ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN
MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI DT02 --- NHĨM 12 --- HK 213
NGÀY NỘP: 00/07/2022
Giảng viên hướng dẫn: TS. Phan Duy Anh
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thảo Ny
Lê Thành Phúc
Ca Trần Linh Phương
Võ Lam Phương
Lê Huỳnh Nhựt Quang
Mã số sinh viên
1911817
1910453
1914728
1914756
1911902
Thành phố Hồ Chí Minh
0
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.........................................................................................................3
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI.............................3
1.1.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người.............................................3
1.2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người..........................4
1.2.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp cách mạng..............................................................................................4
1.2.2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó.............................................................................................6
1.3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người............................9
1.3.1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người...................................................9
1.3.2. Nội dung xây dựng con người............................................................. 10
1.3.3. Phương pháp xây dựng con người...................................................... 11
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY......................................................................... 12
2.1 Giá trị lý luận................................................................................................ 12
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của con người và chiến lược trồng
người bổ sung vào hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của
con người........................................................................................................... 12
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của con người và chiến lược trồng
người trở thành nền tảng tư tưởng cho đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và phát huy con người...................................................... 13
2.2 Giá trị thực tiễn............................................................................................ 16
PHẦN KẾT LUẬN...................................................................................................... 20
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Vấn đề con người có vị trí đặc biệt quan trọng, được đặt lên hàng đầu và là vấn
đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn đề giải
phóng con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích cao nhất trong quá
trình hoạt động cách mạng của Người. Phát biểu tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành
tư pháp năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Nghĩ cho cùng vấn đề tư pháp
cũng như mọi vấn đề khác, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải
thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức…". Tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trị của con người là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã
hội, là kim chỉ nam cho mọi hành động của các đảng viên, cán bộ quản lý.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người là một hệ thống các quan điểm
về huấn luyện, giáo dục, đào tạo, con người nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Trồng người là chiến lược hàng đầu của cách mạng Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu
cầu của cách mạng và chuẩn bị cho tương lai. Trồng người là xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện tài đức, trong đó lấy đạo đức làm nền tảng. Trồng người là sự
nghiệp cách mạng lâu dài, gắn liền với chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người là tài sản quý báu của dân tộc, có ý
nghĩa to lớn trong việc định hướng phát triển con người Việt Nam hiện tại.
Con người là vốn quý báu nhất, là trung tâm quá trình phát triển xã hội. Trong cơng
cuộc đổi mới tồn bộ đất nước, tầm quan trọng của nhân tố con người theo định hướng xã
hội chủ nghĩa càng được thể hiện ở mọi lĩnh vực trên con đường cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Việc phát huy nguồn lực con người chính là yếu tố cơ
bản cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy
nguồn lực con người là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược trồng người
là cơ sở cho việc định hướng, xây dựng chiến lược phát triển con người Việt
1
Nam hiện đại. Từ việc vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người, Đảng và Nhà nước ta đã
xây dựng chiến lược phát triển con người Việt Nam về mọi mặt, đáp ứng u cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ những nội dung trên, ta có thể thấy việc trang bị những kiến thức cơ bản về
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là hết sức quan trọng. Qua đó, ta có thể vận dụng
những kiến thức này vào thực tế, hiểu và hoàn thành tốt hơn trách nhiệm xây dựng con
người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
1.1.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể, thống nhất về trí lực, tâm lực,
thể lực, đa dạng bởi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội (quan hệ gia đình, dịng tộc,
làng xã, quan hệ giai cấp, dân tộc…) và các mối quan hệ xã hội (quan hệ chính trị, văn
hóa, đạo đức, tơn giáo…). Trong mỗi con người đều có tính tốt và tính xấu. Người giải
thích “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bè bạn; nghĩa rộng là đồng
bào cả nước; rộng hơn nữa là cả lồi người”. Con người có tính xã hội, là con người xã
hội, thành viên của một cộng đồng xã hội.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra yếu tố sinh vật của con người. Theo Người, “dân dĩ thực
vi
thiên”; “dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Theo
Người, trong mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nhiệm vụ phải thực hiện ngay
làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, có học hành.
Trong thực tiễn, con người có nhiều chiều quan hệ: quan hệ với cộng đồng xã
hội (là một thành viên); quan hệ với một chế độ xã hội (làm chủ hay bị áp bức); quan
hệ với tự nhiên (một bộ phận không tách rời).
