Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Đề Tài Chiến Dịch Việt Bắc Thu-Đông Năm 1947.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1021.97 KB, 17 trang )

Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
----------

Đề tài:
CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU-ĐÔNG
NĂM 1947

GVHD: Giảng viên Lê Văn Đạt
SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang
MSSV: K37.602.104
Lớp: K37_Sử B
Môn: Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1
TP Hồ Chí Minh tháng 3 năm 2013

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

1


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

MỤC LỤC
Mở đầu..................................................................................................3


I. Âm mưu, kế hoạch tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp..........5
II. Chủ trương, kế hoạch của ta........................................................8
III. Diễn biến cuộc tấn công của địch và sự chiến đấu của quân
dân ta trong chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947...........................10
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc...........10
2. Quân dân ta chiến đấu chống đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc
của địch...............................................................................................12
* Giai đoạn 1: từ ngày 7-10-1947 đến ngày 20-11-1947................12
a) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận sơng Lơ-Chiêm
Hóa......................................................................................................13
b) Cuộc chiến đấu của qn và dân ta trên mặt trận Đường số 4.......15
c) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Đường số 3.......17
* Giai đoạn 2: từ ngày 21-11-1947 đến ngày 20-12-1947..............18

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

2


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

IV. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947.............................20
1. Kết quả của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947............................20
2. Ý nghĩa của chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947............................20
3. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của chiến dịch Việt
Bắc thu-đơng 1947..............................................................................21
V. Vai trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chiến dịch Việt Bắc

thu-đơng 1947....................................................................................23
Phụ lục.................................................................................................27
Tài liệu tham khảo...............................................................................35

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

3


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

MỞ ĐẦU
Việt Bắc là một vùng phía Bắc Hà Nội thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954)
bao trùm nhiều tỉnh ở Bắc Bộ. Ngày nay nó thường được hiểu là khu vực gồm 6 tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên hay còn được gọi tắt là
Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà.
Việt Bắc được gọi một cách văn hóa là Thủ đơ kháng chiến, bởi đây là nơi trú
đóng của đầu não Đảng Cộng sản Việt Nam thời trước khi khởi nghĩa năm 1945, và là
nơi trú đóng của đầu não chính phủ Việt Minh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
(1945 - 1954).
Việt Bắc là nơi có địa thế hiểm trở, hạn chế cả về cơ động, tầm quan sát lẫn khả
năng triển khai lực lượng lớn và phương tiện chiến đấu hiện đại, khi tiến công tiến hành
tác chiến lớn thì phải theo mùa.
Do đó đây là khu vực lãnh thổ có đầy đủ các yếu tố “địa lợi, nhân hịa”, nhất là có
cơ sở vững chắc về quân sự và chính trị, cơ sở quần chúng cách mạng vững chắc, đảm
bảo an toàn cho cán bộ và cơ quan lãnh đạo cách mạng hoạt động thuận lợi. Mặt khác,
đây còn là nơi cung cấp về sức mạnh vật chất, quân sự, nguồn cổ vũ về tinh thần, chính
trị trong cách mạng và kháng chiến. Vì vậy, trong cuộc chiến chống pháp, Việt Bắc đã trở

thành một căn cứ địa chính của cả nước (trong Cách mạng tháng Tám và kháng chiến
chống Pháp).
Cũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), An toàn khu (ATK) cũng
đã được xây dựng sâu trong căn cứ địa Việt Bắc (An tồn khu Trung ương). An tồn khu
khơng chỉ là nơi bảo vệ cơ quan lãnh đạo, lực lượng cách mạng, kháng chiến mà còn là
nơi thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thấy được vị trí, vai trò quan trọng của căn cứ địa Việt Bắc Chính phủ Ramađiê
đã quyết định cử Bơlae sang làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ (31947). Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt
đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên lạc quốc tế của ta.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

4


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, hay Chiến dịch Léa theo cách gọi của
người Pháp, là một chiến dịch quân sự do quân đội Pháp thực hiện tại Việt Nam trong
Chiến tranh Đông Dương. Chiến dịch này được xem là chiến thắng lớn đầu tiên của phe
Việt Minh trong cuộc chiến, làm chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp bị
phá sản hoàn toàn. Nó cũng đã ghi dấu thất bại của Pháp trong việc tiêu diệt đầu não
kháng chiến và quân chủ lực của Việt Minh ta.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

