Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp tăng cường nguồn cung lao động Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.54 KB, 59 trang )

Lời nói đầu
Lao động, bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào không thể thiếu được
trong quá trình sản xuất. Các đề tài về lao động luôn là những đề tài được nghiên cứu chi
tiết trong kinh tế phát triển. Lao động chính là bộ mặt của sự phát triển cho một quốc gia,
lực lượng lao động nói lên khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế của quốc gia đó. Lao
động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định
nhất, và là yếu tố đóng vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất.
Đối với Việt Nam, một nước đang phát triển,và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội thì vai trò của lao động là hết sức to lớn, đóng vai trò quyết định đến kết quả của sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhận biệt được
sự quan trọng của lực lượng lao động đối với nước ta, cùng với kiến thức có được của
chuyên ngành kinh tế phát triển em đã quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường
nguồn cung lao động Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020”. Lao động là bộ mặt của một
quốc gia, và lực lượng lao động là yếu tố quan trọng nhất trong lao động, lực lượng lao
động là lực lượng chính, quyết định sự thành bại trong các mục tiêu quốc gia. Đối với Việt
Nam, lực lượng lao động là một thành phần rất giàu tiềm năng, nguồn lao động dồi dào,
giá cả nhân công thấp song bên cạnh đó vẫn tồn tại những khuyết điểm cần khắc phục như
sức khỏe còn chưa đảm bảo, thái độ làm việc chưa cao, trình độ tay nghề thấp. Vì vậy, việc
đưa ra các giải pháp để phát triển và khắc phục những khó khăn của lực lượng lao động
Việt Nam hiện nay là rất cần thiết. Nội dung đề tài sẽ nghiên cứu về thực trạng khó khăn
của nguồn cung lao động nước ta hiện nay và những giải pháp cho những khó khăn này
trong giai đoạn 2010 - 2020.
Đây là một đề tài có tính thực tế rất cao, bởi trong bối cảnh của đất nước ta hiện nay thì
việc phát triển lực lượng lao động là rất cần thiết, chỉ có lực lượng lao động mới là lực
lượng chính để đưa đất nước lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội.
I) Lý Thuyết về lao động và nguồn cung lao động .
1. Một số khái niệm về lao động và nguồn cung lao động
1.1 Khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhắm biến đổi các vật chất tự nhiên
thành của cải vật chất cần thiết cho đời sống của mình. Trong quá trình sản xuất, con người
1


sử dụng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ
cho lợi ích con người. Lao động là điều kiện chủ yếu cho tồn tại của xã hội loài người, là
cơ sở của sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội. Nó là nhân tố quyết định của bất cứ quá
trình sản xuất nào. Như vậy động lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội quy tụ lại ở
con người. Con người với lao động sáng tạo của họ đang là vấn đề trung tâm của chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy để xã hội có thể phát triển một cách toàn diện thì việc
tập trung vào con người, mà trong đó yếu tố lao động là quan trong nhất là một việc hết
sức cần thiết và tất yếu.
1.2 Khái niệm về thị trường lao động.
Thị trường lao động là sự trao đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là những
người sở hữu sức lao động và một bên là những người cần thuê sức lao động đó.
Thị trường lao động là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống thị
trường vì lao động là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất và kết quả của quá trình trao
đổi trên TTLĐ là việc làm được trả công.Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa
một bên là người có sức lao động và một bên là người sử dụng sức lao động nhằm xác
định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng.
Về mặt lý thuyết, thị trường lao động là nơi người lao động và người sử dụng lao
động thực hiện các giao dịch, thoả thuận về giá cả sức lao động. Tại đây, người lao động
(bên cung) và người sử dụng lao động (bên cầu) là hai chủ thể của thị trường lao động, có
quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự tác động lẫn nhau của 2 chủ thể
này quyết định tính cạnh tranh của thị trường: khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu
về loại hàng hoá này, thì bên mua ở vào địa vị có lợi hơn trên thị trường lao động (thị
trường của bên mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung thì
người bán sẽ có lợi thế hơn, có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn công việc, giá cả sức lao
động vì thế có thể được nâng cao (thị trường của bên bán). Bên cạnh đó, cũng như bất kỳ
mọi dạng thị trường khác, thị trường lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác,
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới động thái phát triển của thị trường này.
Tuy nhiên trên thực tế, do các thông tin thống kê về cung và cầu trên thị trường lao
động ở nước ta cho đến nay chưa được thu thập, xử lý và lưu giữ đầy đủ, nên việc theo dõi
phân tích thực trạng và động thái phát triển của loại thị trường này sẽ là việc làm không

đơn giản.
2
Về cơ bản TTLĐ cũng chịu sự tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,
quy luật độc quyền…
1.3 Khái niệm về nguồn cung lao động
Cung lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật
nhà nước có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động, những người ngoài độ
tuổi lao động(trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn cung lao động được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các trường đại học,
cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung này có thể từ những người
đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức … và, nó được bổ sung thường
xuyên từ đội ngũ những người đến độ tuổi lao động. Ở Việt Nam tổng cục thống kê quy
định nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao động (nam từ 15-60 tuổi nữ từ 15-55
tuổi) và người trên tuổi lao động đang làm việc. Cung về lao động phụ thuộc vào qui
mô,cơ cấu dân số của một nước, chất lượng của nguồn lao động (Trình độ văn hóa, cơ cấu
ngành nghề, sức khỏe… phong tục, tập quán xã hội của một nước và chính sách phát triển
nguồn nhân lực của nước đó.)
Cũng giống như các yếu tố khác của xã hội, nguồn cung lao động cũng có tính hai mặt
đó là số lượng và chất lượng của cung lao đông.
Cung lao động về giác độ số lượng bao gồm : Dân số đủ 15 tuổi trở lên và có việc làm,
những người ngoài độ tuổi lao động(trên độ tuổi lao động) đang làm việc trong các ngành
kinh tế quốc dân.
Cung lao động về giác độ chất lượng cơ bản được đánh giá ở trình độ chuyên môn tay
nghề ( trí lực ), sức khỏe (thể lực ) và ý thức kỷ luật của người lao động.
1.4 Vai trò của nguồn lao động đối với phát triển xã hội.
Lịch sử loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển
kinh tế-xã hội. Ngay cả khi khoa học công nghệ đạt được trình độ phát triển cao, chi phối
mọi lĩnh vực đời sống, thì cũng không thể thay thế vai trò nguồn lực lao động, nhân tố của
sự sáng tạo và sử dụng công nghệ
Lao động chính là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các nguồn lực

