Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.02 KB, 25 trang )

BÀI THU HOẠCH KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỆ ĐÀO TẠO CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Mơn học:
Tên chủ
đề/vấn đề
bài thu
hoạch:
SỐ
PHÁCH

LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con
người trong giai đoạn hiện nay

ĐIỂM

Ngày chấm:
Giảng viên chấm 1
(Kí, ghi rõ họ, tên)

Giảng viên chấm
2
(Kí, ghi rõ họ, tên)

Bằng số:
Bằng chữ:

……………………………………………………………………………………
Mơn học
Tên chủđề/vấn
đề bài thu


hoạch
SỐPHÁCH

LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con
người trong giai đoạn hiện nay
Họ và tên học viên

NGUYỄN KHẮC HÙNG

Mã số học viên
Lớp
Ngày nộp

AF211018
K72.A18

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………….……………………………….………1
B. NỘI DUNG…………………………………………….……………….……2
I. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN…………..2
1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân………………………….….2


1.2. Bản chất của quyền con người……………………………………….…….2
1.3. Đặc trưng cơ bản của quyền con người.…………………………………….2
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI. ……………………………………………….……………….……….2
2.1. Quyền con người là giá trị chung của nhân loại. …………………….…….3
2.2. Trong xã hội có phân chia giai cẩp đổi kháng, khái niệm quyền con người

mang tính giai cấp sâu sắc.………………………………………………..…….4
2.3. Quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
…………………………………………………………………………...….4
2.4. Quyền con người gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình
độ phát triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia.……………………………….5
2.5. Quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là bản chất
của chế độ xã hội chủ nghĩa.…………………………………………..…….….5
2.6. Quyền con người được ghi nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật.…..6
2.7. Quyền của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân……………………………………………………………………………….7
III. THÀNH TỰU, TỒN TẠI VÀ NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỂM XUYÊN
TẠC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA. …….…….8
3.1. Thành tựu….………………………………………………………….…….8
3.2. Tồn tại. ….…………………………………………………...…………….11
3.3. Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân
quyền ở nước ta….…………………………………………………………….12
IV. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Ở TỈNH HƯNG N.
….…………………………………………………….………………….15
4.1. Cơng tác quản lý hành chính nhà nước….…………………….………….15
4.2. Công tác tư pháp của các cơ quan….………………………….………….16
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN CON
NGƯỜI, CHỐNG NHỮNG LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC TRONG TÌNH HÌNH
HIỆN NAY….………………………………..……………………….……….17
C. KẾT LUẬN ………………………………………....……………..…..……20
TÀI LIỆU THAM KHẢO


3

MỞ ĐẦU

Ngày nay, quyền con người là một trong ba trụ cột hoạt động của Liên
Hiệp quốc cùng với hòa bình, an ninh và phát triển. Quyền con người là giá
trị chung của toàn nhân loại, là mối quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế và
ngày càng có vị trí quan trọng trong các hợp tác song phương và đa phương
trên trường quốc tế. Tăng cường dân chủ và cải thiện nhân quyền đang trở
thành nguyện vọng đông đảo của nhân dân các nước và xu hướng khách quan
của thời đại.
Với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước và con người Việt
Nam ln tự hào có một bề dày lịch sử của một dân tộc sẵn sàng hy sinh xương
máu, kiên cường, bền bỉ đấu tranh để giành lại những quyền cơ bản và thiêng
liêng nhất của con người. Đó là quyền được sống trong độc lập, tự do và quyền
tự quyết định vận mệnh của mình. Vì lẽ đó, giải phóng con người khỏi áp bức,
bất công, đem lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân đã trở thành mục tiêu
nhất quán và nền tảng hoạch định mọi quyết sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, có thể nói, những thành tựu dân tộc
ta đạt được trong việc bảo đảm và phát triển quyền con người là rất cơ bản, rất
to lớn. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định phương hướng: “Nhân dân là
trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền
và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu”.
Nhằm nâng cao nhận thức về quyền con người, em lựa chọn chủ đề: “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong giai đoạn hiện
nay” làm bài thu hoạch kết thúc môn Lý luận và pháp luật về quyền con người.


4

NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN.