Xa lạ với con người trừu tượng, phi nguồn gốc lịch sử, Hồ Chí Minh nhìn nhận
con người lịch sử - cụ thể về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, vị trí, đảng viên,
cơng dân… trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nét đặc sắc trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người là nhìn nhận đặc
điểm con người Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể, với những cấu trúc kinh
tế, xã hội cụ thể. Cách tiếp cận này đi đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai
cấp rất sáng tạo, không chỉ về mặt đường lối cách mạng mà cả về mặt con người.
3
1.2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của con người
1.2.1. Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành cơng của sự nghiệp
cách mạng.
Tấm lịng Hồ Chí Minh ln hướng về con người. Người u thương con người,
tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân dân
mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh “lịng thương yêu nhân dân, thương yêu
nhân loại” là “không bao giờ thay đổi”.
Người có một niềm tin lớn ở sức mạnh sáng tạo của con người. Lịng tin mãnh liệt
và vơ tận của Hồ Chí Minh vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình
thành rất sớm. Từ những năm tháng Người bơn ba tìm đường cứu nước, thăm nhập, lăn
lộn, tìm hiểu thực tế cuộc sống và tâm tư của những người lao động trong và ngoài nước.
Người đã khẳng định “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương ẩn giấu một
1
cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến” . Tin
vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ
bản của người cộng sản. Quan điểm của Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời khơng có gì q
2
bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết tồn dân” . Vì
vậy “Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Ngay cả những
bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt thành,
nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có đủ niềm tin
vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào nhân tố con người
của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin: “Quần chúng nhân dân là
người sáng tạo chân chính ra lịch sử”.
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương u nhân dân của Hồ Chí
Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống của dân tộc, truyền thống nhân ái ngàn
1
2
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.28.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 10, tr.453
4
đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan điểm “ái
quốc là ái dân”, nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng “ái dân” của Người là tình
thương ấy khơng bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm
thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất cơng giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm
người cho con người. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó khơng tách rời với
chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương u cũng như tồn bộ tư tưởng về nhân dân
của Người không bị giới hạn trong chủ nghĩa dân tộc hẹp hịi, mà nó tồn tại trong mối
quan hệ khắng khít giữa các vấn đề dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia với quốc tế.
Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người đồng thời yêu thương nhân dân các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
ln coi trọng sức mạnh đồn kết tồn dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bạn bè
khắp năm châu, của cả nhân loại tiến bộ. Người cũng xác định sự nghiệp của cách
mạng nước ta là một bộ phận khơng thể tách rời trong tồn bộ sự nghiệp đấu tranh giải
phóng nhân loại trên phạm vi tồn thế giới.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, họ biết “giải
quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi,
3
những đoàn thể to lớn nghĩ mãi khơng ra” . Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng
với tin thần quật cường và lực lượng vơ tận của dân tộc ta, với lịng u nước và ý chí
kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà
chúng ta nhất định thắng lợi.
Dân ta có tài năng, trí tuệ, sáng tạo. Đặc biệt là họ có lịng sốt sắng, hăng hái nhiệt
tính với cách mạng trong việc thực hiện con đường với cách mạng. Nhân dân là yếu tố
3
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 5, tr.501-502
5
quyết định thành cơng của cách mạng. “Lịng u nước và sự đoàn kết của nhân dân là
4
một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi” .
1.2.2. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của
chính sự nghiệp đó.
Vì sống gần dân, với dân, giữa lịng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ
Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao
động xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911,
giữa lúc đất nước đang bị xâm lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Người ra đi với
quyết tâm ý chí “quyết giải phóng dân ta được hồn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được cùm nô lệ cho đồng
bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng và Chính phủ là
“làm sao cho nước học hành”.
Ở
Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người
cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược lại,
người có niềm tin vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng
của chính bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và
quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định
con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước
cịn nơ lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân
tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa
bệnh lại được ưu tiên hơn bởi vì “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc
5
tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì” . Vì vậy chúng ta phải thực hiện
4
5
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 6, tr.281
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4, tr.64
6
ngay làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có
học hành, ngay cả ở di chúc Người có viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người...”