khác. Khi phân tích các bộ phận cấu thành nguồn lực phát triển kinh tế, hầu hết các quốc
gia đều khẳng định các nguồn lựuc chủ yếu là lao động , tài nguyên, vốn, khoa học, công
3
nghệ. Tuy nhiên, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định rằng, nguồn lao động chính là
nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng, phát triển các nguồn lực còn lại. Không dựa trên
nền tảng phát triển cao của nguồn lao động về thể chất, trình độ văn hoá, kĩ thuật, kinh
nghiệm quản lý… thì không thể sử dụng các nguồn lực khác, thậm chí là lãng phí, làm cạn
kiệt và huỷ hoại chúng. Lao động là một bộ phận của các yếu tố đầu vào trong quá trình
sản xuất. Chi phí lao động, mức tiền công thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao đọng
trong hàng hoá, dịch vụ. Như vậy, chi phí nguồn lực lao động trở thành nhân tố cấu thành
mức tăng trưởng của kinh tế. Hơn nữa, là bộ phận của dân số, nguồn lao động tham gia
tiêu dùng các sản phẩm và dịch vụ xã hội, tạo cầu cho nền kinh té. Điểm khác biệt cơ bản
giữa nguồn lao động với các nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung, vừa tạo cầu cho nền
kinh tế. Bên cạnh nhận thức vai trò của nguồn nhân lực lao động với phát trỉen kinh tế, cần
thấy rõ ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế đối với nguồn lao động. Lượng của cải
vật chất do nền kinh tế tạo ra là cơ sở để phát triển nguồn lực lao động. Một quốc gia có
năng suất lao động cao, của cải nhiều, ngân sách dồi dào sẽ có những điều kiện về vật chất,
tài chính để nâng cao dinh dưỡng, phát triển văn hoá, giáo dục, chăm sóc y tế…nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Mặt khác, việc phát triển kinh tế làm xuất hiện ngành nghề
mới, công việc mới… đòi hỏi nguồn lực lao động phải không ngừng hoàn thiện.
Đối với Việt Nam thì nguồn cung lao động là lực lượng không thể thiếu trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà
công nghệ chưa phát triển đến mức cao nhất, tài nguyên khoáng sản nhiều song không
được khai thác một cách hợp lý thì yếu tố con người đóng vai trò then chốt trong mọi lĩnh
vực hoạt động phát triển đất nước. Từ sau đồi mới nguồn lao động chính là nhân tố chính
đưa đất nước lên một tầm cao mới, sự sáng tạo và sử dụng các tư liệu sản xuất một cách
hợp lý của con người đã đưa Việt Nam vươn tới trường quốc tế chỉ trong vòng hơn 20
năm.
2. Đặc điểm của nguồn cung lao động ở Viêt Nam hiện nay.
2.1 Số lượng tăng nhanh nhưng chất lượng chưa đảm bảo.

Có sự khác biệt chủ yếu giữa sự thách thức phát triển mà các nước đang phát triển
gặp phải so với các nước phát triển là sự gia tăng chưa từng thấy của lực lượng lao động. Ở
4
hầu hết các nước, trung bình mỗi năm số người tìm việc làm tăng từ 2% trở lên. Sự gia
tăng nguồn lao động liên quan chặt chẽ với việc tăng dân số. Theo số liệu điều tra dân số
1-4-1999 dân sô Việt Nam là 76,32 triệu người, trong đó khoảng 39 triệu người là lực
lượng lao đông chiếm 51% dân sô. Dự báo ở nước ta mỗi năm trung bình tăng thêm hơn
một triệu lao động, đến năm 2010 thì số người lao động sẽ là khoảng 52 triệu người, và
con số này sẽ là 64.2 triệu người vào năm 2020, vì vậy sức ép về vấn đề giải quyết bài toán
lao động sẽ gây nên một áp lực không nhỏ.
Bảng 1 dân số trung bình Việt Nam qua một số mốc thời gian. (Theo số liệu tổng
cục thống kê)
Tuy nhiên, không chỉ giải quyết bài toán về việc làm, mà hiện nay Việt Nam cũng đang
phải đối mặt với một thực trang đó là nguồn lao động thì dồi dao, song trình độ lao động
và tay nghề chuyên môn của người lao động lại rất thấp.
Đã một thời Việt Nam "tự hào" có nguồn nhân lực đông, giá rẻ. Quả thực cho đến nay, so
với nhiều nước trong khu vực, Việt Nam vẫn là nơi có giá rẻ về sử dụng lao động. Lợi thế
về giá rẻ lao động đang từng bước thu hẹp. Thậm chí một số chuyên gia kinh tế đã lên
tiếng cảnh báo: Tiếp tục duy trì lao động giá rẻ như hiện nay, đến một lúc nào đó lợi thế sẽ
biến thành bất lợi, thậm chí là cản trở sự phát triển kinh tế quốc dân cũng như hội nhập,
mở cửa.
Năm 2005 tỷ lệ lao động qua đào tạo rất thấp (25%), năm 2006 là (31.9%). Theo chỉ
tiêu đã được hoạch định, đến năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40%. Chỉ số này
hiện thời mới có gần 30%. Từ nay đến 2010 rất khó nâng thêm hơn 10%. Mặt khác, cơ cấu
đào tạo lao động của Việt Nam thể hiện sự "không giống ai" so với thế giới. Bên cạnh việc
chú trọng đúng mức đào tạo đại học và cao đẳng, nhiều nước trên thế giới đặc biệt quan
5
tâm đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo nghề. Việt Nam thì gần như ngược lại. Chỉ
số đào tạo bình quân của thế giới: 1 đại học, cao đẳng/4 trung cấp chuyên nghiệp/10 đào
tạo nghề, trong khi của Việt Nam là 1/0,98/3,02, gây ra tình trạng "thiếu thợ nhiều hơn

thiếu thầy". Đó là chưa kể trình độ đào tạo cũng còn không ít vấn đề: lý thuyết nhiều hơn
tay nghề, thực tế; trung cấp chuyên nghiệp thì nửa thầy nửa thợ, cao đẳng, đại học thì khoa
học cơ bản chưa đủ, còn khoa học ứng dụng còn yếu. Ngay cả giáo sư, tiến sĩ thì có tới gần
một phần ba là danh nhiều hơn thực. Cán bộ khoa học, kỹ thuật ở cơ sở, ở thực tiễn thì ít.
Ngoài ra còn tình trạng mua bán bằng,... Trình độ kỹ thuật - công nghệ còn thấp.
BẢNG 1 : So sánh chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam với một số nước châu Á
Số
TT
Tên nước, lãnh thổ
Mức độ sẵn
có lao động
sản xuất chất
lượng cao
Mức độ sẵn
có các cán bộ
hành chính
chất lượng
cao
Mức độ sẵn
có cán bộ
quản lý chất
lượng cao
Sự thành
thạo tiếng
Anh
Sự thành
thạo công
nghệ cao
1 Hàn Quốc 7,00 8,00 7,50 4,00 7,00
2 Xingapo 6,83 5,67 6,33 8,33 7,83

3 Nhật Bản 8,00 7,50 7,00 3,50 7,50
4 Đài Loan 5,37 5,62 5,00 3,86 7,62
5 Ấn Độ 5,25 5,50 5,62 6,62 6,50
6 Trung Quốc 7,12 6,19 4,12 3,62 4,37
7 Malaixia 4,50 7,00 4,50 4,00 5,50
8 Hồng Công 4,23 5,24 4,24 4,50 5,43
9 Philippin 5,80 6,20 5,60 5,40 5,00
10 Thái Lan 4,00 3,37 2,36 2,82 3,27
11 Việt Nam 3,25 3,50 2,75 2,62 2,50
6
12 Inđônêxia 2,00 3,00 1,50 3,00 2,50
.số liệu theo tổng cục thống kê
Chỉ số năng suất lao động trên đây tự nó chứng tỏ khoảng cách không nhỏ giữa các
nước trong khu vực và chỉ ra Việt Nam đang đứng ở tốp cuối, thua xa nhiều nước trong
khu vực.
Chất lượng nguồn nhân lực thấp làm cho sức cạnh tranh của lực lượng lao động nước
ta thấp. Theo tổ chức Beri, khả năng cạnh tranh của lực lượng lao động nước ta chấm theo
thang điểm 100 như sau:
- 45 điểm về khung pháp lý;
- 20 điểm về năng suất lao động;
- 40 điểm về thái độ lao động;
- 16 điểm về kỹ năng lao động;
- 32 điểm về chất lượng lao động.
Tình trạng trên không chỉ làm cho việc xuất khẩu lao động của ta khó khăn khi phải
cạnh tranh với lao động của Philippin, Thái Lan… mà còn làm cho việc thu hút lao động
vào các khu công nghiệp, khu chế xuất khó khăn hơn.
Ở một góc nhìn khác ta thấy nguy cơ thất nghiệp của người lao động còn bắt nguồn
từ khả năng điều hành sản xuất kinh doanh của đội ngũ doanh nhân nước ta hạn chế. Như
chúng ta đã biết, doanh nhân là đội ngũ giữ vị trí trọng yếu trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Thế nhưng, trình độ năng lực của đội ngũ doanh nhân Việt Nam hiện còn thấp