1.1. Khái niệm quyền con người, quyền công dân.
Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có
của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng,
bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.
Quyền công dân là tổng hợp các quyền và tự do cơ bản của mỗi cá nhân,
tạo nên địa vị pháp lý của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước thông qua
chế định quốc tịch, được thừa nhận và bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật của
quốc gia.
1.2. Bản chất của quyền con người.
Quyền con người có nội dung rộng lớn, bao quát hầu hết các lĩnh vực của
đời sống xã hội từ lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa...; phản
ánh nhu cầu, lợi ích của các nhóm yếu thế trong xã hội; do vậy xét về bản chất,
quyền con người là bảo vệ cá nhân, công dân và các nhóm yếu thế, trước quyền
lực nhà nước. Trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước, quyền con người vừa
cần đến quyền lực nhà nước để tổ chức, quản lý và duy trì trật tự xã hội, bảo vệ
khỏi các hành vi xâm hại, nhưng ngược lại quyền con người lại chính là cơng cụ
để kiềm chế, kiểm sốt sự lạm dụng quyền lực, do đó trong mối quan hệ hai
chiều giữa Nhà nước với cá nhân, công dân và các nhóm xã hội; thì cá nhân,
cơng dân hay các nhóm yếu thế là chủ thể của quyền con người (rights holders), còn nhà nước là chủ thể nghĩa vụ (duty - bearers) có trách nhiệm tơn
trọng, bảo vệ và thực hiện quyền con người.
1.3. Đặc trưng cơ bản của quyền con người.
- Tính phổ biến và tính phụ thuộc vào bối cảnh lịch sử, văn hóa, dân tộc,


5

tơn giáo
- Tính khơng thể chuyển nhượng.
- Tính khơng thể phân chia.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.

II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ QUYỀN CON
NGƯỜI.
2.1. Quyền con người là giá trị chung của nhân loại.
Quyền con người bắt nguồn từ phẩm giá con người. Nhưng quyền con
người có nội hàm phong phú như ngày nay là thành quả chung của cả nhân loại
trong việc chinh phục tự nhiên và giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa,
khơi phục bản thể vốn có của con người. Thuật ngữ “quyền con người” ra đời
khá muộn, gắn liền với các cuộc cách mạng tư sản, nhưng tư tưởng và nội hàm
về quyền con người đã xuất hiện sớm và tồn tại trong mọi nền văn minh, văn
hóa.
Lịch sử đã chứng minh, những tư tưởng về quyền con người cũng như
những quy định trong pháp luật và kết quả đạt được về quyền con người là thành
quả đấu tranh lâu dài, gian khổ của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức,
qua mọi thời kỳ phát triển của lịch sử. Mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại đều
đánh dấu nấc thang mới trong nhận thức và việc hiện thực hóa các quyền con
người. Quyền con người vừa là sản phẩm của văn minh nhân loại, vừa là sản
phẩm của cuộc đấu tranh lâu dài của con người chống lại áp bức, bất công, làm
chủ thiên nhiên và tự hồn thiện chính mình...
Thực tiễn nói trên là cơ sở để Đảng khẳng định: “quyền con người là
thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân dân lao động và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của
loài người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung
của nhân loại”.
Những năm qua, Nhà nước Việt Nam đã chủ động tham gia vào các diễn
đàn và hoạt động quyền con người khu vực cũng như toàn cầu. Đảng luôn khẳng
định, việc bảo đảm quyền con người là một mục tiêu, động lực của cách mạng,


6


là trách nhiệm lớn của Đảng và Nhà nước. Trong bối cảnh mới, Đảng chủ
trương, cần “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt
Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong
cộng đồng quốc tế”; giải quyết hài hòa mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tể”; chú trọng “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ
sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”; “thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các
hiệp định thương mại đã ký kết”...
2.2. Trong xã hội có phân chia giai cẩp đổi kháng, khái niệm quyền con
người mang tính giai cấp sâu sắc.
Từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ
trương của Đảng ta chỉ rõ: “Trong xã hội có phân chia giaỉ cấp đối kháng, khái
niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc”.
Quyền con người, xét về bản chất, là đặc quyền vốn có của con người. Đó
là quyền tự nhiên, gắn với con người và chỉ có ở con người. Nói cách khác, đây
là dấu hiệu đặc trưng phân biệt con người với các loài vật khác. Các quyền này
biểu hiện dưới dạng những nhu cầu, do chính phẩm giá con người quy định.
Nhưng để trở thành quyền, những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ.
Pháp luật luôn bị chi phối bởi các chế độ chính trị cụ thể. Trong xã hội có
phân chia giai cấp đối kháng, quyền lợi các giai cấp ln xung đột nhau. Vì thế,
chính sách, pháp luật trước hết nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Khi pháp luật thừa nhận quyền của giai cấp thống trị cũng đồng thời hạn chế
quyền của giai cấp bị trị, khơng thể có quyền ngang nhau cho mọi giai cấp.
Trong xã hội Việt Nam, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động gắn liền với quyền lợi của đất nước, dân tộc; tính giai cấp của khái niệm
quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ biến của quyền con
người. Nói một cách cụ thể, trong xã hội Việt Nam, quyền con người của tất cả
mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không phân biệt giai cấp, tầng lớp,