5



Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

I. Âm mưu, kế hoạch tấn công Việt Bắc của thực dân Pháp
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, với danh nghĩa Đồng minh vào giải
giáp quân Nhật, quân đội Anh đã vào chiếm đóng và giúp quân Pháp quay trở lại xâm
lược Việt Nam. Vụ nổ súng gây hấn ở Sài Gòn ngày 23 tháng 9 năm 1945 là màn mở đầu
của cuộc chiến tranh xâm lược lại nước Việt Nam do thực dân Pháp tiến hành.
Cùng thời gian đó, 18 vạn quân Tưởng tràn vào miền Bắc, kéo theo bè lũ tay sai
phản động hịng bóp chết nền Dân chủ Cộng hịa trẻ tuổi của chúng ta. Trước tình hình
nguy ngập của vận nước, Đảng ra chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25-11-1945) vạch
ra kẻ thù chính của nhân dân Đơng Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập
trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Nhưng trong tình hình phức tạp, một lúc phải chống chọi với nhiều kẻ thù bên
ngoài và bên trong, Đảng đề ra sách lược đấu tranh sáng suốt nhằm bảo toàn lực
lượng, tranh thủ thời gian để chuẩn bị tích cực cho cuộc chiến đấu sắp tới. Thực hiện
sách lược "Hòa để tiến", Hồ Chủ Tịch đã ký với Pháp bản Hiệp định sơ bộ (6-3-1946)
đuổi Tưởng về nước. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí với đại diện Chính phủ Pháp
một bản Tạm ước (14-9-1946) để tiếp tục tranh thủ thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến chống Pháp chắc chắn sẽ nổ ra.
Đảng nhận định khơng sớm thì muộn Pháp sẽ đánh ta và ta nhất định phải đánh
Pháp. Cho nên mọi việc chuẩn bị phải được tiến hành tích cực, kịp thời và chu đáo.
Đầu tháng 11-1946, Hồ Chủ tịch viết bài "Công việc khẩn cấp bây giờ" đặt nền móng
tư tưởng chỉ đạo đường lối kháng chiến trong cả nước.
Từ cuối tháng 11, giặc Pháp càng lộ rõ thái độ hiếu chiến. Đầu tháng 12, giặc
Pháp càng khiêu khích trắng trợn. Do đó tối ngày 19-12-1946, thay mặt Trung ương
Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Hưởng ứng lời kêu gọi đó, quân và dân ta đã đứng lên chống Pháp. Cuộc chiến đấu

anh dũng của quân dân ta đã giam chân địch, ngăn chặn bước tiến của chúng, tạo thời
cơ thuận lợi cho việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

6


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Sau 3 tháng kháng chiến lan rộng ra toàn quốc, Pháp bắt đầu lúng túng trong
chiến lược “Đánh nhanh, thắng nhanh” của mình, gặp nhiều khó khăn trên nhiều lĩnh
vực khác nhau: kinh tế, chính trị, xã hội, do đó mà chúng muốn nhanh chóng kết thúc
chiến tranh.
Sau khi có thêm viện binh chúng đã mở rộng vùng chiếm đóng ở đồng bằng
Bắc Bộ, vùng Tây Bắc và dun hải Đơng Bắc.
Tháng 3-1947, Chính phủ Ramađiê đã quyết định cử Bôlae (Bollaert) sang làm
Cao ủy Pháp ở Đông Dương, thay Đácgiăngliơ (D’Argenlieu) để thực hiện âm mưu mới
của Pháp là tập hợp lực lượng dựng lên một chính quyền bù nhìn, đẩy mạnh hoạt động
qn sự nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Bôlae
tuyên bố không công nhận Việt Nam độc lập thống nhất, khơng cơng nhận Chính phủ Hồ
Chí Minh là đại diện chân chính của nhân dân Việt Nam.
Tướng Salan được Chính phủ Pháp cử sang Bắc kỳ thay thế đại tá Dèbes trong
chức vụ Chỉ huy quân lực Pháp ở Bắc Đông Dương. Tướng Valluy vẫn giữ chức Chỉ huy
tối cao quân đội viễn chinh thay thế Leclerc từ hồi tháng 6-1946.
Tướng Valuy (Valluy)–Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương đã giao cho
tướng Salăng (Salan)–Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Đông Dương gấp rút chuẩn bị “Kế
hoạch tấn công Việt Bắc”. Valuy và Salăng nghiên cứu một cuộc hành quân đại quy mô

vào vùng Việt Bắc mục đích phá vỡ các tổ chức quân sự dân sự của Việt minh, lùng bắt
chính phủ Hồ Chí Minh và đặt các căn cứ kiểm sốt vùng biên giới Hoa - Việt.
Sau khi chiếm vùng đồng bằng Bắc Bộ và các đô thị lớn tại miền Bắc, theo chiến
lược "Đánh nhanh thắng nhanh", quân Pháp mở cuộc tấn công mới lên chiến khu Việt
Bắc nhằm tiêu diệt đầu não kháng chiến của Việt Minh đang đóng tại đây, hồn tất việc
tái chiếm Đơng Dương. Kế hoạch tiến công lên Việt Bắc của quân đội Pháp, do tướng
Salăng vạch ra, được Chính phủ Pháp phê chuẩn tháng 7-1947 nhằm tiêu diệt cơ quan
đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ lực của ta, phá hoại kho tàng, xưởng máy, bao
vây và khóa chặt biên giới, cố giành một thắng lợi về quân sự để tập hợp lực lượng phản
động lập chính phủ bù nhìn tay sai và hi vọng kết thúc chiến tranh.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

