghĩa
Marx đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng thời phát triển những
quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết học trước đây để đi tới quan
niệm về con người thiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư
cdách là con người hiện thực.
2. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
2.1. Con người là thực thể sinh học-xã hội
Kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, triết học Mác đã
đi tới một quan niệm toàn diện về con người: con người vừa là thực thể tự nhiên
nhưng cũng đồng thời là thực thể xã hội. Hai phương diện tự nhiên và xã hội tồn tại
trong tính thống nhất với nhau, quy định lẫn nhau tạo thành cơ sở hiện thực cho sự
tồn tại của mỗi con người với tư cách là người. Theo C.Mác, con người là một sinh
vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã
hội, là chủ thể lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa 1.
Về phương diện sinh học, dựa trên thành tựu và sự phát triển của chủ nghĩa
duy vật và khoa học tự nhiên đặc biệt là học thuyết tiến hóa của Đacuyn, triết học
Mác đã đưa ra kết luận rằng con người là kết quả của q trình tiến hóa và phát triển
5


lâu dài của giới tự nhiên. “Bản thân cái sự kiện là con người từ động vật mà ra, cũng
đã quyết định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính
vốn có của con vật”2. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng giống con vật có những
đặc điểm sinh lý, cấu trúc cơ thể và những nhu cầu tự nhiên như ăn, uống, sinh con
đẻ cái hay đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Không những thế con người cũng phải
phục tùng quy luật của giới tự nhiên, chịu sự chi phối của các quy luật sinh học
chẳng hạn như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và môi trường, về quá trình trao
đổi chất, về biến dị và di truyền, về sự sống và cái chết, ... Tuy nhiên khác với con
vật, con người không chỉ sống dựa vào tự nhiên mà con người còn cải biến tự nhiên
dựa trên các quy luật khách quan.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người của con người bao hàm trong đó cả bản
tính sinh học, tính lồi của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy có thể nói con người là bộ phận của giới
tự nhiên:” Giới tự nhiên… là “thân thể vô cơ của con người… đời sống và thể xác
và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”3. Do đó những biến đổi của
giới tự nhiên cũng như các quy luật sẽ tác động đến sự tồn tại của con người và xã
hội loài người. Ngược lại, các hoạt động, sự biến đổi của con người, loài người sẽ
tác động ngược trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường tự nhiên. Đó
chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con người, lồi người và giới tự
nhiên.Vì vậy để tồn tại và phát triển, con người phải dựa vào, gắn bó và hịa hợp với
giới tự nhiên.
Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, một thực thể sinh
học. Mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người và mặt ấy cũng sẽ không bao
giờ mất đi. Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải yếu tố duy nhất quyết định bản chất
con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là
mặt xã hội.
Trước Mác đã có những quan niệm khác nhau phân biệt giữa con người
và loài vật (con người là động vật sử dụng cơng cụ lao động, con người là động vật
có tư duy, ...), tuy nhiên đó chỉ là những quan niệm phiến diện vì chỉ nhấn mạnh vào
6


một khía cạnh nào đó mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với
phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác đã nhận thức vấn đề con người một
cách toàn diện, cụ thể trong tồn bộ tính hiện thực xã hội mà trước hết là lao động
sản xuất ra của cải vật chất. “Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó
là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định” 4
Sự tồn tại của lồi người ln luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và

các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng sẽ có sự thay đổi tương
ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho sự phát triển của cả xã
hội. Vì vậy con người chỉ có thể tồn tại với tư cách là người trong mối quan hệ với
con người, với cộng đồng, với thế giới xung quanh. Hệ thống các mối quan hệ xã
hội được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, tham gia vào đời sống xã
hội.
Khơng giống với con vật chỉ sống dựa hồn tồn vào bản năng và sản
phẩm tự nhiên, con người dựa vào lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên để sản xuất ra
của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình, cũng từ đó hình thành và
phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Hoạt động của con người không
theo bản năng mà là hoạt động có ý thức, qua đó phát triển tư duy trong hoạt động
và giao tiếp xã hội. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay
đổi và cải biên toàn bộ giới tự nhiên. Bởi vậy lao động là yếu tố quyết định bản chất
xã hội của con người đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã
hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển
của con người luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật: quy luật tự nhiên, quy
luật tâm lý ý thức, quy luật xã hội. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên
thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và xã
hội.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là
cơ sở tất yếu tự nhiên của con người còn mặt xã hội là đặc trưng để phân biệt con
7