7

dân tộc, tôn giáo...
2.3. Quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Đảng ta khẳng định: “Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và
thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia”. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều nước
từng trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập đã cho thấy, đất nước bị nơ lệ thì
người dân khơng thể có tự do, các quyền con người sẽ bị chà đạp nghiêm trọng.
Vì vậy, các dân tộc bị áp bức sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để giành và giữ
nền độc lập. Quyền dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể thiếu
của quyền con người, được ghi nhận ở điều đầu tiên của hai công ước cơ bản về
quyền con người năm 1966. Có thể nói, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là
điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người; khơng có độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, khơng thể nói đến các quyền con người.
Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của
mỗi quốc gia. Trách nhiệm pháp lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong
các văn kiện quyền con người quốc tế. Mặt khác, chính Hiến chương Liên hợp
quốc cũng nhấn mạnh: “Khơng quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can
thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền quốc gia”.
2.4. Quyền con người gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: “Quyền con người luôn luôn gắn liền
với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa
của đất nước. Do vậy khơng thể áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn,
mô thức của nước này cho nước khác”.
Quyền con người là giá trị được kết tinh từ những thành tựu, kinh nghiệm
đặc sắc trong lịch sử, truyền thống, văn hóa của mỗi quốc gia. Quyền con người
là giá trị phổ biến, được coi là chuẩn mực chung, nhưng đối với các nước đang

phát triển, thực hiện đầy đủ các chuẩn mực quyền con người chung ấy là một
quá trình lâu dài. Việc khẳng định tính phụ thuộc của quyền con người tạo cơ sở
lý luận bác bỏ mọi sự sao chép, áp đặt các mơ hình dân chủ, quyền con người;
đồng thời đòi hỏi phải chủ động, sáng tạo trong việc bảo đảm các quyền con


8

người phù hợp với thực tiễn mỗi quốc gia.
2.5. Quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là bản
chất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các quan điểm tư sản đều cho rằng, quyền con người là giá trị lớn nhất,
bao trùm nhất mà nhân loại phát hiện được; thậm chí cịn nhấn mạnh đó là mục
tiêu duy nhất, cuối cùng của con người...
Từ hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng gian
khổ, Đảng ta đã đi đến kết luận: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người
được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ
ta”; “Giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền
con người mới được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất”.
Kiên trì trong nhận thức và nhất quán trong hành động, Đại hội lần thứ
XIII của Đảng chủ trương: “Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành
dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo
đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả
dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có
hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”.
2.6. Quyền con người được ghi nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật.
Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, bảo đảm bằng pháp luật là một

trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện.
Mọi nhu cầu hay yêu sách về quyền nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo
vệ thì khơng thể có bất cứ quyền con người nào.
Đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh vai trò của
pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người. Đại hội VII của Đảng chỉ rõ:
“Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con
người”. Khái niệm quyền cọn người và vai trò của pháp luật đối với quyền con
người lần đầu tiên được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992: “Ở nước Cộng hòa