Con người là mục tiêu của cách mạng. Con người là chiến lược đầu tiên trong tư
tưởng và hành động của Hồ Chí Minh. Mục tiêu này được cụ thể hóa trong ba giai
đoạn cách mạng (giải phóng dân tộc - xây dựng chế độ dân chủ nhân dân - tiến dần lên
xã hội chủ nghĩa) nhắm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Giải phóng dân tộc là xóa bỏ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc,
giành lại độc lập cho dân tộc. Con người trong giải phóng dân tộc là cả cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Phạm vi thế giới là giải phóng các dân tộc thuộc địa. Giải phóng xã hội
là đưa xã hội phát triển thành một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã
hội có nền sản xuất cao và bền vững, văn hóa tiên tiến, mọi người là chủ và làm chủ xã
hội, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, một xã hội văn minh, tiến bộ. Xã hội đó
phát triển cao nhất là xã hội cộng sản, giai đoạn đầu là xã hội chủ nghĩa. Giải phóng
giai cấp là xóa bỏ sự áp bức, bóc lột của giai cấp này đối với giai cấp khác; xóa bỏ sự
bất cơng, bất bình đẳng xã hội; xóa bỏ nền kinh tế - xã hội đẻ ra sự bóc lột giai cấp; dần
dần thủ tiêu sự khác biệt giai cấp, các điều kiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành giai
cấp và xác lập một xã hội khơng có giai cấp. Con người trong giải phóng xã hội là các
giai cấp cần lao, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nơng dân. Phạm vi thế giới
là giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước. Giải phóng con người là
xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột, nơ dịch con người; xóa bỏ các điều kiện xã hội làm
tha hóa con người, làm cho mọi người được hưởng tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
huy khả năng sáng tạo, làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân, phát
triển toàn diện theo đúng bản chất tốt đẹp của con người. Con người trong giải phóng
con người là cá nhân mỗi con người. Phạm vi thế giới là giải phóng lồi người. Các
“giải phóng” đó kết hợp chặt chẽ với nhau, giải phóng dân tộc đã có một phần giải
phóng xã hội và giải phóng con người; đồng thời nối tiếp nhau, giải phóng dân tộc mở
đường cho giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
7
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo
của quần chúng. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”, “có dân thì
có tất cả”… Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa
nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nếu khơng có nhân dân thì
Chính phủ khơng đủ lực lượng, nếu khơng có Chính Phủ thì nhân dân không ai dẫn
6
đường...” Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực
lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo
đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vơ địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng
giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự
giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân. Hồ Chí
Minh tin ở dân cịn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải
tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Người
nói: Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải
chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân,
không hiểu biết về nhân dân, không yêu thương nhân dân. Trên mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là
lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng
lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy ta phải hết
sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy ta cũng hết sức tránh.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn
thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to
lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo
tư tưởng của Hồ Chí Minh lấy cơng - nơng - trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời
6
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 4, tr.64.
8
đại mới, đó là giai cấp cơng nhân. Chỉ có giai cấp cơng nhân có những đặc điểm chung
và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp
cơng nhân chỉ có liên minh với giai cấp nơng dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành
lực lượng hùng mạnh.
Giữa mục tiêu và động lực, tức giữa con người với con người, tồn tại mối quan
hệ biện chứng. Càng chăm lo cho con người - mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành
con người - động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh con người động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng. Phải kiên quyết khắc phục
kịp thời các phản động trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi
trùng này rất độc hại đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích
xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè, khơng dám nói, khơng dám làm, khơng dám đề ra ý
kiến, tóm lại khơng dám đổi mới và sáng tạo.
Tuy nhiên, không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những
người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức được
ni dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt
Nam. Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực của con người.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo.
Vì vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
1.3.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng con người
1.3.1.
Ý nghĩa của việc xây dựng con người
Hồ Chí Minh nêu hai quan điểm nổi bật làm sáng tỏ sự cần thiết xây dựng con
người.
Thứ nhất, xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng,
vừa cấp bách vừa lâu dài, có ý nghĩa chiến lược.
9
Thứ hai, xây dựng con người là một trọng tâm, bộ phận hợp thành của chiến
lược phát triển đất nước, có mối quan hệ chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nhiệm vụ “trồng người” phải được tiến hành song song với nhiệm vụ phát triển
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. “Trồng người” phải được tiến
hành bền bỉ, thường xuyên trong suốt cuộc đời mỗi người, với ý nghĩa vừa là quyền
lợi, vừa là trách nhiệm của các nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước. Công việc
“trồng người” là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đồn thể chính trị - xã hội kết
hợp với tính tích cực, chủ động của từng người.
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần phải có những con người xã
hội chủ nghĩa”. Chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra những con người xã hội chủ nghĩa, con
người xã hội chủ nghĩa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa được đặt ra ngay từ đầu và phải được quan tâm trong suốt tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bất cứ phong trào cách
mạng nào, tiên tiến là số ít và số đông là trung gian, muốn củng cố và mở rộng phong
trào, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ giác ngộ của trung gian để kéo chậm tiến.”
