Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Cty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.88 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
Trang
Mục lục 1
Lời nói đầu 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRONG NÔNG NGHIỆP
7
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước trong nông
nghiệp
7
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp 8
1.2. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp 8
2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và Công ty cổ phần 10
2.1. Khái niệm cổ phần hoá 10
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần 11
3. Những đặc điểm cơ bản của cổ phần hoá trong nông nghiệp 11
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ trọng lớn
trong giá trị doanh nghiệp
12
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém hiệu
quả đời sống của cán bộ công nhân còn gặp nhiều khó khăn
12
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học 13
4. Sự cần thiết cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp 13
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức trong và ngoài nước
để phát triển kinh tế
16
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp 17
4.3. Nâng cao tiềm lực kinh tế Nhà nước 17
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước
trong nông nghiệp


18
4.5. Tạo động lực mới trong quản lí doanh nghiệp 18
5. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá và
quá trình thực hiện
19
5.1. Những chủ trương chính sách 19
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện 29
6. Kinh nghiệm cổ phần hoá ở một số nước trên thế giới 35
6.1. CPH ở Trung Quốc 35
6.2. CPH ở các nước ASEAN 37
6.3. Những kinh nghiệm quốc tế về CPH có thể áp dụng trong việc thực hiện CPH
DNNN chế biến thực phẩm xuất khẩu
38
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG TY
THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
40
I. Chủ trương của Tỉnh về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 40
1. Mục tiêu của tỉnh Bắc Giang về sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước 40
Trang 1
trên địa bàn Tỉnh quản lý
2. Những biện pháp thực hiện 41
II. Quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc
Giang
43
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 43
1.1. Quá trình hình thành và phát triển 43
1.2. Bộ máy tổ chức 44
1.3. Hoạt động chính của Công ty hiện nay 44
1.4. Nguồn lực hiện tại của Công ty 45
1.5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty 47

2. Những đặc điểm kinh tế kĩ thuật của Công ty có ảnh hưởng đến tiến trình
CPH
47
2.1. Vị trí địa lí của Công ty 47
2.2. Đặc điểm về lao động 48
2.3. Đặc điểm về ngành nghề kinh doanh 49
2.4. Đặc điểm về bộ máy quản lí 50
3. Thực trạng quá trình thực hiện cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất
khẩu Bắc Giang
50
3.1. Sự cần thiết phải tiến hành CPH ở Công ty TP XK Bắc Giang 50
3.2.Quá trình thực hiện CPH 54
3.3.Những kết quả đạt được, những vướng mắc và những vấn đề đặt ra khi thực
hiện CPH
55
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG TY
THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
69
I. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu cổ phần hoá của Công ty 69
1. Quan điểm của Công ty 69
2. Phương hướng và mục tiêu cổ phần hoá của Công ty 69
2.1. Phương hướng CPH của Công ty 69
2.2. Mục tiêu CPH của Công ty 70
II. Một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất
khẩu Bắc Giang
70
1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong Công ty 70
2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính của Công ty trước khi cổ phần hoá 72
2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính 72
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp 73

2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ 75
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp 75
4. Giải quyết vấn đề lợi ích cho người lao động 78
5.Tổ chức thực hiện đúng quy trình cổ phần hoá theo các văn bản hiện hành 80
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách 80
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong các
doanh nghiệp CPH
81
6.2.Thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay 81
Trang 2
6.3. Đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH 82
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp 83
6.5. Tạo môi trường thúc đẩy CPH 83
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu cổ phần hoá 84
Kết luận 88
Danh mục tài liệu tham khảo 89
LỜI NÓI ĐẦU
Trong tiến trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến hơn trong toàn xã
hội. Những thành tựu của công cuộc đổi mới cho phép đông đảo quần chúng nhận
thức ngày càng rõ hơn rằng bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, các hình thức sở
hữu khác (tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện thuận lợi cũng phát huy vai
trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu
cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh tế, nâng cao quyền tự chủ tài
chính và khả năng tự chủ quản lý sản xuất kinh doanh, nâng cao tinh thần trách
nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người quản lý doanh nghiệp.
Trải qua hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) những thành tựu đã đạt được đủ để chúng ta khẳng định rằng CPH là một
chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu khách quan. Tuy nhiên xung quanh vấn
đề CPH còn khá nhiều tồn tại như: Cơ chế chính sách chưa đồng bộ, quy trình CPH

Trang 3
còn phức tạp, ưu đãi dành cho người lao động và doanh nghiệp CPH chưa thoả đáng,
việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH còn gặp không ít khó khăn…. Vì
vậy trong thời gian tới cần phải có giải pháp hoàn thiện để thúc đẩy CPH DNNN.
Sau một quá trình thực tập tại Công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc
Giang, Công ty đang tiến hành CPH. Từ điều kiện thực tế cộng với kiến thức hiểu
biết của mình Em chọn đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở
Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang” làm luận văn tốt nghiệp đại học.
Luận văn cố gắng đi sâu nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
của cổ phần hoá DNNN đặc biệt là cổ phần hoá trong lĩnh việc nông nghiệp. Đánh
giá thực trạng quá trình CPH ở công ty thực phẩm xuất khẩu (TPXK) Bắc Giang làm
nổi bật nên những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong khi tiến hành CPH. Từ
đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy CPH ở Công ty.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chủ trương, chính sách của Đảng và
Chính phủ về CPH DNNN, tình hình sản xuất kinh doanh và quá trình CPH ở Công
ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang. Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ sau đổi
mới đến nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu người viết đã sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp thống kê, phương pháp
điều tra, phương pháp toán học, phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu,
phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở khoa học của việc CPH DNNN trong nông nghiệp
Chương II: Thực trạng quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang.
Do hạn chế về trình độ kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu nên đề tài khó
trách khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các thầy,
cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Trang 4
CHƯƠNG I

CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG NÔNG NGHIỆP
Đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, trong đó có
CPH, đang là vấn đề nóng bỏng, hết sức bức súc ở Việt Nam. Mặc dù chủ trương
tiến hành CPH DNNN đã được đưa ra và thực hiện từ lâu, song đến nay tiến độ thực
hiện còn rất chậm, ngay cả khi Chính phủ giao chỉ tiêu CPH cụ thể cho từng Bộ,
ngành, địa phương. Chính vì vậy việc nghiên cứu về mặt lí luận, tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn CPH DNNN trong và ngoài nước thời gian qua để tìm ra giải pháp
thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ góp
phần thúc đẩy quá trình CPH mà còn góp phần lí giải định hướng đổi mới DNNN và
kinh tế Nhà nước nói chung.
1. Vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, DNNN trong nông nghiệp.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng và phức tạp. Nó giữ vai trò
quan trọng, quyết định và không thể thiếu được trong phát triển kinh tế ở tất cả các
nước nhất là các nước đang phát triển. Các nhà kinh tế đã chứng minh được rằng
điều kiện để phát triển kinh tế đất nước là phải tăng được lượng cung về lương thực,
thực phẩm bằng cách trực tiếp sản xuất hoặc có thể nhập khẩu từ các nước khác nếu
không thể sản xuất hoặc không có lợi thế trong sản xuất nông nghiệp. Tuy có vai trò
quan trọng như vậy, nhưng lâu nay nông nghiệp vẫn được coi là ngành sản xuất kém
hiệu quả, vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, rủi ro lớn. Vì vậy, sản xuất kinh
doanh trong nông nghiệp không hấp dẫn được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu
tư, cho nên việc tồn tại của kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp là yêu cầu
khách quan không chỉ vai trò của nông nghiệp với sự phát triển của nền kinh tế mà
còn là sự phát triển của hàng triệu hộ nông dân.
Trang 5
1.1. Khái niệm kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước là loại hình doanh nghiệp do Nhà nước
thành lập, đầu tư vốn và quản lí với tư cách chủ sở hữu, là pháp nhân kinh tế hoạt
động theo phát luật, thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.Từ khái
niệm cho ta thấy những đặc trưng của kinh tế Nhà nước:

+ Là một tổ chức được Nhà nước thành lập bằng cánh đầu tư vốn (100% hoặc
Nhà nước nắm cổ phần chi phối) để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.
+ DNNN do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước.
+ DNNN có tư cách pháp nhân vì nó hội tụ đủ 4 điều kiện để trở thành pháp
nhân theo quy định của pháp luật (được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập;
có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự
chụi trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật
một cách độc lập)
+ DNNN là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn nghĩa là nó tự chịu trách
nhiệm về nợ và cá nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi tài sản do doanh nghiệp quản
lí.
1.2. Vị trí vai trò của DNNN trong nông nghiệp
Trong nông nghiệp chúng ta đang xây dựng một nền kinh tế mang tính chất
hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu vực sản xuất và
dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát triển trong mối liên
hệ hợp tác, liên kết cạnh tranh cùng nhau phát triển phù hợp với qui định pháp luật.
Trong đó, thành phần kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp luôn có vai trò đầu tầu,
định hướng phát triển để xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững đáp
ứng nhu cầu không ngừng tăng nên của xã hội đối với các sản phẩm nông nghiệp và
không làm giảm khả năng cho sản phẩm trong tương lai. Kinh tế Nhà nước trong
nông nghiệp hiện nay có vị trí và vai trò chủ yếu sau.
- Định hướng, tạo tiềm lực cho Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết đối với
nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà
nước quyết định quỹ đạo phát triển của nông nghiệp nông thôn, đảm bảo duy trì cân
Trang 6
bằng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Sự can thiệp của kinh tế Nhà
nước bằng tiềm lực kinh tế của mình cũng như một số công cụ pháp luật làm cho
nền kinh tế thị trường hoạt động được thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo
định hướng xã hội chủ nghĩa mà bản thân kinh tế thị trường không thể tự điều tiết

được. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp là lực lượng xung kích trong việc thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Để thực hiện vai trò của
mình thì bản thân kinh tế Nhà nước phải đủ mạnh, có thực lực thật sự để dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác. Chúng ta không thể định hướng nền kinh tế bằng các công
cụ phi kinh tế, bằng ý chí chủ quan và ý chí chính trị.
- Kinh tế Nhà nước nắm giữ các hoạt động quan trọng của nông nghiệp: Nông
nghiệp là ngành cung cấp những sản phẩm tối cần thiết cho nhu cầu của con người,
thiếu những sản phẩm này còn người không thể tồn tại và phát triển được. Những
sản phẩm của nông nghiệp cho dù khoa học ngày nay rất phát triển nhưng cũng chưa
thể tạo ra sản phẩm thay thế. Đối với nước ta nông nghiệp càng có vai trò quan trọng
hơn khi hơn 70% dân số nước ta vẫn hoạt động trong nông nghiệp. Trong nông
nghiệp có những lĩnh vực rất nhạy cảm chỉ cần một sự tác động nhỏ là có thể ảnh
hưởng đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đời sống của hàng triệu hộ nông
dân. Những lĩnh vực như vậy không thể để cho các thành phần kinh tế khác kiểm
soát được mà Nhà nước phải quản lí, kiểm soát chẳng hạn như sản xuất giống, phân
bón, thuốc thú ý, hoạt động xuất nhập khẩu, thức ăn gia súc, xây dựng kết cấu hạ
tầng nông thôn… Tuy nhiên cũng không nên hiểu cứng nhắc là Nhà nước phải độc
quyền trong lĩnh vực này mà nên hiểu Nhà nước kiểm soát hoạt động này, kết hợp
cùng với các thành phần kinh tế khác phối hợp hoạt động sao cho có hiệu quả cao
nhất.
- Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp có vai trò hỗ trợ kinh tế hợp tác, kinh
tế trang trại, kinh tế hộ kinh doanh có hiệu quả, phải là đòn bẩy trong xây dựng kết
cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ vào sản xuất, phát triển công nghệ chế biến để
tiêu thụ nông sản, phải phát huy được vai trò là trung tâm công nghiệp dịch vụ, trung
tâm chuyển giao công nghệ, trung tâm văn hoá. Hỗ trợ các thành phần kinh tế khác
trong nông nghiệp khi cần thiết. Kinh tế Nhà nước phải là đầu tầu trong việc đưa
nông nghiệp ra khỏi tình trạng sản xuất tự túc, tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá,
Trang 7
phải nắm giữ cho được đại bộ phận các mặt hàng chủ lực thiết yếu cho đời sống,
điều tiết và bình ổn giá cả có lợi cho nông dân.