kém. Theo cuộc điều tra của Cục doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và đầu tư) thực
hiện ở 60.000 doanh nghiệp của 30 tỉnh, thành phía Bắc thì có tới 55,63% số chủ doanh
nghiệp có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh
nghiệp ở trình độ sơ cấp. Số chủ doanh nghiệp có trình độ tiến sỹ chỉ đạt 0,66%, thạc sỹ
2,33%, đại học 37,82%, cao đẳng 3,56%, trung học chuyên nghiệp 12,33%, còn lại 43,33%
ở trình độ thấp hơn.
2.2 Phần lớn lao động ở nông thôn.
7
Nông thôn Việt Nam có nguồn lao động dồi dào và tiềm năng, là nơi cung cấp và
hậu thuẫn đắc lực về nguồn nhân lực cho các khu đô thị và khu công nghiệp. Năm 2009,
dân số nông thôn Việt Nam có 62.27 triệu người, chiếm 72.4% tổng dân số cả nước. Tuy
nhiên, vấn đề là ở chỗ lao động nông thôn chiếm 3/4 lao động cả nước nhưng lại tập trung
chủ yếu trong ngành nông nghiệp, nơi tạo ra năng suất lao động thấp nhất và cũng là nơi
quỹ đất canh tác đang ngày càng bị thu hẹp và giảm dần do quá trình đô thị hóa và công
nghiệp hóa. Kết quả là nhiều lao động mất đất, hoặc thiếu đất dẫn đến dư thừa lao động và
thiếu việc làm. Thu nhập của lao động ở khu vực nông thôn vì thế mà thấp và thất thường
bởi tính thời vụ và rủi ro cao. Đây chính là lý do khiến tỷ lệ nghèo tập trung chủ yếu ở khu
vực nông thôn.
Có thể nói, hầu như toàn bộ lao động nông nghiệp tập trung ở khu vực nông thôn,
nếu so sánh với tổng lao động có việc làm của cả nước thì lao động nông nghiệp nông thôn
vẫn chiếm quá bán, khoảng 50.5%. Nhìn từ góc độ chuyển dịch cơ cấu lao động ta thấy, tỷ
lệ lao động nông nghiệp nông thôn đã có chuyển biến, giảm từ 82.3% năm 1996 xuống
còn 74.2% năm 2009, mức giảm tuy nhỏ so với một số nước cùng khu vực nhưng, nó đã
thể hiện được sự nỗ lực của cả một nền kinh tế..
2.3 Còn một bộ phận lớn lao động chưa được sử dụng.
Việc đánh giá tình trạng chưa sử dụng hết lao động phải xem xét qua các hình thức biểu
hiện của thất nghiệp – thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình.
Bảng 2: Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động
trong độ tuổi năm 2009 phân theo vùng
(*)

Đơn vị %

Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Chung
Thành
thị
Nông
thôn


CẢ NƯỚC
2.38 4.65 1.53 5.10 2.34 6.10
Đồng bằng sông Hồng
2.29 5.35 1.29 6.85 2.13 8.23
Trung du và miền núi phía
Bắc 1.13 4.17 0.61 2.55 2.47 2.56
Bắc Trung Bộ và duyên 2.24 4.77 1.53 5.71 3.38 6.34
8
hải miền Trung
Tây Nguyên
1.42 2.51 1.00 5.12 3.72 5.65
Đông Nam Bộ
3.74 4.89 2.05 2.13 1.03 3.69
Đồng bằng sông Cửu
Long 2.71 4.12 2.35 6.39 3.59 7.11

Số liệu theo tổng cục thống kê
Do sức ép về dân số và những khó khăn về kinh tế ở các nước đang phát triển đã tác
động lớn đến vấn đề công ăn việc làm ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn, tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng gia tăng đặc biệt ở khu vực thành thị.
Dân số đông tạo nên thị trường nội địa rộng lớn, một yếu tố hết sức quan trọng đối với
việc phát triển kinh tế xã hội, tuy nhiên, do tình trạng kém phát triển và có nhiều chế độ
đối với nguồn lực khác, việc dân số phát triển nhanh chóng lại là một gánh nặng cho việc
cải thiện cơ hội tìm việc làm và điều kiện sống. Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được
xem là vấn đề kinh tế – xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển
xã hội đến năm 2009 của Việt Nam đã khẳng đinh, “ Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa
tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu
chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ”. Trên phạm vi rộng, giải quyết
việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực. Còn theo phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng
và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả
việc làm và tăng thu nhập.
3. Các yếu tố ảnh hưởng tới nguồn cung lao động ở Việt Nam.
3.1 Dân số: Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động. Sự biến động dân số là kết
quả của quá trình nhân khẩu học và có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ
cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động.
3.2 Tỷ lệ tham gia lao động: Theo khái niệm lực lượng lao động nêu ở trên thì chỉ tiêu " tỉ
lệ tham gia lưc lượng lao động " nói chung được hiểu là tỉ số phần trăm giữa số người đủ
15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động trên dân số đủ 15 tuổi trở lên. Tỷ lệ này được tính
bằng:
Tỷ lệ tham gia LLLĐ số người trong độ tuổi thuộc LLLĐ
của dân số trong độ = * 100%
9
tuổi lao động ∑dân số trong độ tuổi lao độn
3. 3 Một số yêu tố khác ảnh hưởng tới chất lượng của nguồn cung lao động Việt Nam
hiện nay.

a. Giáo dục và trình độ lao động
Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập của con người nhằm nâng cao
kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời.
Giáo dục phổ thông ( giáo dục cơ bản ) nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản để phát
triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và giáo dục đại học vừa giúp người học có kiến thức
đồng thời còn giúp cung cấp tay nghề, kỹ năng và chuyên môn. Với mỗi trình độ đào tạo
nhất định, người được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì. Yêu cầu
kỹ năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào.
Vai trò của giao dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động được phân tích qua nội
dung sau.
Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tích lũy vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp
con người sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công mới do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
dài hạn.
Thứ hai, giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ năng làm việc với năng
suất cao là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững.
Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ tiêu “ tỷ suất lợi nhuận
cho giáo dục”. Về lý thuyết, tỷ suất lợi nhuận từ đầu tư giáo dục cũng giống như lợi nhuận
đầu tư vào bất kỳ một dự án nào khác. Đó là tỷ lệ phầm trăm của lợi nhuận từ đầu tư ở một
mức độ giáo dục nhất định với tổng các chi phí khác. So sánh chỉ số này giữa các cấp giáo
dục có thể giúp cho việc đánh giá lợi ích kinh tế của đầu tư giáo dục ở cấp nào hiệu quả
hơn.
Kết quả nghiên cứu của các nước cho thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào cấp tiểu học
là cao hơn các cấp khác. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận chung của thế giới ( đầu thập niên
90) ở cấp tiểu học là 18.4%, ở cấp trung học là 13.2%, đại học là 10.9%. Các số liệu tương
ứng của Việt Nam là 10.8%, 3.8%, 3.0%. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục tiểu học và
giáo dục cơ bản có hiệu quả hơn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do vây
10
chính sách giáo dục của các nước đang phát triển cũng tập trung nhiều và ưu tiên nhiên hơn
cho giáo dục tiểu học.
Thứ ba, giáo dục giúp cho việc cung cấp kiến thức và những thông tin để người dân, đặc