1.3.2.
7
Nội dung xây dựng con người
Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng con người tồn diện vừa “hồng” vừa
“chun”. Đó là những con người có mục đích và lối sống cao đẹp, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, những con người của chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng, tác phong và đạo
đức xã hội chủ nghĩa và năng lực làm chủ. Xây dựng con người tồn diện với những
khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, có ý thức làm chủ, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng
“mình vì mọi người, mọi người vì mình”.
7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 12, tr.358
10
Thứ hai, Cần kiệm xây dựng đất nước, hăng hái bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, Có lịng u nước nồng nàn, tinh thần quốc tế trong sáng.
Thứ tư, Có phương pháp làm việc khoa học, phong cách quần chúng, dân chủ,
nêu gương.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng về năng lực trí tuệ, trình độ lý luận chính trị, văn
hóa, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sức khỏe.
1.3.3.
Phương pháp xây dựng con người
Mỗi người tự rèn luyện, tu dương ý thức, kết hợp chặt chẽ với xây dựng cơ chế,
tính khoa học của bộ máy và tạo dựng nền dân chủ. Việc nêu gương, nhất là người
đứng đầu, có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh thường nhắc lại việc nêu gương
trong khi bàn biện pháp xây dựng con người. Người nói “lấy gương người tốt, việc tốt,
việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau” là rất cần thiết và bổ ích.
Biện pháp giáo dục có một vị trí rất quan trọng trong việc xây dựng con người.
Người nhắc nhở rằng “Hiền, dữ phải đâu tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên.”
8
Chú trọng vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đồn thể quần chúng thơng
qua các phong trào cách mạng như “Thi đua yêu nước”, “Người tốt việc tốt”. Đặc biệt
phải dựa vào quần chúng theo quan điểm “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa
cán bộ và tổ chức của ta.”
8
9
9
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 3, tr.413.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 5, tr.338.
11
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1
Giá trị lý luận
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của con người và chiến lược trồng
người bổ sung vào hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trị
của con người
Theo triết học mác – xít, con người là một thể trong sự thống nhất biện chứng
giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người được sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy
luật tự nhiên, đồng thời con người phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã
hội. Viết về con người trong Luận cương về Phoi-ơ-bắc (1845), C.Mác có nêu lên một
luận điểm nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội” . Theo đó, C.Mác muốn chỉ ra con người, về bản chất không
phải là trừu tượng mà là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là đối
tượng thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, với yếu tố xã hội là bản chất
“gốc” của con người. Xét về cá nhân, mỗi con người riêng là những cá nhân sống, là
người sáng tạo các quan hệ xã hội, do vậy, sự phong phú của mỗi cá nhân sẽ phụ thuộc
vào sự phong phú của những mối liên hệ xã hội của nó. Ngồi ra, sự tổng hợp khơng
chỉ bao gồm các quan hệ hiện có, mà cịn là tổng hịa của lịch sử các quan hệ đó.
Suy cho cùng, một trong những điều ta có thể rút ra được từ quan niệm khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người là sự nghiệp giải phóng con người. Mục
đích phát huy được vai trò sáng tạo lịch sử của con người là phải giải phóng những
quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột ràng buộc khả năng sáng tạo lịch sử của quần
chúng nhân dân – chủ thể với khả năng tạo ra lịch sử tiến bộ cho nhân loại.
12
Kế thừa tư tưởng lý luận của C.Mác, chủ tịch Hồ Chí Minh xem con người là
“chiến lược đầu tiên trong tư tưởng và hành động”, theo đó, Người quán triệt quan điểm
của con người là chủ thể của sáng tạo lịch sử trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận
dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở
Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải
quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được
đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng
của Người. Người đánh giá cao vai trò của con người trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Người coi con người là mục tiêu và động lực của cách mạng, nhân dân là những người
sáng tạo chân chính ra lịch sử thơng qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất như lao
động sản xuất, đấu tranh chính trị - xã hội, sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Nói đến nhân
dân là nói đến lực lượng, trí tuệ, quyền hành, lịng tốt, niềm tin, đó chính là gốc, động
lực cách mạng.