2. Nhận thức cơ bản về cổ phần hoá và CTCP
2.1. Khái niệm cổ phần hoá
CPH DNNN là việc chuyển đổi hình thức sở hữu từ DNNN (doanh nghiệp đơn
sở hữu) sang Công ty cổ phần(CTCP) (doanh nghiệp đa sở hữu) đồng thời chuyển
doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo luật DNNN sang doanh nghiệp hoạt động theo
các quy định về CTCP trong luật doanh nghiệp. Do vậy, các lĩnh vực sản xuất kinh
doanh cũng có sự chuyển biến từ Nhà nước độc quyền sang hoạt động theo các
nguyên tắc của kinh tế thị trường tuân theo các quy luật như cung cầu, giá cả, cạnh
tranh…
Trong quá trình CPH, tài sản của Nhà nước được chuyển đổi sở hữu cho nhiều
đối tượng khác nhau bao gồm: các tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân trong và ngoài
nước, Nhà nước cũng giữ lại một tỷ lệ cổ phần cho chính mình ở doanh nghiệp đó.
Như vậy hình thức sở hữu tại doanh nghiệp đã chuyển từ đơn sở hữu sang đa sở hữu.
Với những đặc trưng như vậy, giải pháp CPH là giải pháp quan trọng nhất
trong công cuộc cải cách DNNN đang diễn ra hiện nay; giải tỏa được những khó
khăn cho ngân sách Nhà nước, khuyến khích người lao động đóng góp tích cực và
có trách nhiệm sức lực, trí tuệ, vốn của họ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nói một cách ngắn gọn CPH là giải pháp khắc phục những vấn đề
khó khăn trong khu vực kinh tế Nhà nước.
2.2. Khái niệm về Công ty cổ phần
Công ty cổ phần với tính cách là kết quả của việc CPH DNNN là công ty được
thành lập trên cơ sở hợp tác của nhiều cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu
có mệnh giá bằng nhau. Lợi nhuận của công ty được phân phối giữa các cổ đông
theo số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông là chủ sở hữu.
- Vốn điều lệ của CTCP được chia thành nhiều phần bằng nhau
- CTCP có tư cánh pháp nhân và là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn,
cổ đông chỉ chịu tránh nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Trang 8
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác

trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế tối đa.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của phát
luật về chứng khoán.
3. Những đặc điểm cơ bản của CPH trong nông nghiệp
CPH là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là giải pháp trung tâm để
sắp xếp và đổi mới hoạt động của kinh tế Nhà nước. Các DNNN trong nông nghiệp
hầu hết không nằm trong danh mục những DNNN cần nắm giữ 100% vốn hoặc
những DNNN cần nắm cổ phần chi phối. Vì vậy, số lượng các doanh nghiệp nông
nghiệp cần phải CPH là rất lớn. Để có thể chuyển nhanh các doanh nghiệp này sang
hoạt động theo hình thức CTCP thì cần phải nghiên cưú kĩ những đặc điểm kinh tế
kĩ thuật riêng có của các doanh nghiệp nông nghiệp mà có cách làm cho phù hợp.
3.1. Trong các doanh nghiệp nông nghiệp giá trị của đất đai chiếm một tỷ
trọng lớn trong giá trị của doanh nghiệp.
Khác với các ngành kinh tế khác trong nông nghiệp đất đai có vị trí đặc biệt
quan trọng nó vừa là tư liệu lao động vừa là đối tượng lao động. Trong nông nghiệp
đất đai là tài sản vô giá, không có đất đai thì không có hoạt động sản xuất kinh
doanh trong nông nghiệp. Điểm đặc biệt của loại tư liệu sản xuất này là nếu biết sử
dụng, cải tạo, bảo vệ hợp lí thì chúng chẳng những không bị hao mòn, chất lượng
xấu đi, mà còn tốt hơn tức là độ phì của đất tăng lên. Cho nên diện tích đất đai thì có
hạn nhưng sức sản xuất của đất đai thì không có giới hạn. Trong nông nghiệp giá trị
của đất đai được xác định theo độ mầu mỡ của đất tức khả năng sinh lời của đất.
Chính vì vậy khi xác định giá trị đất đai trong nông nghiệp không chỉ căn cứ vào
diện tích bề mặt mà quan trọng hơn là phải căn cứ vào sức sản xuất (khả năng cho
sản phẩm) của đất trong tương lai. Trong nông nghiệp giá trị đất đai thường chiếm
một tỷ trọng tương đối lớn trong giá trị doanh nghiệp nên làm nẩy sinh những khó
khăn khi CPH. Bởi vì nếu tính giá trị đất đai vào giá trị doanh nghiệp khi CPH sẽ
đẩy giá trị doanh nghiệp lên rất cao trong khi đất đai chưa thể phát huy vai trò sinh
Trang 9

lời ngay. Giá trị doanh nghiệp cao làm sao có thể hấp dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào
doanh nghiệp để sản xuất kinh doanh như vậy rất khó cho CPH trong nông nghiệp.
Nếu giá trị đất đai không tính vào giá trị doanh nghiệp CPH thì Nhà nước sẽ mất đi
một khoản thu và tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giá trị doanh
nghiệp thấp hơn giá thực tế rất dễ nẩy sinh tiêu cực.
3.2. Nông nghiệp từ lâu nay vẫn được coi là ngành sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả đời sống của cán bộ công nhân viên còn gặp nhiều khó khăn.
Đầu tư vào nông nghiệp thường là đầu tư dài hạn cần nhiều vốn, khả năng sinh
lời thấp rủi ro cao do sản xuất nông nghiệp phải gắn với đất đai và điều kiện tự
nhiên. Kết quả của sản xuất phải thông qua sinh trưởng và phát triển của cây trồng
và vật nuôi. Giá của sản phẩm nông nghiệp có tính biến động lớn và ngày càng
giảm so với giá của hàng công nghiệp. Chính vì sản xuất kém hiệu quả cho nên nông
nghiệp sẽ không mấy hấp dẫn với các nhà đầu tư vì không một nhà đầu tư nào lại bỏ
tiền vào một lĩnh vực kinh doanh chứa nhiều rủi ro mà hiệu quả lại không cao trong
khi họ có thể lựa cho được cơ hội đầu tư tốt hơn. Hiệu quả kinh doanh thấp còn là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng khó khăn trong đời sống kinh tế cán bộ
công nhân viên và những người cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp. Với thu
nhập như hiện nay thì chỉ đủ trang trải những chi phí tối cần thiết cho cuộc sống làm
sao tạo được tích luỹ. Vì vậy khi CPH nguy cơ người lao động không mua được cổ
phần và nằm ngoài quá trình CPH là rất lớn cho dù Nhà nước đã có nhiều chính sách
ưu đãi. Nếu như người lao động không mua được cổ phần thì mục tiêu CPH có đạt
được không, đời sống của người lao động có được cải thiện không, người lao động
có thực sự là chủ doanh nghiệp không.
3.3. Trong nông nghiệp có một phần tài sản cố định có nguồn gốc sinh học
Ngoài những tài sản như máy móc thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất …
trong nông nghiệp còn có những tài sản có nguồn gốc sinh học như vườn cây lâu
năm, súc vật sinh sản. Điều đặc biệt của những tài sản này là chúng sinh trưởng phát
triển theo những quy luật nhất định không phụ thuộc vào ý trí chủ quan của con
người. Trong quá trình sử dụng tài sản này không bị khấu hao, có nhiều trường hợp
giá trị đào thải lại lớn hơn giá trị ban đầu. Vì vậy trong quá trình CPH liệu có thể xác