biệt là phụ nữ có thể sử dụng những công nghệ nhằm tăng cường sức khỏe, dinh dưỡng.
Chẳng hạn tỷ lệ tử vong trẻ em giảm xuống, tỷ lệ dinh dưỡng trẻ em tăng lên, cùng với học
vấn của cha mẹ, đặc biệt là của người mẹ vì biết sin hoạt vệ sinh hơn, hay biết cách sử
dụng những thức ăn giầu chât dinh dưỡng hơn.... Với ý nghĩa trên giáo dục còn góp phần
vào việc bổ sung cho các dịch vụ y tế( giảm nhu cầu về những dịch vụ y tế)
b, Sức khỏe người lao động
Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không
phải chỉ bao gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật.
Sức khỏe có tác động tới chất lượng của lao động cả hiện tài và tương lai. Người lao động
có sức khỏe tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng việc nâng
cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao trong khi làm việc.
Sức khoẻ là một vấn đề rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân số nói
chung và chất lượng lao động nói riêng, nó là một trong chiến lược phát triển con người ở
mỗi quốc gia trên Thế giới. Khi nói tới sức khoẻ bao gồm 2 khía cạnh : sức khoẻ tinh thần
và thể lực con người, chúng ta thường nói “ Có sức khoẻ là có tất cả”, Bởi sức khoẻ giúp
con người làm việc tốt và chủ động tham gia vào các hoạt động đời sống kinh tế xã hội,
cộng đồng. Vì vậy, muốn phát triển đất nước, trước hết phải quan tâm tới yếu tố này, lấy
con người làm trung tâm .Do tầm quan trong của sức khỏe là rất lớn do đó phải tập trung
về vấn đề này ngay từ đầu. Nhà nước cần có các chính sách đặc biệt dành cho trẻ nhỏ và bà
mẹ để có thể đảm bảo được một nguồn lao động dồi dào và chất lượng ngay từ nhỏ.
c. Yếu tố trách nhiệm và tác phong công nghiệp
Về ý thức trách nhiệm đó là thể hiện trong mối quan hệ với nhiệm vụ được giao, với
công việc phải làm. Khi được giao việc gì, bất kỳ to, hay nhỏ, khó hay dễ, đều phải dồn hết
tâm huyết làm đến nơi, đến chốn, tự giác làm. Nếu làm việc theo lối cẩu thả, dễ làm, khó
bỏ, làm cho qua chuyện, gặp sao làm vậy… là không có tinh thần trách nhiệm. Ý thức
trách nhiệm còn thể hiện không thụ động, trông chờ, ỷ lại; phải chủ động trong cộng việc
được giao.
11
Tác phong công nghiệp đó là là cách ứng xử, cách làm việc, cách giao tiếp trong công
nghiệp. Đó là sự thể hiện của một cá nhân hay tập thể tới công việc làm được giao, nó

biểu hiện tính trách nhiệm với công việc, có thể nói đó là một yếu tố quan trọng không
kém so với hai yếu tố ở trên. Hiện nay tác phong làm việc của người Việt Nam vẫn còn
chưa tốt. Nó được thể hiện qua sự chậm trễ hay thiếu nhiệt tinh với công việc. Ngày nay
khi đất nước đang phát triển thì việc nâng cao tính kỷ luật và tác phong làm việc là cần
thiết. Việt Nam nên học tập những nước có phong cách làm việc hiệu quả như Mỹ, Nhật
Bản...Để có thể đạt được điều này không phải là đơn giản với nước ta, cần phải có những
biện pháp thích hợp cả về khen thưởng và kỷ luật để có thể đạt được hiệu quả tốt.
II- Thực trạng nguồn cung lao động Việt Nam hiện nay
* Tổng quan về cơ cấu nguồn lao động ở Việt Nam giai đoạn 2000-2009
1 Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế:
Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã có tiến bộ, song còn khó khăn
và chậm chạp. Đến nay đại bộ phận lực lượng lao động vẫn tập trung trong ngành nông -
lâm - ngư nghiệp.
BẢNG 3 : Cơ cấu lao động theo nhóm ngành
Đơn vị: %
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2009
Năm 1990 1995 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nông,
lâm
nghiệp,
thuỷ sản
73,0 71,3 65,1 63,5 61,9 60,2 58,7 57,2 55,7 53,9 52,5
Công
nghiệp -
xây dựng
11,2 11,4 13,1 14,4 15,4 16,4 17,4 18,3 19,1 20,0 20,8
Dịch vụ 15,8 17,3 21,8 22,2 23,3 23,3 23,9 24,5 25,3 26,1 26,7
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100
12
Bảng 4: Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế giai đoạn 2000-2008

65.1
13.1
21.8
63.5
14.4
22.2
61.9
15.4
23.3
60.2
16.4
23.3
58.7
17.4
23.9
57.2
18.3
24.5
55.7
19.1
25.3
53.9
20
26.1
52.5
20.08
26.7
0%
20%
40%

60%
80%
100%
%
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
năm
Biểu đồ cơ cấu lao động theo ngành kinh tế giai đoạn 2000 - 2008
nông nghiệp công nghiệp dịch vụ
Tính đến năm 2008 tỷ trọng lao động trong nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 52,5%,
trong ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ là 20,8% và 26.7% trong tổng số lao
động có việc làm của cả nước. Tỷ trọng lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp cao
phản ảnh mức đột thu hút lao động vào các ngành công nghiệp và dịch vụ chưa thực sự đủ
mạnh để có thể làm thay đổi một cách căn bản cơ cấu lao động xã hội.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực giảm tỷ lệ
lao động trong khu vực nông-lâm-ngư nghiệp; năm 2000: tỷ lệ lao động có việc làm trong
khu vực nông-lâm-ngư nghiệp 65,1%, công nghiệp-xây dựng 13,1% và dịch vụ là 21,8% tỷ
lệ này tương ứng năm 2008 là 52,5%; 20,8% ; 26,7%.
Trong tổng số lao động tăng thêm từ năm 1990 đến 2008 (15.624,9 nghìn người )
Nhóm ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản đã thu hút thêm 2.148,7 nghìn người, chiếm 13,8
% tổng số tăng
13
Nhóm nghành công nghiệp – xây dựng đã thu hút thêm được 6.079,8 nghìn người, chiếm
38,9% tổng số tăng
Nhóm nghành dịch vụ đã thu hút thêm 7.396,4 nghìn người, chiếm 47,3% tổng số tăng
Nhóm nghành dịch vụ đã thu hút thêm được nhiều nhất, tiếp đến là công nghiệp xây dựng
và cuối cùng là nông, lâm nghiệp và thủy sản. Do năng suất lao động của nhóm nghành
công nghiệp – xây dựng (62.924 nghìn đồng/người) và của nhóm nghành dịch vụ ( 46.849
nghìn đồng/ người) cao hơn nhóm nghành nông, lâm nghiệp và thủy sản (13.764 nghìn
đồng / người).
Trong 3 khu vực kinh tế lớn (nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng, dịch vụ) thì khu