7


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Kế hoạch tấn công dự kiến chia làm hai bước, bước một mang mật danh Lêa
(Léa), mục tiêu đánh chiếm là khu tam giác Bắc Cạn – Chợ Đồn – Chợ Mới. Bước tiếp
theo mang mật danh Xanhtuy, tức là “Siết chặt vành đai”, quân Pháp sẽ tập trung lực
lượng càn quét khu tam giác Bắc Cạn - Chợ Chu – Chợ Mới, lấy vùng Chợ Chu làm mục
tiêu trọng điểm.
Lực lượng Pháp tham gia tiến công trên 15 nghìn qn, bao gồm:
Năm trung đồn bộ binh: Trung đoàn Ma-rốc số 6 (6eRTM), trung đoàn bộ binh
thuộc địa Ma-rốc (RICM), trung đoàn bộ binh thuộc địa số 4 (4e - RIC), trung đoàn bộ
binh Lê dương số 3 (3e REI) và một trung đồn do Cơ-xtơ (Coste) chỉ huy.
Ba tiểu đoàn dù, hai tiểu đoàn pháo binh, hai tiểu đồn cơng binh, ba đại đội cơ

giới.
Hai phi đội với 40 máy bay, ba thuỷ đội xung kích với 40 tàu, xuồng.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

8


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

II. Chủ trương, kế hoạch của ta
Từ đầu mùa thu 1947, việc chuẩn bị đối phó với một cuộc tiến cơng lớn có thể xảy
ra bất cứ lúc nào đã được xúc tiến.
Trước những thái độ ngang ngược của thực dân Pháp, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã chỉ thị “Mọi lực lượng của dân tộc ta phải động viên vào việc chống mưu mô
“dùng người Việt trị người Việt” của thực dân Pháp và sửa soạn đối phó những cuộc tấn
cơng lớn của địch trong những tháng tới”. Khẩu hiệu của dân tộc ta lúc này là “Tất cả cho
mặt trận, tất cả của chiến thắng”. Bộ Tổng chỉ huy quân đội ta dự đoán: Bắc Bộ sẽ là
chiến trường chính, nếu địch mạo hiểm thì chúng sẽ đánh Việt Bắc. Chiến lược của địch
là “đánh nhanh, thắng nhanh”, nhằm mau chóng kết thúc chiến tranh.
Ngày 15-9-1947, Hội nghị quân sự lần thứ tư và sau đó mười ngày, Hội nghị quân
sự lần thứ 5 được triệu tập liên tiếp để nhận định âm mưu địch, phán đốn hướng tiến
cơng của chúng và đề ra chủ trương, kế hoạch đối phó của ta.
Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá cuộc tấn công
mùa đông của giặc Pháp”. Chỉ thị được công bố, bản chỉ thị chỉ rõ: “Địch yếu phải mạo
hiểm”… “Cuộc tấn công này chỉ ào ạt lúc đầu”. Về cách đánh, ta sẽ dùng lực lượng nhỏ
đánh địch vận động trên bộ, bẻ gãy từng gọng kìm của địch.
Lực lượng quân đội của ta trên toàn quốc thời gian này có 105.990 người (Bắc Bộ

có 45.802 người), biên chế thành 20 trung đồn, có hai trung đồn 147 và 165 của Bộ và
nhiều tiểu đoàn độc lập của khu và của Bộ. Trang bị thiếu thốn và không thống nhất, có
gì dùng nấy. Một tiểu đồn thường chỉ được trang bị tương đương với 1 đại đội của Pháp,
với 2 đại liên, 1-2 súng cối 60mm, tám trung liên, 140 đến 160 súng trường đủ các kiểu
(Nhật, Nga, Pháp). Chỉ có một số tiểu đồn của Bộ là có pháo 20mm, trọng liên 13,2 mm,
12,7 mm và súng cối 81mm.
Bộ đội và cán bộ chỉ huy các cấp chưa được huấn luyện thành thục về kỹ thuật,
chiến thuật. Trình độ và khả năng chiến đấu giữa các đơn vị không đồng đều. Trừ Trung
đồn Thủ đơ và Trung đồn Lạng Sơn đã được thử thách qua chiến đấu, phần lớn các đơn
vị cịn lại chưa hề qua chiến đấu, trình độ kỹ chiến thuật của bộ đội, trình độ tổ chức chỉ
huy của cán bộ, tình hình trang bị khơng cho phép tiến hành những trận đánh lớn. Các
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