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trị của con người và chiến lược trồng
người trở thành nền tảng tư tưởng cho đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng và phát huy con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận và định hướng để Đảng Cộng sản Việt
Nam xây dựng đường lối cách mạng đúng đắn, tổ chức lực lượng và lãnh đạo nhân dân
Việt Nam giành thắng lợi trong xuyên suốt chiều đại lịch sử từ cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 cho đến sáng lập nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trên cơ sở
những kết quả nghiên cứu, đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục vận dụng
những tư tưởng chiến lược “trồng người” của Hồ Chí Minh vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu
khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng: Con người phải được đặt vào vị
13
trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội với
nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo với nghĩa hẹp. Trên con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội, “trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này
cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất
cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Đây là
một q trình lâu dài, phải khơng ngừng hồn thiện, nâng cao; là trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước, gia đình và của chính bản thân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con
người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là mối quan hệ biện
chứng giữa “xây dựng chủ nghĩa xã hội” và “con người xã hội chủ nghĩa”.
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là một q trình tất yếu khách quan để
thúc đẩy sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực. Thực tiễn của cuộc đổi mới trong
hơn hai thập kỷ qua đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng ta. Tại Đại hội VII
(1991) và Đại hội VIII (1996), Đảng chú trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực, xem đây
là động lực to lớn nhất để tạo nên lực lượng sản xuất lúc bấy giờ, đồng thời, xem việc phát
triển nguồn nhân lực là nhân tố chủ chốt trong quyết định tốc độ và sự phát triển lâu dài
của phương thức sản xuất mới ở nước ta dưới bối cảnh hội nhập quốc tế. Từ sau Đại hội
VIII, Trung ương Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết đa lĩnh vực có liên hệ trực tiếp đến
việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy yếu tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa
VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 khẳng định: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Ở lĩnh vực
giáo dục, Trung ương Đảng đặt mục tiêu và nhiệm vụ là xây dựng thế hệ mới thấm nhuần
và gắn bó lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện bằng nhiều biện pháp
nhưng vẫn lấy giáo dục và đào tạo làm trọng yếu. Tiếp tục, nhằm đáp ứng yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Đại hội IX (2001) lưu ý tiếp tục đổi mới căn bản, toản diện về phát triển
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, song hành với việc phát triển
14
kinh tế tri thức. Đại hội X (2006), quyết tâm để giáo dục và đào tạo cùng khoa học và
công nghệ trở thành quốc sách hàng đầu, tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, thực hiện chấn hưng giáo dục để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Đến
Đại hội XI (2011), Đảng dành nhiều tâm huyết cho việc phát triển nguồn nhân lực Việt
Nam trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó, Đại hội xác
định các đột phá chiến lược, nhấn mạnh công tác phát triển nhanh nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao song song với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ. Một vài giải pháp để thực hiện chiến lược này bao gồm: đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý làm then chốt. Ở Đại
hội XII (2016), nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày những nhiệm vụ
trọng tâm, trong đó, nhiệm vụ thứ sáu là tập trung “phát huy nhân tố con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách,
lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng mơi trường Văn hóa lành mạnh”. Do
vậy, cần giáo dục con người Việt Nam “phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào,
sống tốt và làm việc hiệu quả”. Gần đây nhất, dưới bối cảnh đại dịch COVID-19, Đại
hội XIII (2021) đã đưa ra những chủ trương lớn về quyền con người gắn với quyền dân
tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân
dân Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII lấy con người làm trung tâm nhằm phát triển con
người toàn diện thể hiện qua khẳng định “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự
xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy
hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”. Đại hội chủ trương an ninh
con người, an ninh quốc gia gắn với quyền con người; để thực hiện chủ trương này
Đảng thúc đẩy tôn trọngbảo đảm, bảo vệ an ninh con người gắn với quyền con người
và an ninh quốc gia trên nhiều phương diện khác nhau.