vực công nghiệp - xây dựng có tốc độ tăng trưởng cao hơn 2 khu vực kia và cao hơn tốc độ
tăng trưởng chung của nền kinh tế nên tỷ trọng đã tăng nhanh. Tỷ trọng khu vực công
nghiệp - xây dựng trong GDP vượt mục tiêu 39-40% cho năm 2005. Trong khi đó tốc độ
tăng trưởng của khu vực dịch vụ nhìn chung còn rất chậm, đặc biệt một số ngành dịch vụ
quan trọng (ngân hàng - tài chính, khoa học công nghệ) đang chiếm tỷ trọng thấp và lại có
xu hướng giảm. Khối công nghiệp - xây dựng tuy có tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn khu
vực nông - lâm - ngư nghiệp song sức hút lao động lại không tăng tương ứng. Đó là hệ quả
của tình trạng phần lớn những ngành được tập trung đầu tư đạt tốc độ tăng trưởng cao là
những ngành cần nhiều vốn nhưng sử dụng ít lao động và những ngành thay thế nhập
khẩu. Những năm qua, cơ cấu ngành đạt được những bước tiến nhất định, dù chỉ ở trên
phương diện tỷ trọng, trong khi đó cơ cấu lao động chuyển dịch quá chậm, đến mức có thể
nói là không có chuyển dịch. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông nghiệp - nông thôn
giảm không đáng kể trong khi số lao động tuyệt đối vẫn có xu hướng tăng; tỷ trọng lao
động công nghiệp hầu như không tăng. Còn khu vực dịch vụ, tuy có tạo thêm khá nhiều
việc làm mới nhờ sự phát triển bùng nổ của khu vực tư nhân sau khi Luật Doanh nghiệp có
hiệu lực ban hành song cũng không có khả năng xoay chuyển tình hình một cách nhanh
chóng và căn bản. Điều đó làm tăng thêm áp lực việc làm - thất nghiệp vốn đã cực kỳ gay
gắt. Do tác động kìm hãm của xu hướng đầu tư kích cầu những năm qua nhằm vào khu
vực doanh nghiệp nhà nước và cho các dự án đầu tư sử dụng nhiều vốn thay vì sử dụng
nhiều lao động, Chương trình điều chỉnh cơ cấu thực hiện trong những năm qua đã không
tạo được bước chuyển đáng kể nào trong việc giải quyết vấn đề việc làm. Nói tóm lại,
chuyển dịch cơ cấu ngành về mặt số lượng đã có những bước tiến nhất định, nhưng lại hầu
14
như không tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động - một cơ cấu mà cho đến nay đã
thấy rõ là không đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2005.
2. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế :
BẢNG 5: Cơ cấu lao động đang làm việc phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: %
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
KT NN 9,31 9,34 9,49 9,95 9,88 9,50 9,11 9,00

KT ngoài NN 89,70 89,49 89,01 88,14 87,83 87,84 87,81 87,52
KV có vốn ĐT
nước ngoài
0,99 1,16 1,49 1,91 2,29 2,66 3,08 3,49
Nguồn:Niên giám thống kê 2007- Tổng cục thống kê
Năm 2007 lao động trong khu vực kinh tế nhà nước chỉ chiếm khoảng 9%, lao động
khu vực ngoài nhà nước chiếm trên 87%, lao động khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm tỷ lệ nhỏ nhất, là 3,49%. Chứng tỏ khu vực ngoài nhà nước trở thành khu vực chủ
yếu thu hút lao động của cả nước, đồng thời là khu vực chủ yếu giải quyết việc làm cho số
lao động tăng thêm. Bên cạnh đó tỷ lệ lao động trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đang có xu hướng tăng lên mạnh mẽ.
Tuy số lượng việc làm mới được tạo ra nhiều hơn và có xu hướng tăng hơn những
năm trước nhưng nhìn tổng thể vẫn còn nhiều bất cập. Tính ổn định về việc làm chưa cao,
thu nhập bình quân của người lao động ở nhiều ngành nghề còn thấp, chưa đảm bảo mức
sống tối thiểu.
3. Cơ cấu lao động theo các loại hình doanh nghiệp
BẢNG 6 : Cơ cấu lao động làm việc trong các doanh nghiệp
Đơn vị %
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
1.DNNN 59,05 53,75 48,53 43,77 39,00 32,67 28,29
- Trung ương 36,79 34,36 31,01 28,29 26,3 22,97 20,45
- Địa phương 22,26 19,39 17,52 15,48 12,69 9,70 7,84
2. DN ngoài NN 29,43 33,81 36,64 39,61, 42,90 47,76 50,18
- Tập thể 5,15 3,87 3,43 3,11 2,72 2,57 2,22
- Tư nhân 6,68 7,06 7,29 7,31 7,48 7,72 7,43
- Công ty hợp danh 0,00 0,00 0,00 0,01 0,01 0,01 0,01
- Công ty TNHH 14,61 17,74 19,81 22,09 24,15 25,75 25,91
- Công ty cổ phần 2,98 5,13 6,10 7,09 8,52 11,90 14,61
3.DN có vốn ĐTNN 11,52 12,44 14,84 16,62 18,11 19,57 21,52

15
- 100% vốn nước ngoài 8,09 9,26 11,51, 13,29 14,99 16,49 18,42
- Liên doanh 3,44 3,18 ,3,32 3,33 3,11 3,08 3,10
Nguồn:Niên giám thống kê 2007- Tổng cục thống kê
Trong các loại hình doanh nghiệp, tổng số lao động tính đến năm 2007 la 6.715,2
nghìn người tăng 89,9% so với năm 2000, bình quân 1 năm tăng 11,9% - cao gấp nhiều lần
tốc độ tăng 2,3% / năm của toàn nền kinh tế quốc dân trong khoảng thời gian tương
ứng.Về số tuyệt đối, tổng số làm việc trong các doanh nghiệp tăng 3.178,2 nghìn người,
trong đó:
Doanh nghiệp nhà nước giảm 188,6 nghìn người
Doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 2.329 nghìn người, chiếm 73,3% trong tổng số tăng
( tập thể giảm 33 nghìn người, tư nhân tăng 262,9 nghìn người, hợp danh tăng 1.223 nghìn
người, cổ phần tăng 875,7 nghìn người)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1.037,8 nghìn người, chiếm 32,7% tổng số
tăng.
Như vậy, cơ cấu lao động theo loại hình doanh nghiệp đã chuyển dịch theo hướng: tỷ
trọng lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng lao động làm
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng lên nhanh, tỷ trọng các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tăng khá. Theo đó, ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đã đóng góp tích cực vào việc thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động
Trong các khu vực thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo nhiều việc làm nhất.
Năm 2005, lao động trong khu vực này chiếm 88,8% tổng số việc làm trong nền kinh tế;
sau đó là khu vực kinh tế nhà nước chiếm 9,7% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
chiếm 1,6%. (xem bảng 3)
4. Cơ cấu theo vùng thành thị và nông thôn:
Xu hướng thay đổi lao động thành thị và nông thôn nước ta trong thời gian qua thể
hiện cả về tuyệt đối và tương đối.
BẢNG 7 : Chuyển dịch cơ cấu LĐ khu vực thành thị & nông thôn
16

Năm
Lao động độ tuổi 15 – 19
Thành thị Nông thôn
Số lượng
(nghìn
người)
Tăng/giảm
TB năm
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(nghìn
người)
Tăng/giảm
TB năm
Tỷ lệ
(%)
1979 5.113 - 19,24 21.459 - 80,76
1989 7.620 +5,16 21,74 27.431 +2,93 78,26
1999 11.614 +5,24 26,06 32.952 +2,01 73,94
2009* 11.071* - 24,94 33.313,8* - 75,06
Nguồn: Tổng điều tra dân số Việt Nam 1-10-197, H.1983; Tổng điều tra dân số toàn diện
1/4/1989, H.1992; Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999. Kết quả điều tra mẫu.
H.2000; Kết quả điều tra lao động – việc làm năm 2009.
Theo bảng trên, lao động ở khu vực thành thị, trong vòng 9,5 năm (1979 – 1989)
tăng thêm 2,507 triệu, tốc độ tăng trung bình năm là 5,16%. Trong 10 năm tiếp theo (1989
– 1999) tăng gần 4 triệu, tốc độ tăng bình quân là 5,24%, cao hơn thời kỳ trước. Ngược lại,
ở khu vực nông thôn, lượng lao động dịch chuyển theo xu hướng giảm nhẹ, bình quân năm
2,93% (1979 – 1989) và 2,01% (1989 – 1999). Vì thế, tỷ lệ lao động ở khu vực thành thị
tăng lên. Năm 2009, quy mô lực lượng lao động nước ta là 44,385 triệu người, trong đó ở