9


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

binh chủng pháo binh, công binh chưa được tổ chức thành đơn vị. Phương tiện thông tin
liên lạc và vận tải thiếu nhiều, chủ yếu là liên lạc chạy bộ. Chỉ có Bộ, Khu và trung đồn
là có vơ tuyến điện, từ tiểu đồn trở xuống liên lạc bằng chạy chân và tín hiệu thủ cơng.
Cung cấp, tiếp tế hậu cần rất khó khăn, chủ yếu dựa vào chính quyền và nhân dân địa
phương. Điểm mạnh duy nhất là tinh thần chiến đấu, khả năng chịu đựng gian khổ hy
sinh của bộ đội và sự hỗ trợ, đùm bọc của nhân dân địa phương.
Riêng trên địa bàn chiến dịch, Việt Minh có 7 trung đồn bộ binh, tổng cộng 18
tiểu đồn chủ lực (trong đó có hai tiểu đoàn của Bộ), 30 đại đội độc lập, 4.228 dân qn
du kích tập trung; ngồi ra cịn có lực lượng tự vệ của các thị xã, thị trấn, công xưởng
trên tồn Qn khu Việt Bắc. Pháo binh chỉ có tất cả là bốn khẩu (ba khẩu sơn pháo

75mm, một khẩu 70mm). Phịng khơng có hai pháo 20mm, hai khẩu 13,2 mm và sáu
khẩu 12,7 mm.
Chiến dịch do Bộ Tổng chỉ huy trực tiếp chỉ huy, Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy
trưởng. Sở chỉ huy cơ bản ở Yên Thông; đến chiều 20 tháng 10 năm 1947, chuyển sang
Tràng Xá (Thái Nguyên). Giai đoạn 2 chuyển về vùng Lục Rã, Quảng Nạp.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

10


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

III. Diễn biến cuộc tấn công của địch và sự chiến đấu của quân dân
ta trong chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc
Theo kế hoạch tiến công lên Việt Bắc do tướng Salăng vạch ra, Pháp huy động
12.000 quân cùng với hầu hết máy bay ở Đông Dương do tướng Valuy chỉ huy, mở một
cuộc hành quân tiến công Việt Bắc mang mật danh Lêa từ ngày 7-10-1947.
Rạng sáng ngày 7-10-1947, binh đoàn quân dù do Sôvannhắc chỉ huy đổ quân
xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn. Cùng ngày, binh đoàn bộ binh
do Bôphơrê (Beaufré) chỉ huy từ Lạng Sơn, ngược Đường số 4 lên Na Sầm, Thất Khê,
đánh lên Cao Bằng rồi vòng xuống Bắc Kạn, theo Đường số 3 bao vây Việt Bắc ở phía
Đơng và phía Bắc.
Va-luy đã lầm lẫn lớn khi cho rằng thị xã Bắc Kạn là “Thủ đô mới” của Việt
Minh. Va-luy không hề biết rằng, trong suốt chiến tranh, khơng khi nào có cơ quan Trung
ương Việt Minh nào ở tại một thị xã, thị trấn, mà tất cả đã chia thành những bộ phận nhỏ,
thường xuyên di chuyển, được sự che chở của nhân dân, nếu một bộ phận bị phá thì vẫn

có những bộ phận khác thay thế.
Khi quân Pháp nhảy dù tập hậu, lực lượng Việt Minh ở thị xã Bắc Cạn chỉ có một
bộ phận của tiểu đồn 49, Trường võ bị Trần Quốc Tuấn lúc này cũng chỉ có một tiểu
đoàn tân binh. Hai đơn vị nhỏ này chủ yếu nổ súng để bảo vệ cho nhân dân và một số cơ
quan đóng ở đây tản cư rút vào rừng núi an toàn. Pháp phá được xưởng in tiền và công
binh xưởng, một số kho tàng và thu được 10 triệu bạc Việt Nam của Ty Ngân khố, nhưng
còn quá xa so với mục tiêu “phá huỷ tiềm năng chiến tranh của Việt Minh” mà Pháp đề
ra.
Salăng coi cuộc hành binh Lêa ngày 7-10-1947 là một đòn quyết định “đánh thẳng
vào tim kẻ thù”. Ông ta ngồi trên máy bay trực tiếp thị sát cuộc nhảy dù xuống thị xã Bắc
Cạn. Lúc 11 giờ 35 phút, Sôvanhắc (Sauvagnac) từ mặt đất báo cáo qua vơ tuyến điện:
“Ơng Hồ Chí Minh bị bắt đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh”. Salăng vội bay về Hà Nội
báo tin mừng với Sài Gịn. Cao uỷ Bơlae và quyền tổng chỉ huy Battet bay ngay ra Hà
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