9

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, văn hóa và
xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật” (Điều 50). Hiến pháp năm 2013, tại Điều 14, đã nhấn mạnh:
Các quyền con người được “công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật” và “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
2.7. Quyền của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân.
Từ khi Luật quốc tế về quyền con người ra đời, vấn đề quyền và nghĩa vụ
cũng đồng thời được đặt ra. Nguyên tắc này được chia sẻ rộng rãi ở mọi quốc
gia và cơ chế quyền con người khu vực. Tuy nhiên, những người cổ vũ cho
thuyết “quyền con người phổ biến”, “quyền con người tuyệt đối”... lại bác bỏ
nghĩa vụ cá nhân khi thực thi quyền con người. Ngay cả hiện nay, vẫn có học giả
phương Tây cho rằng “quyền con người không kèm nghĩa vụ”. Theo quan điểm
này, khi nói quyền con người thì chỉ đề cập nghĩa vụ của nhà nước, chứ khơng
thể nói nghĩa vụ của cá nhân. Do đó, nhà nước phải có nghĩa vụ tơn trọng, thực
hiện quyền con người chứ không phải “ban phát” quyền con người; cá nhân có

quyền được đấu tranh để nhà nước phải tôn trọng, thực hiện các quyền con
người... Quan điểm này đã tác động vào Việt Nam, dẫn đến những nhận thức mơ
hồ về nghĩa vụ cá nhân khi hưởng thụ quyền.
Bàn về vấn đề này, C.Mác viết: “Khơng có quyền lợi nào mà khơng có
nghĩa vụ, khơng có nghĩa vụ nào mà khơng có quyền lợi”. Trên thực tế, ở bất cứ
quốc gia nào, người dân cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, theo quy
định của pháp luật, không chỉ trên tư cách công dân mà còn cả tư cách con
người đối với xã hội mà mình đang sinh sống. Tun ngơn phổ qt về quyền
con người (1948) cũng ghi nhận: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với
cộng đồng mà chính trong đó nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và
đầy đủ” (Điều 29). Lời nói đầu hai cơng ước quyền con người quan trọng nhất
(1966) cũng đều nhấn mạnh: “mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền


10

cần tôn trọng tự do của người khác và tôn trọng trật tự xã hội, lợi ích của cộng
đồng”. Việc Luật quốc tế về quyền con người có quy định về hạn chế một số
quyền con người cũng với một ý nghĩa như vậy. Văn kiện quyền con người của
hầu hết các khu vực và tiểu khu vực đều nhấn mạnh nghĩa vụ trong khi thực thi
các quyền con người...
Thực tế nói trên là cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng khẳng định: “Quyền
dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật”.
Hệ thống các quan điểm, cách tiếp cận nói trên của Đảng về quyền con
người nhìn chung tương đồng với quan điểm của nhiều quốc gia trên thế giới; có
giá trị định hướng cho mọi hoạt động của Nhà nước Việt Nam nhằm bảo vệ, đấu
tranh trên lĩnh vực quyền con người trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước hội
nhập toàn diện, sâu rộng vào mọi lĩnh vực của sinh hoạt quốc tế và khu vực,
trong bối cảnh tồn cầu hóa.

III. THÀNH TỰU, TỒN TẠI VÀ NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỂM XUYÊN
TẠC TRONG THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA.
3.1. Thành tựu.
Sau nhiều nỗ lực, Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực trong việc
bảo đảm quyền con người, từ quyền về dân sự, chính trị đến quyền về kinh tế,
văn hóa, xã hội và quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Quốc hội Việt Nam đã
sửa đổi và ban hành mới nhiều văn bản luật, trong đó có những bộ luật liên quan
đến đảm bảo quyền con người, như: Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, Tơn giáo;
Luật Tiếp cận thơng tin; Luật An ninh mạng… Bằng việc tham gia đóng góp ý
kiến vào quá trình xây dựng luật pháp, nhân dân đã thực hiện các quyền tự do,
dân chủ của mình; và các văn bản pháp luật quan trọng đều thể hiện được ý chí,
lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Quyền làm chủ của người dân Việt Nam
được thể hiện rõ ở: quyền bầu cử và ứng cử; quyền tự do ngơn luận, báo chí;
quyền tự do tơn giáo… Nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân và
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp


11

4.0, Nhà nước ta đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng
“Chính phủ điện tử”; Cổng thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, nhằm
cung cấp dịch vụ công trực tuyến để cán bộ, cơ quan, tổ chức đối thoại trực tiếp
với nhân dân, nâng cao hiệu quả tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân,
doanh nghiệp. Cùng với đó, trong những năm qua Nhà nước Việt Nam đã thực
hiện thắng lợi nhiều chương trình phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm ngày càng
tốt hơn các quyền con người trong các lĩnh vực này. Tốc độ tăng trưởng giai
đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,8%/năm. Năm 2020, mặc dù chịu ảnh
hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm vẫn đạt 2,91%; là một
trong những quốc gia tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những thành tựu nổi bật nhất của Việt Nam bảo đảm quyền con

người là đạt được những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát triển con
người và chất lượng cuộc sống. Tính đến cuối năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo còn
2,75% (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020).
Việt Nam là quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong việc thực hiện mục tiêu
thiên niên kỷ về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được
nâng cao. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em
năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khỏe trực tiếp, Việt Nam còn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng
cao sức khỏe của người dân, ngăn ngừa bệnh tật từ xa như chương trình cung
cấp nước sạch và vệ sinh nơng thơn. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch tăng
lên qua các năm. Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng. Số lượng người tham
gia bảo hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu (chiếm 5,4% dân số) năm 1993 lên gần 88
triệu người (gần 91% dân số) năm 2020.
Trên lĩnh vực văn hóa, phong trào “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống
văn hóa” được đẩy mạnh; Chính phủ đã ban hành Nghị định mới về cơng nhận
các danh hiệu văn hóa; Việt Nam có nhiều di sản được UNESCO công nhận là


12

di sản văn hóa của nhân loại... Nói đến thành tựu bảo đảm quyền con người
khơng thể khơng nói tới những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong chăm sóc,
bảo đảm quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương, bao gồm phụ nữ, trẻ em,
người khuyết tật. Trong đó, trẻ em ngày càng được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn
để phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần; Tỷ lệ nữ giới được giáo dục
ở mọi cấp tăng cao. Các chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ hội cho phụ
nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước. Lao
động nữ được quan tâm nhiều hơn trong thời kỳ thai sản và tuổi nghỉ hưu.
Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để được học

văn hóa, được ưu tiên bố trí việc làm...
Mục tiêu “khơng ai bị bỏ lại phía sau” là xuyên suốt, nhất quán, được
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt để, hiệu quả ngay từ khi đại
dịch COVID-19 xuất hiện. Hơn thế, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
“lấy người dân là trung tâm phục vụ, là chủ thể phòng, chống dịch”, “chiến
thắng dịch bệnh là chiến thắng của nhân dân”. Không chỉ trong thiên tai, thảm
họa, dịch bệnh mà bất luận trong hoàn cảnh nào, người dân ln được cấp ủy,
chính quyền và các lực lượng chức năng bảo vệ, bảo đảm cả về tính mạng, tài
sản và điều kiện sống.
Đóng góp vào những giá trị chung, tích cực và tiến bộ của nhân loại về
quyền con người: Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước của Liên
hợp quốc về quyền con người, như: “Cơng ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức
phân biệt chủng tộc”; “Cơng ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ”; “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội”;
“Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị”; “Cơng ước về quyền trẻ em”;
“Công ước về quyền của người khuyết tật”…Việt Nam cũng ln nỗ lực đóng
góp tích cực vào những giá trị chung, tích cực và tiến bộ của nhân loại về quyền
con người thơng qua việc tham gia tích cực vào các diễn đàn liên quan đến
quyền con người của Liên hợp quốc, ASEAN và các cơ chế khác. Tại các diễn


13

đàn này, Việt Nam đã chủ động đưa ra và được cộng đồng quốc tế hoan nghênh
các sáng kiến về quyền con người, đặc biệt về nội dung liên quan đến bảo đảm
quyền phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, những người chịu tác động của biến đổi
khí hậu…Việt Nam từng được bầu là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hợp
quốc, nhiệm kỳ 2014-2016. Năm 2016 và 2018, Việt Nam đã chủ trì giới thiệu
và được Hội đồng nhân quyền thông qua 2 nghị quyết về tác động của biến đổi