thành thị là 11,071 triệu, chiếm 24,94% và ở nông thôn chiếm 75,06%. Tác động đến xu
hướng đó là do yếu tố dân số học, trong đó có di dân do công nghiệp hóa, đô thị hóa. Sự
chuyển dịch đó tạo ra áp lực cung lao động tăng lên ở khu vực thành thị trong khi cầu lao
động còn hẹp mà lại yêu cầu chất lượng cao hơn.
5. Cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ :
Sự phân bố lao động chủ yếu tập trung ở 3 vùng: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng
sông Cửu Long và Đông Nam Bộ - 2 vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chưa thu hút được lao
động.
Sự phân bổ lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng của các vùng
đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng hạn: 2 vùng Tây Bắc
và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có thể phát triển và sản xuất những
loại cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp, cây ăn quả…) nhưng lao động ở 2
lĩnh vực này chỉ chiếm 8,8% (xét về mặt lượng, về mặt chất lại còn là vấn đề bức xúc hơn).
Vì vậy, sự phát triển kinh tế ở khu vực này còn gặp nhiều khó khăn trong đó có khó khăn
17
lớn thiếu nguồn nhân lực có trình độ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của
vùng.
BẢNG 8 : Phân bổ lao động ở các vùng lãnh thổ (tính đến 1/7/2008)
Số lao động (nghìn
người)
Tỷ lệ
(%)
Cả nước 44915,8 100
Đồng bằng sông Hồng 10.218.3 22,75
Đông Bắc 5.229,2 11,6
Tây Bắc 1.373,7 3
Bắc Trung Bộ 5.314,7 11.8
Duyên hải miền Trung 3.682,3 8,2
Tây Nguyên 2.615,7 5,8
Đông Nam Bộ 6.636,9 14.77

Đồng bằng sông Cửu Long 9.784,5 22.08
Nguồn: Kết qủa điều tra lao động việc làm ngày 1/7/2008,
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Năm 2008, theo 8 vùng lãnh thổ, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long
là 2 vùng có lực lượng lao động đồng đều chiếm hơn 22% lực lượng lao động cả nước;
thấp nhất là các vùng Tây Bắc ( 3%), tiếp đến là Tây Nguyên ( 5,8%), Duyên Hải Nam
Trung bộ ( 8,2%). Lực lượng lao động theo vùng lãnh thổ đang có xu hướng tăng lực
lượng lao động của vùng Đông Nam bộ ( vùng này, tăng từ 14.22% năm 2004 lên 14.77%
lực lượng lao động cả nước năm 2008) và giảm lực lượng lao động ở các vùng Bắc Trung
Bộ (từ 12,06% năm 2004 xuống còn 11.8% năm 2005) và vùng đồng bằng sông Hồng
trong tổng số lực lượng lao động cả nước ( từ 23.47% năm 2004 xuống còn 22,75% năm
2008).
** Thực trạng chung về nguồn lao động Việt Nam
1. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động giảm.
a- Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có xu hướng giảm.
BẢNG 9: Tỷ lệ tham gia LLLĐ
Đơn vị tính %
Năm
Cả nước Thành thị Nông thôn
Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ Tổng số Nam Nữ
1996 75.8 79.4 72.6 65.7 71.8 60.3 78.8 81.6 76.3
1997 74.3 78.2 70.8 64.9 71.1 59.4 77.4 80.5 74.6
1998 73.7 77.5 70.3 64.4 70.4 59.1 76.9 79.9 74.1
18
1999 73.5 76.9 70.4 64.3 70.2 59.1 76.6 79.1 74.4
2000 72.3 76.1 68.8 64.1 70.5 58.5 75.1 78.0 72.4
2001 73.2 76.8 69.6 64.8 70.6 59.7 76.0 79.0 73.1
2002 72.5 76.2 69.0 64.4 69.8 59.6 75.4 78.5 72.5
2003 72 75.8 68.5 64.3 69.8 59.2 74.9 78.0 71.9
2004 71.4 75.5 67.6 63.2 69.0 58.0 74.5 77.9 71.3

2005 69.6 74.0 65.5 60.5 66.8 54.7 73.1 76.8 69.7
Từ năm 1996 đến năm 2005, tỷ lệ tham gia LLLĐ nói chung của cả nữ và nam ở
nước ta đều giảm. Mặc dù số lượng LLLĐ của cả nước tăng lên từ 36,1 triệu người năm
1996 lên 43,5 triệu người năm 2005, song tỷ lệ tham gia LLLĐ có xu hướng giảm: Từ
75,8% năm 1996 xuống 73,5% năm 1999 và 69,6% năm 2005.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam là 79,4% năm 1996, cao hơn tỷ lệ này của nữ 7,0%.
Sự chênh lệch giữa tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam và nữ tăng cao hơn vào năm 2005
(8,5%), khi tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam giảm xuống 74% và tỷ lệ này của nữ giảm xuống
65,5%. Trong suốt thời gian này, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam giảm khoảng 5,4%, từ
79,4% năm 1996 xuống 74% năm 2005, trong khi đó tỷ lệ tham gia LLLĐ của nữ giảm
7,1%, từ 72,6% xuống 65,5%.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam và nữ ở khu vực nông thôn cao hơn so với các tỷ lệ
này ở khu vực thành thị. Cụ thể là tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam ở khu vực nông thôn là
81,6% năm 1996, cao hơn 10% so với tỷ lệ này của khu vực thành thị cùng thời điểm đó.
Sự chênh lệch về tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam ở khu vực thành thị và nông thôn dao động
trong khoảng 10%, từ năm 1996 đến năm 2005.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của cả nam và nữ ở khu vực thành thị nói chung giảm trung
bình khoảng 5%: Nam giảm từ 71,8% xuống 66,8%; nữ từ 60,3% xuống 54,7% và của cả
khu vực thành thị giảm từ 65,7% xuống 60,5%. Năm 1996, tỷ lệ tham gia LLLĐ của cả
nam và nữ ở khu vực thành thị là 65,7%, thấp hơn 13% so với khu vực nông thôn. Năm
2005, tỷ lệ tham gia LLLĐ của khu vực thành thị giảm xuống 60,5%, trong khi đó tỷ lệ này
ở khu vực nông thôn giảm xuống 73,1%, thấp hơn khoảng 12% so năm 1996.
Do khu vực thành thị có cơ hội học hành tốt hơn nên số lượng lao động làm công ăn
lương gia tăng trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Độ tuổi tối thiểu tham gia LLLĐ
và về hưu ở thành thị cũng được quy định chặt chẽ hơn đã làm ảnh hưởng đến tỷ lệ tham
gia LLLĐ ở khu vực này. Trong khi đó, sự gia tăng của lao động tự làm việc trong ngành
19
nông nghiệp, các doanh nghiệp hộ gia đình và các hoạt động kinh tế phi chính thức ở khu
vực nông thôn, cùng với sự gia tăng của lao động làm các công việc sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ trong gia đình nhưng không hưởng tiền lương, tiền công làm cho tỷ lệ tham gia

LLLĐ ở khu vực nông thôn duy trì ở mức tương đối cao.
2. Tỷ lệ người trẻ tuổi trong lao động còn thấp
BẢNG 10. Số người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên
Đơn vị: Nghìn người
Năm Tổng số Thành thị Nông thôn
1996 34907,6 6463,6 28444,0
1997 34716,4 6858,9 27857,4
1998 36018,3 7222,4 28795,9
1999 35731,1 7923,8 27807,2
2000 36205,5 8185,9 28019,6
2001 37677,4 8718,9 28958,5
2002 39289,6 9195,5 30094,1
2003 39585,0 9533,6 30051,4
2004 40792,6 10140,7 30651,9
Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm 1996 đến 2004
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của cả nam và nữ ở nhóm tuổi 15-19, 20-24 và tỷ lệ tham gia
LLLĐ của nhóm tuổi 55-59, 60-64 giảm dần từ năm 1996 đến 2005 làm cho đường cung
lao động trong những năm gần đây có chiều hướng đi xuống. Khả năng có nhiều cơ hội
học tập, sự gia tăng của lao động làm công ăn lương, và độ tuổi về hưu được quy định chặt
chẽ hơn là những nhân tố tạo ra xu hướng giảm xuống của tỷ lệ tham gia LLLĐ trong
nhóm tuổi này.
Từ năm 1996 đến 2005, tỷ lệ tham gia LLLĐ của cả nam và nữ trong cả nước tăng
từ nhóm tuổi 15-19 đến 30-34, và sau đó có xu hướng giảm đi ở các nhóm tuổi tiếp theo.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam đạt mức cao nhất là 97-98% và của nữ là 90% ở nhóm tuổi
30-34.
Do nhóm tuổi từ 15-19 phần lớn đang ở thời kỳ học tập nên tỷ lệ tham gia LLLĐ ở
nhóm tuổi này thấp hơn nhiều so với nhóm tuổi 20-24. Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam và
nữ ở nhóm tuổi 15-19 giảm từ 52,7% và 58,4% năm 1996 xuống 35,8% và 35,1% năm
2005 do sự gia tăng cơ hội học hành của những người trong độ tuổi này. Sự gia tăng cơ hội
học hành cũng làm giảm khoảng 11% tỷ lệ tham gia LLLĐ của cả nam và nữ trong nhóm