11


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Nội. Nhưng ít giờ sau, Salăng đã biết mình lầm, đành phải xin lỗi. Hai quan chức trên
quay về Sài Gòn sau khi đã trách mắng Salăng nặng nề... Thực chất hơm ấy, lính dù bắt
được một cụ già chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược nên
tưởng lầm. Đó là cụ Nguyễn Văn Tố, Trưởng ban Thường trực Quốc hội. Lúc biết khơng
phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, qn Pháp đã bắn chết khi cụ Tố tìm cách chạy trốn.
Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp gồm bộ binh và lính thủy đánh bộ do
Commuynan (Communal) chỉ huy, từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên
Quang, đến Chiêm Hóa, đánh vào Đài Thị, bao vây Việt Bắc ở phía Tây.


2. Quân dân ta chiến đấu chống đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của
địch
 Giai đoạn 1: từ ngày 7-10-1947 đến ngày 20-11-1947
Từ ngày 8 tháng 10, các đại đội độc lập cùng quân dân du kích liên tiếp tập kích,
quấy rối các vị trí Chợ Đồn, Ngân Sơn, Chợ Rã, diệt hai trung đội Pháp. Đại đội bảo vệ
15 (đơn vị tiền thân của Bộ tư lệnh Cảnh vệ-Bộ Nội vụ và Lữ đoàn cận vệ 144-Bộ Quốc
phịng sau này) bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ và các cơ quan Trung ương khẩn
trương sơ tán đến nơi an toàn.
Ngày 9 tháng 10, khẩu đội 12,7 mm của đại đội 675 trung đồn 74 bố trí ở đồi
Thiên Văn, thị xã Cao Bằng bắn rơi chiếc máy bay vận tải Junker Ju 52 chở sĩ quan tham
mưu chiến dịch Pháp đi thị sát chiến trường, 12 sĩ quan tham mưu, trong đó có Lambert,
đại tá, phó tham mưu trưởng quân Pháp ở Đông Dương thiệt mạng. Việt Minh thu được
bản kế hoạch tiến công Việt Bắc. Chiến sĩ liên lạc Nguyễn Danh Lộc của trung đoàn đã
chạy bộ, vượt rừng, mang “bản kế hoạch tiến công Việt Bắc” về cho Bộ Tổng chỉ huy.
Ngày 13 tháng 10, Bộ Tổng chỉ huy đã khẩn trương điều chỉnh, tổ chức lại lực
lượng. Lực lượng gồm các tiểu đoàn chủ lực của Bộ và khu.
Ngày 15-10-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải phá cuộc tấn công
mùa đông của giặc Pháp”. Kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Tình hình cực

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

12


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

kỳ rối ren về chính trị ở Pháp và phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa đã dẫn Pháp

đến chỗ muốn sớm kết thúc chiến tranh Đông Dương. Chúng chỉ tiến công ồ ạt lúc đầu.
Nếu ta thực hiện được đánh địch khắp nơi, buộc chúng dàn mỏng lực lượng đối phó,
chúng sẽ thất bại. Ta giữ gìn được chủ lực qua mùa đơng này là coi như thắng lợi. Nếu
chuyến này không thắng nhanh để kết thúc chiến tranh thì cục diện sẽ đổi mới có lợi cho
ta”.
Chỉ thị nêu rõ: Ta cần phải giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm, bao
vây những căn cứ đó… Chặt đứt giao thơng liên lạc giữa các cứ điểm của địch, không
cho chúng tiếp ứng và tiếp tế… Phải giữ gìn lực lượng, nhưng đồng thời cũng phải nhằm
những chỗ yếu của địch đánh những trận vang dội, những trận tiêu diệt…
Nhiệm vụ của quân và dân Việt Bắc và cả nước là “làm cho địch thiệt hại nặng để
không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”… “bắt địch chuyển sang thế thủ”.
Cùng ngày 15, Bộ Tổng chỉ huy ra Huấn lệnh ĐB/101 nêu những nguyên tắc mới
về tổ chức bộ đội và bố trí lực lượng, về nhiệm vụ của các đại đội độc lập và tiểu đoàn
tập trung.
Cũng trong ngày 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quân và dân Việt Bắc
ra sức đánh bại cuộc hành binh của địch, quân dân cả nước tích cực đánh địch để phối
hợp với Việt Nam. Bác Hồ viết: “Địch hội quân ở Bắc Kạn tạo thành cái ô bọc lấy Việt
Bắc, rồi cụp ô xuống, dưới đánh lên, trên đánh xuống, phá cho được cơ quan đầu não của
kháng chiến… Chúng mạnh ở hai gọng kìm, gọng kìm mà gãy, thì cái ơ cụp xuống sẽ
thành ơ rách và cuộc tiến công thất bại”.
Nghiên cứu thế và lực của ta và địch trên chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy quyết
định tập trung lực lượng đánh địch trên ba mặt trận: mặt trận sơng Lơ-Chiêm Hóa; mặt
trận Đường số 4 và mặt trận Đường số 3.
Ở Mặt trận Sông Lô-Chiêm Hóa, Trung đồn chủ lực của Khu 10 và một tiểu đồn
chủ lực của Bộ, có nhiệm vụ đánh địch trên sơng Lơ, đoạn từ Việt Trì đến Tun Quang;
Trung đoàn 147 và 2 tiểu đoàn chủ lực Bộ bố trí ở phía nam đường liên tỉnh Tuyên
Quang-Thái Nguyên.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104