định giá trị tài sản này như những tài sản khác không khi mà giá trị hiện tại của nó
Trang 10
không chỉ phụ thuộc vào hiện trạng mà còn phụ thuộc rất lớn vào khẳ năng cho sản
phẩm trong tương lai. Khả năng sinh lời trong tương lai thì khó ai có thể xác định
chính xác khi nông nghiệp luôn chứa đựng nhiều rủi do. Như vậy, công tác định giá
các doanh nghiệp nông nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn so với doanh nghiệp ở các lĩnh
vực khác.
4. Sự cần thiết CPH DNNN trong nông nghiệp
Trong quá khứ sự hình thành và phát triển của DNNN trong nông nghiệp đã
khẳng định được vị trí vai trò là đầu tầu kinh tế của nó không chỉ đối với nông
nghiệp nói riêng mà còn cho cả nền kinh tế. Kinh tế Nhà nước trong nông nghiệp
đóng vai trò trung tâm trong khoa học kĩ thuật, các doanh nghiệp đã kết hợp với các
doanh nghiệp làm dịch vụ kĩ thuật, các Viện và các Trung tâm nghiên cứu thực
nghiệm để sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Các doanh nghiệp là cầu nối giúp các
địa phương chuyển giao khoa học công nghệ cho các thành phần kinh tế khác. Theo
thống kê đến năm 1986 cả nước có 475 doanh nghiệp nông nghiệp sản xuất, hành
trăm doanh nghiệp hoạt động dịch vụ kĩ thuật. Các doanh nghiệp sản xuất đã quản lí
và sử dụng 1,2 triệu ha đất tự nhiên trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp. Thu hút
khoảng 37 vạn lao động. Hệ thống các doanh nghiệp nông nghiệp được phân bố
rộng khắp trên mọi miền của đất nước. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay khi trình
độ của lực lượng sản xuất đã được cải thiện đáng kể mà theo như Mác thì “quan hệ
sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”. Vì vậy, đã
đến lúc cần phải “xã hội hoá” vấn đề sở hữu, chuyển từ sở hữu đơn nhất sang sở hữu
tập thể đó là yêu cầu khách quan. Sự thành lập một cánh tràn lan các DNNN chỉ chú
ý đến số lượng không quan tâm đến chất lượng đã dẫn đến sự hoạt động hiệu quả
của khu vực kinh tế Nhà nước thể hiện:
- Quản lí các doanh nghiệp theo cơ chế tập trung bao cấp dẫn đến bộ máy quản
lí cồng kềnh nhưng hoạt động không hiệu quả, Nhà nước can thiệp quá sâu vào công
việc nội bộ của các doanh nghiệp trong khi lại không chịu trách nhiệm về kết quả
hoạt động của doanh nghiệp đã làm giảm tính chủ động, tăng tính ỷ lại trông chờ vào

Nhà nước.
Trang 11
- Do được Nhà nước bao cấp nên các DNNN không có ý thức tiết kiệm làm
lãng phí nguồn lực của Nhà nước, làm tăng chi phí sản xuất, hàng hoá làm ra không
có sức cạnh tranh.
Bảng 1: Giá một số sản phẩm sản xuất trong nước so với các sản phẩm nhập
khẩu (quý I năm 1999)
Đơn vị: USD/tấn
Tên sản phẩm Giá xuất xưởng Giá nhập khẩu Giá xuất xưởng cao hơn(%)
Xi măng 50-60 40-50 20-50
Đường RS 360-400 260-300 20-50
Thép xây dựng 300 260-280 10-12
Phân URE 160-180 110-125 30-40
Nguồn: Tạp chí nghin cứu kinh tế số 254/7/1999
- Do tình trạng trạng độc quyền của các DNNN dẫn đến tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh, các DNNN ỷ lại trông vào sự bảo hộ của Nhà nước, các thành
phần kinh tế khác bị kìm kẹp làm cho lực lượng sản xuất không phát triển được nguy
cơ tụt hậu của nền kinh tế ngày càng hiện rõ.
- Do hoạt động không hiệu quả nên các DNNN là gánh nặng cho ngân sách.
Hằng năm ngân sách Nhà nước phải chi một khoản không nhỏ đề bù lỗ và duy trì
hoạt động của các DNNN trong khi nhiều lĩnh vực khác như y tế, giáo dục lại không
nhận được sự đầu tư cần thiết. Trong 3 năm 1997-1999, ngân sách Nhà nước đã đầu
tư trực tiếp cho các doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng, trong đó có 6.482 tỷ đồng cấp
bổ sung cho doanh nghiệp, 1.464,4 tỷ đồng là bù lỗ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra Nhà nước còn miễn giảm thuế 2.288 tỷ đồng, xoá nợ 1.088 tỷ đồng, khoanh
nợ 3.392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng cho vay tín dụng ưu đãi 8.685 tỷ đồng.
Nhưng đáng chú ý là việc này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân
sách Nhà nước ít hơn phần Nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Điều này không chỉ
Trang 12
tăng thâm hụt ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng trong

đầu tư phát triển kinh tế.
Đổi mới sắp xếp lại hoạt động của các DNNN là yêu cầu khách quan phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh của nước ta và xu thế của thời đại. Có nhiều biện pháp để
sắp xếp đổi mới hoạt động của DNNN như giao, khoán, bán, cho thuê nhưng CPH là
giải pháp có nhiều ưu điểm hơn cả.
4.1. CPH cho phép huy động tối đa nguồn vốn từ các tổ chức cá nhân trong và
ngoài nước để phát triển kinh tế.
Vốn là điều kiện tồn tại và phát triển cho mỗi doanh nghiệp nói riêng và cho
toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hiện nay các DNNN nói chung và các DNNN trong
nông nghiệp nói riêng đang đứng trước thực trạng là gần như không có vốn lưu động
để hoạt động. Số vốn lưu động mà các doanh nghiệp có thể tự chủ được chỉ chiếm
10 – 30% để đảm bảo cho hoạt động của mình các doanh nghiệp phải thường xuyên
vay của các ngân hàng Thương mại. Hiện nay vốn vay các ngân hàng chủ yếu là vốn
vay ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu thường xuyên của các doanh nghiệp, các doanh
nghiệp cũng không dễ dàng tiếp cận được nguồn vốn này do thủ tục vay vốn hiện
nay còn rất rườm rà. Thiếu vốn là nguyên nhân cơ bản làm giảm hiệu quả của các
doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp thì thiếu vốn trong khi các
công nhân và nông dân có nguồn vốn dư thừa nhưng chưa biết đầu tư vào đâu để
đem lại hiệu quả cao nhất. Đa số vốn này dùng để tích trữ dưới dạng vàng hoặc
ngoại tệ một số ít dành cho gửi tiết kiệm, chỉ có một phần nhỏ dùng cho hoạt động
đầu tư kiếm lời là đầu tư vào thị trường bất động sản. Như vậy là có mâu thuẫn
người có thể sử dụng vốn có hiệu quả thì không có vốn trong khi đó người có vốn lại
không biết đầu tư vào đâu. CPH là giải pháp tốt để giải quyết tốt mâu thuẫn trên.
CTCP có ưu thế là có thể huy động từ những nguồn vốn lớn từ các ngân hàng
Thương mại, Công ty Tài chính đến những nguồn vốn nhỏ lẻ của công nhân, nông
dân. Do vậy CTCP có thể huy động vốn ở trình độ xã hội hoá cao hơn so với các
ngân hàng. Khả năng huy động vốn của CTCP sẽ được nâng lên khi thị trường
chứng khoán nơi diễn ra hoạt động mua bán cổ phiếu được hình thành và phát triển.
Trang 13
4.2. CPH để đổi mới công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp

Các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay được trang bị máy móc từ nhiều
nguồn khác nhau như mua mới, chuyển giao, viện trợ… nhưng hầu hết các máy móc
hiện nay các doanh nghiệp đang sử dụng đã rất lạc hậu được sản xuất từ những năm
50-60 của thế kỉ trước. So với các nước trên thế giới thì công nghệ hiện nay của ta
đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ cá biệt có những doanh nghiệp sử dụng máy móc đã lạc hậu
từ 4-5 thế hệ. Theo một cuộc điều tra của Viện bảo hộ lao động vào giữa năm 1999
thì trên 70% số máy móc đang sử dụng đã khấu hao hết, 50% đã được tân trang,
38% số máy móc nằm trong tình trạng chờ thanh lí. Với công nghệ như vậy làm sao
ta có thể tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước
chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài nguy cơ mất thị trường ngày càng hiện rõ.
Thực tế hiện nay giá các mặt hàng nông sản chế biến của ta hiện nay chỉ bằng
70-80% giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong
xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta lại sắp trở thành thành viên của APTA và WTO
nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng
xa. CPH đưa người lao động lên làm chủ, có quyền quyết định mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Kết quả hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích của họ cho nên để tồn tại và phát triển họ phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy
mô, giảm giá thành tăng sức cạnh tranh.
4.3. Nâng cao tiềm lực của kinh tế Nhà nước
Qua bán cổ phần Nhà nước đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ
người lao động trong doanh nghiệp, trong dân cư để đầu tư phát triển. Tại hơn 1000
doanh nghiệp đã CPH tính đến hết ngày 20/11/2003 Nhà nước đã thu hồi được hơn
4000 tỷ đồng để đầu tư vào các DNNN khác và giải quyết một số chính sách cho
người lao động trong DNNN thực hiện CPH. Vốn và tài sản Nhà nước trong các
CTCP không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Hàng năm Nhà nước thu
được lợi tức từ cổ phần Nhà nước tại CTCP, các khoản lãi do người lao động vay
mua cổ phiếu, các khoản thuế từ CTCP. Bên cạnh đó hàng năm Nhà nước không
phải mất một khoản hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ cho các doanh nghiệp đã CPH.
4.4. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước
trong nông nghiệp

Trang 14
Việc CPH DNNN đã thúc đẩy quá trình chuyển quản lí Nhà nước từ trực tiếp
sang gián tiếp thông qua các công cụ pháp luật, chính sách; thúc đẩy củng cố nâng
cao hiệu lực quản lí Nhà nước, nâng cao trình độ, năng lực quản lí của đội ngũ các
bộ. Quyền kinh doanh đã được chuyển giao cho doanh nghiệp nên doanh nghiệp có
quyền ra mọi quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước chỉ
tham gia như một cổ đông của công ty.
4.5 Tạo ra động lực mới trong quản lí doanh nghiệp
CPH DNNN đã biến doanh nghiệp thành có chủ, những người trực tiếp điều
hành và lao động trong chính doanh nghiệp. Quyền lợi của họ gắn với sự thành bại
của doanh nghiệp, vì thế tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của
mình, lao động tích cựu với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong phú.
Những biểu hiện mới này hầu như không tồn tại trong doanh nghiệp trước khi CPH.
Các CTCP hoạt động theo luật công ty trong đó Đại hội đồng cổ đông có quyền
quyết định phương hướng của công ty cũng như giám sát hoạt động của Hội đồng
quản trị và Giám đốc điều hành. Người lao động đồng thời là cổ đông có quyền yêu
cầu lãnh đạo doanh nghiệp trình bầy trước Đại hội những vấn đề về thu chi của
doanh nghiệp, có quyền thắc mắc về hiệu quả quản lí…Hơn nữa, do sự thay đổi về
cơ chế tổ chức, vai trò trách nhiệm của các bộ phận, các tổ chức quần chúng được
phân định rõ ràng, công đoàn có chức năng độc lập với người quản lí điều hành
doanh nghiệp. Vì vậy, các ý kiến đóng góp từ phía nào đều được nghiêm túc lắng
nghe…Bên cạnh việc quản lí tập trung không khí sinh hoạt dân chủ thực sự được cải
thiện ở CTCP.
5. Những chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH và quá trình
thực hiện
5.1. Những chủ trương chính sách
Chủ trương CPH DNNN đã được hình thành từ cuối những năm 80. Tại điều
22 của Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng bộ trưởng nay là
Chính phủ đã ghi “Bộ Tài chính nghiên cứu và tổ chức làm thí điểm việc mua bán cổ
phần ở một số xí nghiệp (Quốc doanh) và báo cáo lên Hội đồng bộ trưởng vào cuối

năm 1998”. Đó là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhưng có lẽ hơi sớm so với
điều kiện cụ thể lúc đó bởi vì:
Trang 15
- Những tiêu cực, yếu kém của khu vực Quốc doanh chưa bộc lộ một cách đầy
đủ, như là một đòi hỏi bức bách cần phải giải quyết.
- Những hiểu biết về kinh tế thị trường, đặc biệt là vấn đề CPH của chúng ta
còn ít ỏi chưa đủ sức triển khai. Vì thế chủ trương đúng đắn đó đã bị lãng quên.
Đến năm 1989 tức hai năm sau Chính phủ lại có Quyết định số 143/HĐBT
ngày 10/05/1989 về thí điểm CPH một số DNNN cùng với việc sắp xếp lại khu vực
kinh tế Quốc doanh. Khác với lần trước là các doanh nghiệp chưa hiểu hết ý đồ của
Chính phủ, dưới chưa chuyển biến kịp với trên, lần này ngược lại trên còn dè dặt thì
dưới lại rất hăng hái. Trong khi các văn bản của Chính phủ đang dừng lại ở mức dự
thảo chưa có quyết định chính thức chưa có hướng dẫn nhưng bên dưới thì đã triển
khai. Kết quả là cuộc thí điểm đã không rút ra được kết luận chính xác và đầy đủ,
các doanh nghiệp thì CPH theo ý đồ riêng của từng doanh nghiệp để đối phó với
thực trạng lúc đó là các DNNN đang rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ, thiếu vốn
nghiêm trọng và thất nghiệp tăng lên.
Quyết định 202/HĐBT ngày 8/6/1892 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính
phủ) về thí điểm chuyển một bộ phận DNNN thành CTCP kèm theo đề án triển khai.
Theo chỉ thị 202 CT CPH nhằm 3 mục tiêu:
- Thứ nhất là, phải chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông để
nâng có hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Thứ hai là, huy động được một lượng vốn lớn trong và ngoài nước để phát
triển kinh tế
- Thứ ba là, CPH là tạo điều kiện cho người lao động thực hiện quyền làm chủ
của mình.
Qúa trình triển khai thực hiện thí điểm CPH DNNN đã được kiểm tra và tổng
kết, bước đầu đã đem lại những ưu điểm và kết quả tốt như đời sống của người lao
động được cải thiện đáng kể, đóng góp cho ngân sách tăng. Bên cạnh đó còn nhiều
khó khăn vướng mắc nhất là trong cơ chế chính sách cần tiếp tục được hoàn thiện.