tuổi 20-24 trên cả nước từ năm 1996 đến năm 2005.
20
Trong nhóm tuổi lao động chính là 25-54, tỷ lệ tham gia LLLĐ của nam duy trì ở
mức độ cao, từ 87% đến 97%, trong khi đó tỷ lệ này của nữ chỉ vào khoảng từ 75% đến
90%. Với tỷ lệ tham gia LLLĐ cao như vậy sẽ khó có cơ hội gia tăng thêm tỷ lệ tham gia
LLLĐ trong nhóm tuổi này.
Tỷ lệ tham gia LLLĐ của nhóm tuổi trên 60 giảm đáng kể. Năm 2005, tỷ lệ của
nam và nữ giảm xuống còn 79,88% và 57,37% trong nhóm tuổi 55-59 và 49,68% và
35,23% trong nhóm tuổi 60-64. Việc rút khỏi thị trường lao động của người đến tuổi về
hưu và người già đã làm giảm tỷ lệ tham gia LLLĐ của nhóm tuổi trên 65 xuống 16,74%
đối với nam và 10,24% đối với nữ.
3. Nguồn lao động ở nông thôn giàu tiềm năng nhưng chưa được quan tâm đúng
mức và sử dụng hợp lý.
Nông thôn Việt Nam là nơi cung cấp một số lượng lớn người lao động, hàng năm tỷ lệ
ngươi dân nông thôn lên thành phố sinh sống và lập nghiệp là rất lớn, điều này đã tạo ra
được nhưng tích cực nhât định trong việc cải thiện đời sống của người dân nông thôn, song
bên cạnh đó những mặt trái của việc di dân lên thành phố vẫn còn tồn tại. Đa số những
người dân lên thành phố chỉ là những người có trình độ thấp, không được qua đào tạo, và
phần lớn chỉ được sử dụng trong những công việc đòi hỏi sức khỏe của tay chân và cơ bắp.
Cách thức làm việc không khoa học, cùng với những hạn chế về trình độ đã khiến cho hiệu
quả công việc của những người lao động chưa cao và nó được biểu hiện ở năng suất lao
động và kết quả công việc.
Chất lượng thấp của nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn thể hiện qua tỷ lệ không
biết chữ là 4,79%, tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở là 34,59% và tốt nghiệp trung học
phổ thông là 11,18%. Nếu đánh giá trình độ văn hoá bình quân theo giới tính có thể thấy số
năm đi học văn hoá trung bình của khu vực nông thôn thấp hơn thành thị, của phụ nữ thấp
hơn nam giới. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người nông dân có
trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thông, mức tăng này là 11%.
Ngoài ra trình độ học vấn còn cho người lao động khả năng lĩnh hội những kiến thức, kinh
nghiệm sản xuất kinh doanh. Với chất lượng của NNL nông thôn Việt Nam như vậy sẽ hạn

chế họ trong sản xuất và kinh doanh, đặc biệt là tự tạo việc làm.
Những năm qua trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông thôn thay đổi
không đáng kể, tình trạng thu nhập thấp và thiếu việc làm ở nông thôn, trong lúc đó thu
21
nhập cao hơn ở các đô thị đã tăng sự dịch chuyển lao động, nhất là những lao động kỹ
thuật từ nông thôn tới các thành thị, và làm cho tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giảm từ
6,91% xuống còn 5,94%. Trong số 8 vùng nông thôn, những vùng có trình độ học vấn thấp
cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn thấp, vùng Tây
Bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41%.
NSLĐ nông nghiệp thấp còn vì lao động ở đây chủ yếu vẫn là lao động thủ công.
Khâu làm đất là khâu nặng nhọc nhất thì quá trình cơ giới hoá (CGH) diễn ra chậm, nếu
năm 1990 tỷ lệ cơ giới hoá là 21%, năm 1995 là 26% và năm 2007 là khoảng 30%. Một số
khâu khác như vận chuyển, ra hạt, bơm tát nước tỷ lệ CGH có sự cải thiện, như khâu ra hạt
hiện đã được CGH 80%. Tuy nhiên, việc CGH trong nông nghiệp gặp những khó khăn
nhất định, thứ nhất, quy mô ruộng đất vốn nhỏ lẻ, với bình quân ruộng đất ở đồng bằng
sông Hồng chỉ có 544m
2
, và miền Trung là 611m
2
, lại manh mún tạo việc sử dụng máy
móc cơ khí khó khăn và chi phí cao. Thứ hai, do chăn nuôi gia súc như trâu bò nhiều lên
làm cho nhu cầu sức kéo giảm. Thứ ba, yêu cầu hiện đại hoá mâu thuẫn với tình trạng lao
động dư thừa, nếu 1 ha đất làm thủ công cần 300 ngày công lao động sống, khi là máy chỉ
còn sử dụng 50 ngày công.
Phát triển nông thôn bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ
trương lớn của nước ta, nhằm nhấn mạnh đến việc sử dụng các nguồn nhân lực một cách
hiệu quả để thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển . Do vậy, các chính sách phát triển nông
thôn cần được xây dựng và thực hiện trên cơ sở kết hợp hài hoà và hợp lý giữa phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường một cách hài hoà.
Giải pháp cấp bách và là ưu tiên số một hiện nay là đào tạo nghề cho lao đông nông

thôn, họ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiên thức để đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế của đất nước. Bên cạnh đó, lao động trẻ nông thôn hiện nay không chỉ thiếu kiến
thức chuyên môn mà kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản thân còn nhiều
khiếm khuyết. Ở họ dạy nghề thôi chưa đủ mà cần đưa cả kỹ năng sống vào giảng dạy.
Những năm gần đây công tác dạy nghề đã có nhiều tiến triển, nhiều lao động đã ý
thức được việc học nghề và số người tham gia các khoá đào tạo tăng rõ rệt. Số lao động
qua đào tạo ngày càng tăng đã góp phần giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động
22
theo hướng giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động ngành nghề phi nông nghiệp và đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về lao động. Quy mô đào tạo dạy nghề trong những năm qua tăng
nhanh, chỉ tiêu đào tạo bình quân hàng năm tăng 20%. Quy mô tuyển sinh dạy nghề trong
3 năm - từ năm 2006 đến 2008 là 4,3 triệu người (năm 2008 là 1,54 triệu người), trong đó
lao động nông thôn chiếm 52%. Tuy nhiên, các ngành nghề nông - lâm - ngư nghiệp chỉ
chiếm 5% số học sinh. Số lao động nông thôn được học nghề ngắn hạn và sơ cấp nghề
bằng chính sách hỗ trợ theo Quyết định 81/2005/QĐ-TTg giai đoạn 2006-2008 là 990.000
người. Nhiều địa phương đã khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể
dạy nghề cho lao động nông thôn, nhất là lứa tuổi thanh niên nhằm phát triển các nghề
truyền thống. Bình quân hàng năm, các làng nghề đã đào tạo được thêm việc làm cho
khoảng 250.000 lao động. Riêng các cơ sở dạy nghề thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn trong 3 năm từ năm 2006-2008 đã tuyển sinh được 120.322 người, trong đó quy
mô tuyển sinh năm 2008 là 48.000 học sinh, lao động nông thôn chiếm trên 85%.
Không thể phủ nhận được những thành quả của công tác đào tạo nghề cho lao động
nông thôn mang lại. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận một thực tế là thời gian qua, số lượng
và chất lượng dạy nghề cho lao động nông thôn, đặc biệt là dạy nghề nông nghiệp cho lao
động nông thôn vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó, năng lực hệ thống các
trường đào tạo và dạy nghề còn nhiều hạn chế. Mạng lưới cơ sở dạy nghề nói chung tuy đã
phát triển nhưng lại tập trung chủ yếu ở vùng đô thị. Ở khu vực nông thôn và miền núi,
vùng sâu vùng xa, số lượng cơ sở dạy nghề rất ít. Đến nay, cả nước còn 253 huyện chưa có
trung tâm dạy nghề; 31% phòng học và 20,7% số nhà xưởng thực hành của các cơ sở dạy
nghề là nhà cấp 4, nhà tạm, tập trung chủ yếu ở các cơ sở đào tạo do địa phương quản lý,