15
Nhìn chung, bước vào giai đoạn mới, sự nghiệp lớn lao này đang đặt ra những yêu
cầu cao hơn về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và lực lượng cán bộ lãnh đạo nói
riêng. Nó địi hỏi phải có những lớp cán bộ phát triển toàn diện, đủ sức lãnh đạo và tổ chức
nhân dân, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bẳng,
văn minh” mà Đảng đã đề ra. Trước yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa
-
hiện đại hóa đất nước cần có một thế hệ tương lai đủ tài, đủ sức gánh vác các trọng
trách lớn lao của dân tộc. Sự nghiệp đó địi hỏi đào tạo ra những cơng dân tốt và cán bộ tốt
cho nước nhà. Đó là những con người phải có cả đạo đức và tài năng, những người thực sự
xứng đáng gánh vác tiền đồ to lớn mà thế hệ ông cha đã để lại. Do đó, đường lối của Đảng
Cộng sản chính là luôn không ngừng tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng trẻ hóa cán bộ
và có sự xem xét đánh giá, bổ nhiệm đúng đắn cán bộ, từng bước có chính sách thỏa đáng
đối với cán bộ các cấp, tích cực chống bệnh quan liêu, kinh nghiệm và giáo điều chủ nghĩa;
gắn liền công tác xây dựng Đảng với quá trình đấu tranh chống tham nhũng và cuộc vận
động xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Cùng với việc đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Đảng luôn
luôn quyết tâm thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lớp người kế
thừa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, một thế hệ người Việt Nam có lịng u nước, u
chủ nghĩa xã hội, có ý chí độc lập, tự cường, tinh thần phấn đấu vươn lên vì sự phát
triển phồn vinh của dân tộc, đất nước; có tài, có đức, đảm đương sứ mệnh lịch sử xây
dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2.2
Giá trị thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao vai trò nhân tố con người trong cách mạng Việt
Nam với ba cấp độ: nhân dân nói chung; cơng nhân, nơng dân, trí thức, bộ đội, cán bộ; và
mỗi con người cụ thể (trừ bọn Việt gian, phản động). Người sử dụng “sức dân”, “sức
người”, “trong bầu trời khơng có gì quý bằng nhân dân”, “quyền hành đều ở nơi
16
dân” nhằm khẳng định nhân dân ln ở vị trí cao nhất, địa vị làm chủ trong những vấn
đề quan trọng nhất của cách mạng và xã hội. Dân vừa là chủ, vừa là người thực hiện
công việc làm chủ, vừa là chủ thể, vừa là khách thể, là động lực, là mục tiêu trong công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay.
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức
tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định. Cách mạng khoa học - công nghệ
hiện đại và xu thế tồn cầu hóa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặt ra nhiều vấn đề mới cần được giải quyết trong bảo vệ độc lập, chủ quyền.
Ở trong nước, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trong những năm đổi mới cũng
còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế. Đặc biệt, tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực vẫn còn tồn đọng, tập trung vào một số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà
nước… Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác,
lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các
thế lực thù địch, phản động tăng cường thực hiện chiến lược “diễn biến hịa bình” chống
phá cách mạng nước ta bằng các thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm, nhất là triệt để sử dụng các
phương tiện truyền thông trên mạng internet để chống phá.
Trước những khó khăn, thách thức đó, cần tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực, mọi
tiềm năng sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để giữ vững và phát huy
giá trị độc lập, tự do của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta, có ý nghĩa chiến
lược quan trọng, định hướng cho sự nghiệp xây dựng, phát triển con người Việt Nam hôm
nay và mai sau. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng của Người, trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc
xây dựng, phát triển con người Việt Nam về mọi mặt. Từ Đại hội VI, cùng
17
với cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, Đảng đã từng bước nhận thức đúng đắn về
vai trò của nhân tố con người, coi con người là trung tâm trong q trình phát triển xã
hội. Đường lối, chính sách của Đảng đã khẳng định nguồn lực con người là quý báu
nhất, là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trên cơ sở những nhận
thức mới ấy, Đảng và Nhà nước ta đã có những thay đổi mạnh mẽ, đã đề ra nhiều chính
sách đúng đắn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở tầm vĩ mô, tạo điều kiện cho việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000), chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội hội (2001-2010) và (2011-2020) của Đảng đã đặt con người là trung
tâm của sự phát triển xã hội.
Thực hiện chiến lược “trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh
đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã coi trọng
phát triển lĩnh vực xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người.Trong giai đoạn hiện nay, phát huy nhân tố con người, phát triển nguồn nhân lực
chính là đầu tư cho con người thơng qua các chính sách đầu tư phát triển giáo dục và
đào tạo,dạy nghề, chăm sóc sức khoẻ, chính sách dân số, lao động và việc làm, tiền
lương và thu nhập, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội ... nhằm
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đầu tư cho con người chính là
nhằm phát triển thể lực, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, nâng cao
trình độ, năng lực, tay nghề; bồi dưỡng, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính năng động
và sức sáng tạo của con người; phát huy bản sắc văn hoá, truyền thống lịch sử dân tộc
để hun đúc thành bản lĩnh, ý chí của con người trong lao động. Đó chính là nội lực, là
yếu tố nội sinh, nguồn sức mạnh bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Trong quan điểm chỉ đạo phát triển cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ Đại hội VIII
(tháng 06 - 1996) đến nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm "Lấy việc phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Trong bối cảnh
18