người với loài vật. Hai mặt sinh học - xã hội thống nhất, hòa quyện vào nhau để tạo
thành một chỉnh thể thống nhất: con người.
2.2. Trong tính hiện thực của nó, con người là tổng hịa các mối quan hệ xã hội
Trong tác phẩm “Luận cương về Phoi-ơ-bắc”, C.Mác có viết: “ Bản chất

của con người khơng phải là một cái trừu tượng, cố hữu của các nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 5.
Luận điểm này khẳng định rõ bản chất của con người không phải là trừu tượng mà
là hiện thực, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi
cá thể riêng lẻ mà là tổng hịa tồn bộ quan hệ xã hội.
Thứ nhất, con người luôn cụ thể, sống trong những điều kiện lịch sử xác
định, trong một thời đại nhất định. Trong chính điều kiện lịch sử ấy, con người đã
tạo ra khi được xem xét trong toàn bộ các mối quan hệ (từ quan hệ cá nhân, gia đình;
quan những giá trị cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần để tồn tại và phát triển đa chiều.
Chỉ hệ chính trị, kinh tế đến quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, …), con người mới
bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Thứ hai, khi no bản chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội, cũng
có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người.
Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang (tức là đương đại), vừa diễn ra theo
chiều dọc lịch sử. Trong lịch sử loài người, dù ít hay nhiều con người cũng kế thừa
những di sản thời đại trước để lại. Do đó, khi xem xét bản chất con người, không
nên tách rời giữa hiện tại và quá khứ.
Thứ ba, sự thể hiện bản chất con người không phải theo con đường thẳng
trực tiếp mà thường gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã
hội, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã
hội. Trong diễn biến phức tạp đó, dù sớm hay muộn, bản chất con người ít nhiều
cũng sẽ thay đổi theo. Quan hệ xã hội tác động đến con người từ khi sinh ra đến khi
trưởng thành chiếm một vị trí nào đó trong xã hội, để khẳng định được vị trí của
mình trong xã hội thì con người khơng ngừng sáng tạo để khẳng định bản thân mình

8


một cách lịch sử và tái hiện bản thân mình, tự giáo dục bản thân với tư cách con
người.

Tóm lại, khơng có con người phi lịch sử, chỉ có con người cụ thể trong
mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Bản chất của con người luôn vận động,
biến đổi phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội. Khơng chỉ là “tổng hịa các quan hệ
xã hội”, con người cịn đóng vai trị là chủ thể sáng tạo trong tiến trình lịch sử. Mỗi
sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và biến
đổi của bản chất con người.
2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Theo quan điểm duy vật lịch sử, con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết
quả của q trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Giới sinh vật, kể cả loài người
cũng là sản phẩm của sự tiến hóa đã được khẳng định trong Học thuyết của Darwin
về sự tiến hóa của lồi. Trước khi có thể tiến hóa thành con người, đã phải trải qua
quá trình “Người vượn- người khéo léo-người đứng thẳng-người thông minh-người
hiện đại”. Con người cũng là sản phẩm của lịch sử- xã hội. Mỗi một thời, mỗi một
xã hội với những mối quan hệ xã hội nhất định, những dấu ấn đặc trưng ở con người.
Nhưng quan trọng hơn cả, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội. C.Mác
đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm
của những hoàn cảnh và của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những
con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo
dục”6.
Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăng-ghen cũng cho rằng:
“Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát
triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra
lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu”7. Thế giới lồi vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con
9



người thì trái lại, thơng qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm
thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong q
trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản
phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con
người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người,
vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Với những điều kiện
có sẵn do quá khứ để lại, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động cũ của thế hệ trước
trong hoàn cảnh mới, mặt khác tiếp tục những hoạt động mới của mình để biến đổi
hồn cảnh cũ. Bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Trên cơ sở nắm
bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần,
thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con
người đặt ra. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng tồn tại quy luật xã
hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử xã hội lồi người.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ
với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Bản chất con người khơng phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở,
tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã
hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng
tạo. Thơng qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể
nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù
không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là tồn
bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục.Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích cực và tác động trở
lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: Hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng

xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các
10


quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của
mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã
hội loài người.
III. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI
TRONG VIỆC ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP VÀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP,
TU DƯỠNG HOÀN THIỆN BẢN THÂN CỦA SINH VIÊN
1. QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI TRONG VIỆC
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN
Định hướng nghề nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc quyết định sự thành
công và hướng phát triển của mỗi cá nhân. Trong thực tiễn nghiên cứu, có rất nhiều
bài báo đã đề cập vấn đề liên quan đến định hướng nghề nghiệp của giới trẻ, đặc biệt
là sinh viên đại học. Định hướng nghề nghiệp khơng chỉ có ý nghĩa đối với bản thân
mỗi cá nhân, mà cịn có ý nghĩa rất lớn đối với chất lượng nguồn nhân lực. Mỗi cá
nhân sẽ phát huy tối đa năng lực, hứng thú của bản thân đối với công việc để đạt
được hiệu quả cao nhất khi họ có định hướng nghề nghiệp đúng đắn.
Triết học với tư cách “khoa học của mọi ngành khoa học”, “là hệ thống quan
điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới và vị trí con người trong thế giới
ấy”8 đã đưa ra định hướng phát triển nghề nghiệp đúng đắn cho sinh viên ngày nay.
Dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về vấn đề con người “Con người vừa
là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử”, một con người hồn chỉnh được
tạo nên khơng chỉ nhờ đặc tính sinh học do thiên tiên tạo hóa ban tặng mà cịn thơng
qua các hoạt động thực tiễn mà ở đây là học tập, lao động để ngày càng phát triển,
hồn thiện bản thân. Do đó, trong q trình định hướng nghề nghiệp, bản thân mỗi
sinh viên tự làm chủ về quyết định chọn ngành nghề gì, muốn chọn ngành nào, nghề
nào tùy mỗi người, khơng ai có thể bắt ép. Tuy nhiên, sinh viên hiện nay còn thiếu
nhiều kiến thức và mơng lung, chưa xác định được mình phù hợp cơng việc, ngành

nghề gì cũng như có hiểu biết nhiều về ngành nghề mình đã chọn, chọn ngành theo
bạn bè, theo lời khuyên từ mọi người xung quanh hay theo xu hướng ngành “hot” từ
những bảng số liệu thống kê không rõ ràng. Điều này dẫn đến việc sinh viên khơng
có sự kiên định bám đuổi ngành đang theo học, dễ bỏ dở giữa chừng, một số học
11


xong mà không biết sau khi ra trường làm nghề gì. Hậu quả là rất nhiều người học
và làm lạc ngành, không đúng thế mạnh của bản thân, gây bỏ sót nhân tài. Chính vì
vây, việc giáo dục định hướng nghề nghiệp chính là giúp sinh viên trở thành sản
phẩm tốt từ việc đào tạo đúng đắn, sau khi tốt nghiệp có được vị trí việc làm phù
hợp với năng lực, sở thích cũng như phát huy được thế mạnh của mỗi cá nhân.
2. QUAN ĐIỂM DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VỊ TRÍ CON NGƯỜI TRONG Q
TRÌNH HỌC TẬP, TU DƯỠNG CỦA SINH VIÊN
Không chỉ giáo dục hướng nghiệp, quan điểm triết học Mác -Lênin về con
người còn ứng dụng ngay trong quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên. Đầu tiên,
sinh viên cần tự hình thành một lối sống lành mạnh, thiết lập thời gian biểu hợp lý,
kết hợp học tập cùng với rèn luyện sức khỏe, tu dưỡng đạo đức để phát triển toàn
diện cả hai mặt thể chất lẫn tinh thần. Đặc biệt, đối với sinh viên năm nhất mới chập
chững bước chân vào môi trường đại học có biết bao điều mới mẻ cũng ẩn chứa đầy
cạm bẫy, khi khơng có sự chú ý, quản thúc của gia đình, mỗi người cần phải tỉnh táo
làm chủ bản thân để tránh sa vào những ham muốn tầm thường, mải mê vui chơi mà
bỏ bê việc học. Mỗi người cần biết phân bổ thời gian hợp lý giữa việc học và các
hoạt động ngồi lề, trong đó thời gian dành cho học tập phải chiếm đa số. Bên cạnh
đó, sinh viên cũng cần tích cực tham gia các hoạt động rèn luyện thể thao, hoạt động
ngoại khóa để tăng cường thể chất, phát triển kỹ năng mềm của bản thân, từ đó trở
thành một cơng dân tồn diện góp phần vào sự tiến bộ chung của cộng đồng, xã hội
và đất nước.
Sự sáng tạo là yếu tố khơng thể thiếu ở một người cơng dân tồn diện. Để sinh
viên phát huy được năng lực sáng tạo của mình cịn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác

nhau, đặc biệt là điều kiện, môi trường học tập. Con người sẽ phát triển tốt khi ở
trong một môi trường với điều kiện xã hội tốt được tạo nên từ quá trình hoạt động
của con người. Nói theo quan điểm biện chứng duy vật, cần phải kết hợp giữa điều
kiện khách quan và phát huy vai trò nhân tố chủ quan để tạo động lực cho sinh viên
phát huy khả năng sáng tạo của mình. Trên lớp, việc giảng dạy theo phương pháp
truyền thống cần loại bỏ, thay vào đó cần có thêm nhiều sự trao đổi giữa sinh viên

12


với sinh viên, giữa sinh viên với giảng viên để sinh viên có cơ hội thể hiện bản thân,
phát huy tính chủ động, sáng tạo trong q trình học tập, nghiên cứu.
Theo quan điểm duy vật lịch sử: “Trong tính hiện thực, bản chất con người là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Đặt trong mối quan hệ với giảng viên và bạn bè,
sinh viên cần tạo dựng những mối quan hệ tích cực, lành mạnh; thường xuyên kết
nối bản thân với thầy cơ và bạn bè để hồn thiện, tiến bộ, đồng thời tránh xa những
mối quan hệ tiêu cực. Sinh viên mạnh dạn trao đổi suy nghĩ của mình, đối chiếu lập
trường, quan điểm của bản thân với mọi người để tìm ra đúng sai, những thiếu sót
trong vấn đề bàn luận để đi đến ý kiến chung nhất; đồng thời ln chính kiến trong
giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Bên cạnh đó,
tránh khuynh hướng đề cao bản thân thái quá dẫn đến tự cao, tự phụ, nâng cao ý thức
tập thể, tinh thần đồn kết, phấn đấu vì lợi tích chung và ln đặt lợi tích tập thể lên
trên lợi ích cá nhân. Là sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, song song với việc
trau dồi kiến thức, mỗi người cần phải luôn không ngừng bồi dưỡng nhân cách và
rèn luyện đạo đức, giữ gìn và lan truyền những giá trị tốt đẹp đến xã hôi, cộng đồng.

13


KẾT LUẬN

Trong tất cả những nghiên cứu về con người cho đến thời điểm hiện tại, có
thể nói triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề này một cách đúng đắn, sâu sắc và
toàn diện nhất dựa trên quan điểm biện chứng duy vật lịch sử. Theo ông, con người
là thực thể sinh học-xã hội; là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người,
đồng thời con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử. Song,
“Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội”. Để phát
triển bản thân con người theo hướng tích cực và hồn thiện nhân cách, cần phải nhân
đạo hóa hồn cảnh, tạo ra hồn cảnh mang tính “người” nhiều hơn. Đó chính là tồn
bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển đạt tới những giá trị có mục đích mang tính tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục, tương lai.
Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người mang lại ý nghĩa vô cùng lớn
trên nhiều phương diện khác nhau. Hiểu và áp dụng được vấn đề này vào trong thực
tiễn, con người sẽ tiến gần hơn trong hành trình khám phá , khai thác bản thân, từ đó
ứng dụng vào đời sống xã hội trên các lĩnh vực khác nhau : kinh tế, chính trị, xã
hội,… Hiểu rõ hơn về bản chất của chính mình và những mối quan hệ liên quan, con
người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ đó, từ
đó có động lực phát triển bản thân nói riêng cũng như xã hơi, cộng đồng nói chung
cùng bền vững đi lên.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên > Giáo trình Triết học Mác-Lênin > NXB
Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > Hà Nội > 2019
(2) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Tồn tập , tập 20 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật> Hà Nội > 1994
(3) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Toàn tập , tập 42 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật> Hà Nội > 2000

(4) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Toàn tập , tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật> Hà Nội > 1995
(5) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Toàn tập, tập 3 >NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật> Hà Nội>1995
(6) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và Ph.Ăng-ghen
Tồn tập, tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật> Hà Nội>1995
(7) Ph.Ăng-ghen > Biện chứng của tự nhiên > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự
Thật> Hà Nội > 1971
(8) GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên > Giáo trình Triết học Mác-Lênin > NXB
Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > Hà Nội > 2019

15


16


17


18


19



×