Chỉ thị số 84/TTG ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc xúc tiến
thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hoá hình thức sở
hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”.
Trang 16
Thông tư số 36/TC-CN ngày 7/5/1993 của Bộ Tài chính, Thông tư số
99/LĐTBXH-TT ngày 22/7/1992 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “
Hướng dẫn về lao động và chính sách với người lao động trong thí điểm chuyển một
số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”.
Chỉ thị số 685-TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy
triển khai CPH DNNN.
Sau 6 năm từ 1992-1998 mặc dù Chính phủ và các cơ quan chức năng đã ban
hành nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư hướng dẫn thực hiện chủ trương CPH
nhưng xem ra CPH vẫn dậm chân tại chỗ. Trong 4 năm đầu từ 6-1992 đến 6-1996
mới CPH được 10 doanh nghiệp, hai năm tiếp theo mới CPH được 28 doanh nghiệp.
Đứng trước thực trạng trên cần phải có chính sách CPH thông thoáng hơn hấp dẫn
hơn để đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN trong đó CPH là giải pháp trung
tâm. Đáp ứng yêu cầu đó ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định
44/1998/NĐ-CP “Về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành CTCP”. Khác với
các văn bản trước đây, Nghị định mới của Chính phủ đã có sự chuyển biến căn bản
tạo ra sức hấp dẫn thực sự với doanh nghiệp và người lao động, thủ tục trình tự CPH
khá rõ ràng, có sự phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, địa phương, doanh
nghiệp dễ triển khai
5.1.1. Nghị định 44/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau:
* Hình thức CPH:
Theo điều 7 của Nghị định 44/1998/NĐ-CP thì CPH được tiến hành theo các
hình thức sau đây:
+ Giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành
thêm cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp
+ Bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp
+ Tách một bộ phận của doanh nghiệp để CPH

+ Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển
thành CTCP
* Quy trình CPH: gồm 4 bước
Bước 1: Chuẩn bị CPH
Trang 17
Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp được thành lập do Giám đốc làm trưởng
ban, Kế toán trưởng làm uỷ viên thường trực, các trưởng phòng ban kế hoạch, sản
xuất kinh doanh, tổ chức cán bộ, kĩ thuật làm uỷ viên. Ban đổi mới quản lí có trách
nhiệm tuyên truyền giải thích cho người lao động trong doanh nghiệp mình những
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước để người lao động được biết và tổ
chức thực hiện.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp phải chuẩn bị ngay các tài liệu về: hồ sơ
pháp lí thành lập doanh nghiệp, tình hình công nợ, tài chính, nhà xưởng, vật kiến
trúc mà doanh nghiệp đang quản lí, các loại vật tư hành hoá ứ đọng, kém phẩm chất
và đưa ra hướng giải quyết
Lập danh sách người lao động của doanh nghiệp đến thời điểm quyết định
CPH: số người lao động, số năm công tác của từng người. Dự kiến số người nghèo
được mua cổ phần theo giá ưu đãi của Nhà nước trả dần trong 10 năm
Dự toán chi phí CPH cho đến khi hoàn thành đại hội đồng cổ đông lần thứ nhất.
Bước 2: Xây dựng phương án CPH
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp tổ chức kiểm kê tài sản, vật tư tiền vốn,
công nợ của doanh nghiệp. Căn cứ trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp và kết quả
kiểm kê đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, phối hợp với các cơ quan quản lí vốn
để giải quyết những vướng mắc về tài chính và dự kiến đề nghị giá trị thực tế của
doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp lập phương án CPH doanh nghiệp và dự
thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP.
- Phổ biến hoặc niêm yết công khai các dự kiến phương án trên để mọi người
lao động cùng biết và thảo luận
- Tổ chức Đại hội công nhân viên để lấy ý kiến về dự thảo phương án, bàn

phương hướng biện pháp cụ thể để có cơ sở hoàn thành phương án.
- Hoàn thiện phương án trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hoàn thiện
dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của CTCP để trình Đại hội đồng cổ đông xem
xét quyết định
Bước 3: Duyệt và triển khai phương án CPH
Trang 18
Ban quản lí đổi mới tại doanh nghiệp:
- Mở sổ đăng kí mua cổ phiếu của các cổ đông để đăng kí mua tờ cổ phiếu tại
kho bạc Nhà nước
- Thông báo công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp cho đến thời điểm
CPH
- Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán
cổ phần, tổ chức bán cổ phần của doanh nghiệp cho các cổ đông
-Trưởng Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp triệu tập Đại hội cổ đông lần thứ
nhất để bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm sát, thông qua điều lệ tổ chức và hoạt động
của CTCP.
Bước 4: Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
- Giám đốc, Kế toán trưởng doanh nghiệp với sự chứng kiến của Ban đổi mới
quản lí doanh nghiệp và đại diện cơ quan quản lí vốn và tài sản Nhà nước bàn giao
cho Hội đồng quản trị CTCP: lao động, tiền vốn, tài sản, danh sách hồ sơ cổ đông và
toàn bộ các hồ sơ tài liệu sổ sách của doanh nghiệp.
- Ban đổi mới quản lí tại doanh nghiệp bàn giao những công việc còn lại (nếu
có) cho Hội đồng quản trị và công bố giải thể từ ngày kí biên bản bàn giao
- Hội đồng quản trị của CTCP hoàn tất những công việc còn lại
Nghị định 44/NĐ-CP đã tạo ra sự đột biết tác động tích cực đến quá trình CPH
nhưng nó vẫn còn chứa đựng nhiều mâu thuẫn gây cản trở đến tiến độ CPH, vì vậy
cần phải có Nghị định mới ra đời thay thế. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ra Nghị định
số 64/2002/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 44/1998/NĐ-CP.
5.1.2. Nghị định số 64/2002/NĐ-CP quy định một số vấn đề sau
1. Mục tiêu và đối tượng CPH