13


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Ở Mặt trận Đường số 3, Trung đoàn 121 để lại tiểu đoàn 25 làm nhiệm vụ cơ
động, lực lượng còn lại phân tán thành 7 đại đội, hoạt động trên các địa bàn trọng điểm
Thái Nguyên, Vĩnh Yên và Phúc Yên; đồng thời sử dụng các đại đội khác bố trí ở các
huyện Đơng Anh, Đa Phúc, Kim Anh, Yên Lãng, Phú Bình, Võ Nhai, Chợ Chu, Đại Từ,
Đồng Hỷ. Trung đoàn 72 để lại Tiểu đồn 25, lực lượng cịn lại phân tán thành 5 đại đội
bố trí ở Chợ Đồng, Chợ Rã, Ngân Sơn. Trung đồn 165 được tăng cường Tiểu đồn 11
bố trí ở các huyên Chợ Rã, Chợ Đồn và thị xã Bắc Kạn.
Trên Mặt trận đường số 4, Trung đoàn 74 để lại Tiểu đồn 73 cơ động, cịn lại 6
đại đội được bố trí ở các huyện Ngun Bình, Sóc Giang, Hịa An, Quảng Ngun, Phục
Hịa, Đơng Khê. Trung đồn 11 để lại Tiểu đoàn 374 làm nhiệm vụ cơ động, hai tiểu
đồn cịn lại phân thành 6 đại đội về hoạt động ở các huyện Thất Khê, Na Sầm, Đồng
Đăng, Điềm He, Lộc Bình và Đồng Mỏ. Với tổng số khoảng 20 tiểu đoàn bộ binh và
pháo binh tập trung triển khai lực lượng, hình thành các mặt trận trên ba hướng chiến
dịch, không những ta tránh được chỗ mạnh của địch mà cịn từng bước vơ hiệu hóa, trước
hết là hướng Tây (Sông Lô-đường số 2), tiến tới bẻ gãy từng gọng kìm, phá thế hợp vây
tiến cơng Việt Bắc bằng hai gọng kìm của địch.
Nhận rõ chỗ yếu chí mạng của Pháp là vấn đề bảo đảm hậu cần, Bộ Tổng chỉ huy
chủ trương “Đánh mạnh ở Mặt trận Sông Lô và đường 4, phá giao thông vận tải tiếp tế
của địch, kết hợp chặt việc phát động nhân dân làm vườn không nhà trống, triệt nguồn
tiếp tế tại chỗ của địch”.

a) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận sơng Lơ-Chiêm Hóa
Mặt trận sơng Lơ-Chiêm Hóa do Trần Tử Bình và Tạ Xn Thu chỉ đạo. Có

nhiệm vụ đánh quân thủy, bộ vận động, ngăn chặn tăng viện tiếp tế, tiến tới bẻ gãy gọng
kìm của địch phía tây. Pháo binh thực hiện nghi binh, cơ động linh hoạt, bố trí sát bờ
sơng.
Ngày 10 tháng 10 năm 1947, trên sông Hồng đoạn từ Hà Nội đến Sơn Tây xuất
hiện một đoàn tàu chiến 35 chiếc ngược dịng sơng, trên trời máy bay quan sát yểm hộ.

Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

14


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

Đoàn tàu chiến ấy là binh đoàn Commuynan theo đường thủy tiến lên bao vây khu căn cứ
địa Việt Bắc về phía tây.
16 giờ ngày 12-10-1947, tốp tàu chiến đầu tiên của quân Pháp đi vào khu vực
Bình Ca. Tổ Badơca của tiểu đội trưởng Trần Chất do trung đội trưởng Vũ Phương chỉ
huy nổ súng. Đây là tàu đổ bộ loại nhỏ dài 11 mét; trọng tải 15 tấn, chở được một trung
đội, được trang bị một pháo 20mm. Tàu địch nghiêng ngả bốc cháy, đó là chiếc tàu địch
đầu tiên bị bắn chìm trên sơng Lô (sau này Tuyên Quang đã trục vớt chiếc tàu đắm, các
chiến lợi phẩm thu được hiện còn trưng bày tại Bảo tàng Tuyên Quang). Ngày 13 tháng
10, khi địch đổ bộ lên bến Bình Ca, chúng lọt vào trận địa phục kích của ta. Qn ta giật
bom mìn, đồng loạt nổ súng, ném lựu đạn tiêu diệt 20 tên địch, đánh lui cuộc đổ bộ của
quân Pháp vào Bình Ca.
Đồng chí Song Hào khi ấy là chính ủy Khu 10 đã viết trong hồi ký: “Chiến thắng
Bình Ca đã báo hiệu một sự chuyển biến mới về tình hình chiến cuộc. Qn Pháp khơng
cịn có thể bình n vơ sự tiến vào Khu 10 như vào đất không người nữa”.
Chiến thắng Bình Ca cịn có ý nghĩa bảo vệ cửa ngõ phía tây của An tồn khu

(ATK) nơi Bác Hồ và Trung ương Đảng, Chính phủ lãnh đạo kháng chiến.
“Trận Bình Ca, Tiểu đồn 42 đã đánh lui một trận đổ bộ của giặc, xung phong
cướp súng, bắn chìm pháo thuyền, ghi một chiến công đầu tiên, mở đầu cho những chiến
công rực rỡ khác trên sông Lô” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Trưa ngày 23-10, hai tàu vận tải địch chở đầy quân ngược sông Lô lọt vào trận địa
của trung đội 175 sơn pháo cơ động đặt ở bờ sông làng Khoan Bộ. Trung đội trưởng
Nông Văn Cờ chỉ huy trung đội bắn bảy viên đạn nổ trên khơng vào phía tàu địch. Tuy
tàu địch chưa bị chìm, nhưng cách đánh gần của pháo binh ta trong trận Khoan Bộ bước
đầu đã có kết quả.
Trưa ngày 24-10-1947, một đoàn tàu Pháp năm chiếc từ Tuyên Quang xuống đến
Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của Trung đội pháo binh Xuân Canh (Trung đội
Pháo đài Xuân Canh-Hà Nội 12-1946) và Trung đội Lục tỉnh. Khi tàu chiến Pháp đổ bộ
lên bờ sơng thì bị bộ đội Việt Minh phục kích bằng vũ khí hạng nặng (như sơn pháo,
Bazoka...), bị bắn chìm tại chỗ hai chiếc, tồn bộ qn Pháp trên tàu chết đuối; bắn hỏng
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

15


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947

Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

nặng hai chiếc khác. Chiếc còn lại quay đầu về Tuyên Quang. Sau trận này, tuyến đường
sông Lô bị cắt 10 ngày, Pháp phải thả dù tiếp tế cho Tun Quang và Chiêm Hố. Báo
chí Pháp gọi đây là “Thảm hoạ Đoan Hùng”. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp gửi điện cho
Khu 10 biểu dương chiến công xuất sắc của Pháo binh sông Lô và ra lệnh đưa pháo lên
đánh địch trên sông Gâm, bức địch rút khỏi Chiêm Hóa.
Đồng chí Dỗn Tuế nhận nhiệm vụ do đồng chí Vũ Hiển đưa trung đội sơn pháo
vừa chiến thắng ở Đoan Hùng lên bố trí phục kích gần ngã ba sơng Gâm-sơng Lơ, nơi

dịng sơng hẹp, nước sâu chảy xiết, hai bờ rậm rạp cỏ lau. Trận đánh mang tên là trận
Khe Lau. Ngày 10-11-1947, với 10 viên đạn pháo, ta đã bắn đắm 4 trong số 5 tàu địch,
thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có 2 khẩu lựu pháo 105.
Các trận đánh thắng giịn giã của Pháo binh sơng Lơ bắn chìm bắn hỏng nặng tàu
chiến, tàu vận tải của địch đã góp phần quyết định bẻ gãy gọng kìm phía tây của cuộc
hành binh của địch lên Việt Bắc.