các tỉnh khó khăn, huyện nghèo. Đội ngũ giáo viên dạy nghề cho lao động nông thôn còn
thiếu về số lượng, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế. Hiện
nay, có 42 trung tâm dạy nghề không có giáo viên cơ hữu; 39 trung tâm dạy nghề chỉ có 1
giáo viên cơ hữu; 100 trung tâm có từ 2-3 giáo viên cơ hữu. Ngoài ra, các cán bộ quản lý
dạy nghề ở một số cơ sở dạy nghề chưa đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, thiếu kinh
nghiệm quản lý.
4. Một số thực trạng khác về chất lượng của nguồn cung lao động Việt Nam.
a. Thực trạng chất lượng lao động theo trình độ học vấn và tay nghề
23
Ta có bảng số liệu số học sinh tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật (thời điểm 31/12 hàng năm)
Bảng 11: số liệu số học sinh tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và công nhân kỹ thuật
Đơn vị :người
Năm 2004 2005 2006 2007
Tổng số 27 339 40 698 35 358 29 144
1. Đại học (TW) 5 890 6 425 9 068 8 795
Trong đó: Dài hạn 3 579 4 604 4 881 4 725
2. Cao đẳng (TW) 4 054 2 612 2 481 3 773
Trong đó: Dài hạn 1 457 1 867 2 052 2 012
3. Trung học chuyên
nghiệp 9 845 16 934 10 842 10 509
Trong đó: Dài hạn 6 522 11 300 7 477 7 774
4. Công nhân kỹ thuật 7 466 14 580 12 967 6 067
Trong đó:-Dài hạn 1 569 2 616 1 577 1 056
Số liệu theo tổng cục thống kê
Qua những số liệu trên ta thấy học sinh tốt nghiệp cuả các trường tăng mạnh nhưng lại
có xu hướng giảm trong những năm gần đây đặc biệt là những trường trung học và công
nhân kỹ thuật (công nhân kỹ thuật năm 2004 tốt nghiệp là 7466, năm 2005 tăng mạnh lên
gần gấp đôi là 14,580, năm 2007 giảm xuống còn là 6,067). Một phần do yếu kém trong

khâu đào tạo chất lượng của các trường và sự phân bổ chưa hợp lý của nhà nước cho giáo
dục thời kỳ đó. Điều đó một phần cho thấy rằng chất lượng học sinh đầu ra đang được
quan tâm để tăng chất lượng lao động trong tương lai. Nhưng một điều nghịch lý là sinh
viên tốt nghiệp đại học qua các năm lại chiếm số lượng cao hơn sinh viên ở các trường cao
đẳng dậy nghề (năm 2006 tốt nghiệp đại học là 9,068 thì CNKT tốt nghiệp là12,967. năm
2007 tốt nghiệp đại học là 8,795, tốt nghiệp CNKT là 60,067). Như vậy đã xẩy ra hiện
tượng thừa thầy thiếu thợ nghiêm trọng trong sản xuất.Thực tế sản xuất ở các khu công
nghiệp ,các khu chế xuất hay các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài cho thấy rằng
trình độ lành nghề của công nhân tốt nghiệp cũng chưa đáp ứng được ngay yêu cầu của sản
xuất ,nhiều chủ doanh nghiệp ngay sau khi tuyển dụng lại phải tiếp tục bỏ tiền ra đào tạo
24
công nhân .Như vậy thì con số về quy mụ đào tạo chưa thực sự phản ánh được những thay
đổi trong hoạt động của các trường dạy nghề ,cần thiết phải xem xét đến cả chất lượng của
đào tạo ,chất lượng học sinh sau khi tốt nghiệp .
Theo điều tra của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, công nhân lao động trong cả nước
có trình độ tiểu học chiếm 3,7%, THCS là 14,7%, THPT là 76,6%, THCN và cao đẳng là
13,8%, đại học là 13,24%.
Theo đánh giá chung, trình độ tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân lao động
còn thấp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, năng suất lao động chưa đáp ứng yêu cầu.
Thậm chí một số khu công nghiệp vẫn còn công nhân lao động mù chữ và tái mù chữ. Vì
vậy đã có nghịch lý, các doanh nghiệp thiếu thị trường lao động kỹ thuật cao còn người lao
động lại thiếu việc làm. Mục tiêu đề ra, phấn đấu đến năm 2010 phải xoá mù chữ cho
công nhân lao động, phổ cập giáo dục tiểu học cho công nhân lao động vùng sâu, vùng xa,
tiến tới phổ cập trung học cơ sở cho công nhân lao động cả nước. Các khu công nghiệp,
thành phố lớn phấn đấu 95% công nhân lao động có trình dộ học vấn trung học phổ thông
trở lên, giảm tỷ lệ công nhân chưa qua đào tạo xuống còn 10% vào 2010.
Theo báo cáo tổng kết của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam về thực trạng trình độ,
học vấn, kỹ năng nghề nghiệp công nhân lao động hiện nay trong cả nước còn khá chênh
lệch, ở các vùng miền khu vực kinh tế. Tây Nguyên có tới 8,5% công nhân lao động có
trình độ tiểu học, còn bậc trung học phổ thông, ở Hà Nội là 76,4%, Tp.HCM là 35,79%,

Đồng Nai 38,9%, Tây Nguyên 49,8%. Thậm chí nhiều khu công nghiệp ở Tây Nguyên vẫn
còn nhiều công nhân lao động còn mù chữ và nhiều nơi công nhân lao động còn tái mù
chữ.
Mặt khác, do người sử dụng lao động yêu cầu tuyển chọn công nhân có trình độ từ
trung học cơ sở, nhưng thực tế họ mới học hết tiểu học và dở dang trung học cơ sở. Trình
độ học vấn thấp kéo theo trình độ chuyên môn của công nhân lao động còn thấp. Hà Nội tỷ
lệ công nhân lao động chưa qua đào tạo chuyên môn là 8,8%, Quảng Ninh là 14,5%, Điện
Biên 16,27%, Tây Nguyên là 63,3%, Đồng Nai 37,9% Tp.HCM là 52,5%. Công nhân lao
dộng có trình độ đại học ở Hà Nội là 34,5%, Tp.HCM là 35,1%, Quảng Ninh là 37% trong
khi Tây Nguyên chỉ đạt tới 6,7%. Trình độ công nhân thấp nhưng việc đầu tư và nâng cao
trình độ chuyên môn cho công nhân không được coi trọng. Theo khảo sát nghiên cứu của
25

×