* Mục tiêu:
Nghị định này quy định rất rõ ràng các mục tiêu CPH theo đúng tinh thần
NQTW3 theo đó CPH nhằm 3 mục tiêu chính:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp;
tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao
Trang 19
động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lí năng động cho doanh nghiệp để sử
dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và doanh nghiệp
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội trong và ngoài nước để đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng
cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp: đảm bảo hài hòa lợi ích Nhà
nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động.
* Đối tượng CPH:
Đối tượng CPH là các DNNN và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp
không thuộc đối tượng mà Nhà nước cần phải nắm 100% số vốn, được xác định theo
tiêu chí, danh mục phân loại DNNN quy định tại quyết định số 58/2002/QĐ-TTg
không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Các đơn vị phụ thuộc
chỉ được tiến hành CPH khi các đơn vị này có đủ điều kiện hoạch toán độc lập và
không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
2. Đối tượng mua cổ phần và quyền mua cổ phần lần đầu
Khắc phục những tồn tại của các quyết định trước về giới hạn mua cổ phần lần
đầu của các tổ chức và các cá nhân làm ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng huy động
vốn của toàn xã hội. Nghị định mới ra đời đã chính thức xoá bỏ mức khống chế về
quyền mua cổ phần lần đầu đối với các nhà đầu tư trên cơ sở đảm bảo các quy định
về số cổ đông tối thiểu và cổ phần chi phối tại các doanh nghiệp mà Nhà nước cần
nắm cổ phần chi phối. Riêng các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần có tổng
giá trị không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp hoạt động trong những ngành
nghề do Thủ tướng Chính phủ quy định

3. Xử lí những tồn tại về tài chính trước khi CPH
Những quy định trước đây về vấn đề này đã gây nhiều cản trở cho việc CPH
DNNN chính vì Nghị định lần này quy định vấn đề này rất rõ ràng
* Về tài sản:
Đối với doanh nghiệp có nhiệm vụ phải chủ động kiểm kê, phân loại và xử lí
những tài sản không cần dùng hoặc không thể sử dụng được theo cơ chế hiện hành.
Trang 20
Trong trường hợp đến thời điểm CPH mà doanh nghiệp vẫn chưa xử lí xong vấn đề
này thì không tính giá trị tài sản này vào tài sản doanh nghiệp CPH và uỷ quyền cho
CTCP tiếp tục quản lí và sử dụng số tài sản này. Đối với tài sản được đầu tư bằng
quỹ khen thưởng phúc lợi của doanh nghiệp thì được chuyển giao cho người lao
động trong doanh nghiệp quản lí và sử dụng thông qua tổ chức công đoàn của doanh
nghiệp (đối với tài sản thuộc công trình phúc lợi) hoặc chuyển thành cổ phần cho
người lao động trong doanh nghiệp CPH (đối với những tài sản được sử dụng vào
hoạt động sản xuất kinh doanh). Đối với tài sản đem góp vốn kinh doanh với nước
ngoài, nếu doanh nghiệp cổ phần kế thừa hoạt động kinh doanh thì toàn bộ tài sản
đem góp vốn liên doanh sẽ được tính vào giá trị doanh nghiệp đem CPH, trong
trường hợp doanh nghiệp không tiếp tục kế thừa hoạt động kinh doanh thì phải báo
cho cơ quan có thẩm quyền để giải quyết, xử lí vốn góp liên doanh theo hướng mua
lại vốn góp liên doanh hoặc chuyển số vốn này cho doanh nghiệp khác có điều kiện
quản lí sử dụng làm đối tác mới trong liên doanh.
* Về công nợ:
Nghị định mới quy định rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc xử
lí các khoản nợ đọng của doanh nghiệp trước khi CPH. Cho phép doanh nghiệp bán
nợ hoặc chuyển nợ thành cổ phần thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc theo
thoả thuận giữa doanh nghiệp với các chủ nợ nhưng giá cổ phần không được thấp
hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ quá hạn được nhà nước hỗ trợ
thông qua các giải pháp như khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, hỗ trợ vốn đầu tư đối
với các khoản nợ ngân sách và nợ thuế, được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ đọng, giảm

lãi suất vay ngân hàng hoặc được chuyển thành vốn góp cổ phần, được dùng thu
nhập trước thuế đến thời điểm CPH để bù lỗ các khoản lỗ luỹ kế của các năm trước.
Trong trường hợp đến thời điểm CPH vẫn chưa xử lí xong nợ và tồn đọng thì được
giảm trừ vào giá trị phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp CPH.
4. Cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp
Cơ chế định giá doanh nghiệp khi CPH được hoàn thiện theo hướng gắn với thị
trường: Bổ sung thêm các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng sinh
lời của doanh nghiệp để tạo điều kiện để tính đúng tính đủ, nhanh chóng trong việc
Trang 21
xác định giá trị doanh nghiệp tại thời điểm CPH. Bổ sung thêm quy định về tính giá
trị quyển sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp theo đó trước mắt vẫn áp dụng chính
sách thuê đất và giá đất theo những quy định hiện hành. Riêng đối với diện tích Nhà
nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền
sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi CPH. Giá trị đất được xác định theo khung
giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp
hơn chi phí đã đầu tư cho đất như: chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp, xây
dựng cơ sở hạ tầng…Tuỳ theo đặc điểm ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh
và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp mà cho phép áp dụng nhiều phương pháp
khác nhau để định giá doanh nghiệp CPH.
Sửa đổi phương pháp xác định lợi thế kinh doanh: nếu như trước đây giá trị lợi
thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở so sánh tỷ suất lợi
nhuận bình quân của doanh nghiệp trước khi CPH với các DNNN khác cùng ngành
nghề trên cùng địa bàn. Nay theo Nghị định số 64 giá trị lợi thế kinh doanh của các
doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành nghề đều được xác định dựa trên cơ sở:
mức chênh lệch của tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân 3 năm
liền kề trước khi CPH với lãi suất đầu tư Trái phiếu của Chính phủ ở thời điểm gần
nhất (được coi là hoạt động ít rủi do nhất) nhân với giá trị phần vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp ở thời điểm định giá. Trong trường hợp doanh nghiệp có thương hiệu
được thị trường chấp nhận thì giá trị lợi thế kinh doanh do thương hiệu mang lại
được xác định theo giá trị thị trường. Nghị định này cũng bổ sung thêm quy chế về

tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp. Trước đó, hoạt động xác định giá trị doanh
nghiệp chỉ được thực hiện theo cơ chế Hội đồng. Nay bổ sung thêm cơ chế thực hiện
giá trị doanh nghiệp CPH thông qua Công ty Kiểm toán và các tổ chức kinh tế có
chức năng định giá. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, cơ quan quyết định CPH có thể lựa
chọn và quyết định việc định giá doanh nghiệp theo Hội đồng hay thuê các tổ chức
trung gian.
5. Bán cổ phần phát hành lần đầu
Xác định ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp và người
cung cấp nguyên liệu đã đăng kí, sau đó mới bán cổ phần cho người bên ngoài. Tại
Nghị định số 64 cán bộ quản lí tại DNNN từ phó phòng nghiệp vụ trở nên không bị
Trang 22
khống chế mức cổ phần ưu đãi bình quân trong doanh nghiệp. Người lao động trong
doanh nghiệp CPH đều có quyền và nghĩa vụ như nhau dựa theo số năm tháng đã
làm việc tại khu vực Nhà nước trước khi CPH.
Quy định việc bán cổ phần ra bên ngoài phải thông qua các Tổ chức Tài chính
trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH lựa chọn và bằng hình thức
đấu thầu, đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Bổ sung quy định về thời hạn cho việc bán cổ phần ở các DNNN CPH là 2
tháng kể từ ngày có quyết định chuyển đổi mà không bán hết thì cơ quan có thẩm
quyền quyết định CPH, quyết định việc bán cổ phần rộng rãi ra bên ngoài.
6. Quản lí và sử dụng tiền thu từ bán phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp CPH
Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước sau khi trừ đi các khoản chi phí
được chuyển về quỹ hỗ trợ từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành phố và các doanh
nghiệp thuộc Tổng công ty tuỳ thuộc vào các cấp quản lí doanh nghiệp.
Số tiền thu được sẽ được sử dụng theo thứ tự ưu tiên như sau:
* Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất
việc ở thời điểm CPH và thời điểm đã chuyển sang CTCP
* Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo lại lao động
* Đầu tư cho các doanh nghiệp đã CPH để đảm bảo tỷ trọng chi phối của Nhà
nước đối với loại hình DNNN cần nắm giữ cổ phần chi phối

* Hỗ trợ các DNNN gặp khó khăn trong việc CPH
7. Chính sách với doanh nghiệp CPH và người lao động
Nghị định mới bổ sung cho phép doanh nghiệp CPH không bắt buộc phải sử
dụng hết lao động hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm CPH
Có chính sách ưu đãi mới về thuế cho các doanh nghiệp CPH “Doanh nghiệp
nhà nước chuyển thành CTCP được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của luật
khuyến khích đầu tư trong nước áp dụng cho doanh nghiệp thành lập mới (không
phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư)”.
Cho phép doanh nghiệp đang thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan Nhà
nước và các DNNN khác vẫn được duy trì các hợp đồng hoặc được ưu tiên mua lại
Trang 23
theo giá thị trường. Các doanh nghiệp CPH có tính giá trị đất vào giá trị doanh
nghiệp thì được sử dụng đất để nhượng bán, thế chấp, đem góp vốn liên doanh…
Đối với người lao động được mua cổ phần ưu đãi ghi tên và được chuyển
nhượng sau ba năm. Không khống chế tổng giá trị ưu đãi theo % trên giá trị vốn Nhà
nước thực tế. Đối với lao động dôi dư trong quá trình CPH thì được giải quyết chế
độ theo Nghị định 41/2002/NĐ-CP ngày 11/4/2002
8. Thẩm quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp
Chuyển toàn bộ quyền quyết định và điều chỉnh giá trị doanh nghiệp CPH cho
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân Thành phố,
Tỉnh trực thuộc Trung ương quyết định, kể cả trường hợp giá trị sổ sách đến 500
triệu đồng. Nếu quá mức này thì phải được Bộ Tài chính chấp nhận bằng văn bản.
9. Về thẩm quyền phê duyệt phương án và quyết định chuyển đổi DNNN thành
CTCP.
Nghị định này quy định chuyển giao toàn bộ thẩm quyền phê duyệt phương án
CPH và quyết định chuyển DNNN thành CTCP cho Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân các Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương; đối với các doanh nghiệp
CPH mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần đặc biệt thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ
quyết định.
Đi kèm với Nghị định 64 còn có các văn bản khác như Thông tư số

76/2002/TT- BTC, Thông tư số 15/2002/TT- LĐTBXH để hướng dẫn thi hành
những điều đã quy định tại Nghị định 64
5.2. Kết quả sau hơn 10 năm thực hiện CPH
Từ năm 1992 Đảng và Chính phủ bắt đầu thực hiện một chủ trương lớn là CPH
DNNN. Qua nhiều giai đoạn hoàn thiện đến nay kế hoạch tổng thể về sắp xếp và đổi
mới đã được định hình và dự tính phải hoàn thiện trong năm 2005. Theo các đề án
sắp xếp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, sẽ có 1866 doanh nghiệp do Nhà
nước nắm giữ 100% vốn và 2923 doanh nghiệp thực hiện sắp xếp, chuyển đổi sở
hữu dưới các hình thức CPH, giao khoán, bán, cho thuê, giải thể, phá sản. Năm 2003
đã kết thúc chúng ta hãy nhìn lại chặng đường CPH chúng ta đã đi qua xem chúng ta
đã làm được gì, những gì chưa làm được và cần phải làm gì trong thời gian tới.
Trang 24
5.2.1. Những thành tựu đạt được:
+ Tiến độ CPH bước đầu được cải thiện: Đã hơn 10 năm trôi qua kể từ khi có
chủ trương chuyển DNNN thành CTCP. Tính đến ngày 20/11/2003 cả nước đã CPH
được 1264
1
doanh nghiệp kết quả cụ thể các năm như sau:
Bảng 2: số doanh nghiệp đã CPH (tính đến ngày 20/11/03)
Sè doanh nghiÖp ®· CPH
0
2
1
3
5
7
100
250
212
204

148
312
0
50
100
150
200
250
300
350
90-92
93
94
95
96
97
98
99
2000
2001
2002
20/11/03
Sè DN
Nguồn: tạp chí kinh tế phát triển số 5/2004
Trong đó từ tháng 6/1992 đến tháng 4/1996 CPH được 5 doanh nghiệp, từ
tháng 5/1996 đến tháng 6/1998 CPH được 25 doanh nghiệp, sáu tháng cuối năm số
doanh nghiệp được CPH tăng đột biến lên gần 100 đơn vị. Có sự tăng đột biến như
vậy là do ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/1998/NĐ-CP với
nhiều nội dung thông thoáng hơn so với các văn bản trước. Năm 1999 là năm có số
lượng doanh nghiệp được CPH lớn nhất 250 doanh nghiệp nhưng rất tiếc là tốc độ

tăng trong các năm tiếp theo không được duy trì mà liên tục giảm từ 212 doanh
1
Nguån t¹p chÝ kinh tÕ ph¸t triÓn sè 5/2004
Trang 25

×