Tải bản FULL (35 trang): />Dự phòng: fb.com/KhoTaiLieuAZ

b) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Đường số 4
Mặt trận Đường số 4 do Võ Nguyên Giáp trực tiếp theo dõi, chỉ đạo. Quân dân ta
đã phục kích chặn đánh địch ở đèo Bơng Lau ngày 30-10-1947, đánh trúng đồn xe cơ
giới của địch, thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng của chúng. Đường số 4 trở thành
“con đường chết”, địch ở vào thế bị động.
Trận phục kích địch ở Bản Sao-đèo Bơng Lau, do Tiểu đồn 249, Trung đồn 28
Lạng Sơn và các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích tiến hành ngày 30-10-1947
là trận phục kích đầu tiên trên Đường số 4, góp phần đánh bại cuộc tiến công của quân
đội Pháp lên Việt Bắc trong Thu-Đơng 1947. Ban chỉ huy tiểu đồn đã nghiên cứu kỹ địa
hình, chọn trận địa phục kích ở đoạn Bản Sao–đèo Bơng Lau (dài khoảng 2km), địa hình
hiểm trở, đường độc đạo.
Lực lượng tham gia trận đánh được chia thành 5 bộ phận. Bộ phận chính gồm Đại
đội 184 và Đại đội 185, được tăng cường một tiểu đội công binh đánh mìn, một khẩu badơ-ca, hai khẩu trung liên, bố trí ở đơng bắc điểm cao 420 trên dãy Khau Gia, có nhiệm
vụ tiêu diệt lực lượng chủ yếu của địch trong khu vực tác chiến. Đại đội 186 được tăng
Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

16


Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947


Lịch sử Việt Nam hiện đại học phần 1

cường một khẩu trung liên, bố trí ở đông đường số 4, tây điểm cao 480, đối diện với bộ
phận chính, có nhiệm vụ sẵn sàng tiêu diệt địch nếu chúng chạy xuống khe suối. Bộ phận
chặn đầu, gồm một trung đội bộ đội địa phương Thất Khê, được tăng cường một khẩu
trung liên, bố trí ở sườn tây điểm cao 420, có nhiệm vụ tiêu diệt bộ phận địch đi đầu,
chặn đứng đội hình xe của địch khơng cho chúng chạy thốt về Thất Khê và chặn đánh
quân tiếp viện từ Thất Khê lên. Bộ phận khóa đi gồm một trung đội bộ đội địa phương
Thất Khê, bố trí ở sườn đơng-nam điểm cao 459 trên bình độ 200, có nhiệm vụ tiêu diệt
địch ở cuối trận địa, chặn không cho địch chạy về Đông Khê, chặn đánh quân tiếp viện từ
Đông Khê xuống. Về hỏa lực, ta bố trí đại liên ở sườn tây nam điểm cao 480, cách vị trí
chỉ huy của tiểu đồn 20m; cối 60mm đặt ở sườn bắc điểm cao 420, có nhiệm vụ tiêu diệt
địch trong khu vực trận địa chính và chi viện cho các hướng khác khi có lệnh. Đến 5 giờ
sáng ngày 30-10-1947, các lực lượng và vũ khí đã sẵn sàng.
Lúc 17 giờ, đồn xe 33 chiếc của quân đội Pháp vận chuyển binh lính, vũ khí trang
bị từ Cao Bằng về Lạng Sơn đã lọt vào trận địa phục kích. Khoảng cách giữa các xe từ 7
đến 8 mét; chỉ huy tiểu đoàn phát lệnh chiến đấu. Bị đánh bất ngờ, cả đoàn xe địch bị dồn
lại, lính trên xe nhảy xuống đường, xơ nhau chạy tán loạn, một số chui vào gầm xe để
tránh đạn. Cùng lúc đó, đại liên, trung liên, cối 60mm của ta từ hai bên sườn núi bắn dồn
dập vào đội hình địch.
Trận đánh thắng lợi, đạt hiệu suất chiến đấu cao. Ta tiêu diệt gọn một đoàn xe cơ
giới của địch, phá hủy 27 xe, diệt 94 tên, bắt sống 101 tên, thu 600 chiếc dù và toàn bộ vũ
khí trang bị.
Kinh nghiệm đánh hai trận Sơng Lơ và Bơng Lau nhanh chóng được phổ biến trên
tồn chiến trường Việt Bắc, mở đầu cho hàng loạt trận phục kích lớn sau này. Bộ Tổng
chỉ huy quyết định tặng danh hiệu “Tiểu đồn Bơng Lau” cho tiểu đồn 374.

c) Cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên mặt trận Đường số 3
Ở mặt trận Đường số 3, lúc đầu ta có phần bị bất ngờ về chiến thuật của địch, nên
gặp một số tổn thất, nhưng khi địch vừa nhảy dù, bộ đội và dân quân du kích đã đổ ra


Nguyễn Thị Thùy Trang-K37.602.104

17
4145605



×