khí hậu đối với quyền trẻ em và đối với quyền phụ nữ. Việt Nam cũng tích cực
tham gia đối thoại về quyền con người với nhiều quốc gia, như: Mỹ, Australia,
Thụy Sỹ và EU, nhằm nâng cao hơn sự hưởng thụ quyền của người dân ở mỗi
quốc gia...Không chỉ là một trong những nước đã thực hiện thành công trước
thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, Việt Nam
hiện còn được biết đến là quốc gia trong thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm,
khơng ai bị ở lại phía sau của Liên hợp quốc. Những thành tựu của công cuộc
đổi mới, phát triển đất nước cùng những tiến bộ không ngừng trong sự nghiệp
bảo đảm và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế
ghi nhận. Với mong muốn đóng góp nhiều và hiệu quả hơn nữa vào các nỗ lực
chung của thế giới nhằm thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, Việt Nam đã ứng
cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025.
Trong lần ứng cử này, Việt Nam vinh dự được các nước ASEAN đồng thuận đề
cử là ứng cử viên của ASEAN./.
3.2. Tồn tại.
- Về nhận thức của cán bộ, công chức: Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân
quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý
hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ
quan công quyền và một số cơ quan tư pháp. Sự hạn chế như vậy có ngun
nhân từ cơng tác tun truyền, giáo dục về nhân quyền.
- Sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng trong hoạt động tuyên
truyền và đấu tranh chống vi phạm nhân quyền: Các phương tiện thông tin đại


14

chúng ở nước ta hiện nay chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân quyền dưới dạng phê
phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của các thế lực phản
động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn
đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện

thông tin đại chúng.
- Cơ chế bảo đảm nhân quyền chưa hiệu quả: Hiện nay, nước ta vẫn chưa
có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có
một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền.
- Sự thiếu hụt các nguồn vật chất bảo đảm: Mặc dù đòi hỏi ở mức độ khác
nhau, song việc bảo đảm bất cứ quyền con người nào cũng không thể tách rời
các điều kiện vật chất. Do những khó khăn về kinh tế, ở nước ta hiện nay còn
thiếu các điều kiện để chăm sóc, giải quyết việc làm cho các đối tượng: những
người bị nhiễm HIV/AIDS, những người làm mại dâm, những người vi phạm
pháp luật sau khi mãn hạn tù…
3.3. Nhận diện các luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân
quyền ở nước ta.
Thứ nhất, phủ nhận thành tựu, thực tiễn về các giá trị lý luận, quan điểm,
đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền; lợi dụng các hiệp định, dự án hợp
tác với nước ngoài, nhằm phá hoại và làm chệch định hướng XHCN của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ hai, kích động vấn đề dân tộc thiểu số và xuyên tạc, vu cáo Đảng,
Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tơn giáo, như
Việt Nam có “hai chính sách tơn giáo”: Chính sách bảo đảm trên hình thức và
“chính sách” khơng bảo vệ, khơng bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trong
thực tế thông qua “cơ chế xin - cho” và tạo lập các “tôn giáo quốc doanh”; chỉ
trích các văn bản, chính sách, pháp luật về tôn giáo và lợi dụng các vụ việc và
việc Nhà nước xử lý các đối tượng, vụ việc phức tạp liên quan tới tôn giáo để


15

xuyên tạc, vu cáo. Các thế lực phản động xuyên tạc rằng: nhiều văn bản pháp
luật Việt Nam về dân tộc không tương đồng với các công ước quốc tế về quyền
con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ ba, phê phán, xuyên tạc Nhà nước Việt Nam ngăn cản tự do ngôn
luận, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp. Chỉ trích chính quyền “trì hỗn”
việc ban hành Luật Biểu tình để tiếp tục dung túng bạo lực, đàn áp, bắt giam
những nhà hoạt động nhân quyền, có ý kiến “phản biện” Đảng, Nhà nước. Hơn
thế, chúng cịn kích động khuynh hướng cực đoan nhằm “hạ bệ thần tượng”, đòi
“giải thiêng” các giá trị lịch sử dân tộc, phủ nhận thành quả cách mạng, bôi nhọ,
xúc phạm lãnh tụ và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; địi khơi thơng dịng văn chương
của những cây bút chống cộng trước năm 1975. Thành lập nhóm thơ tục, thơ
rác, thơ bụi để “đẩy thơ vào ngõ cụt” nhằm thúc đẩy “lề trái” (phi chính thức)
thay thế “lề phải” (chính thống), tạo tiền đề cho việc chuyển sang hệ tư tưởng tư
sản, không chỉ trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.
Thứ tư, xuyên tạc cái gọi là “việc áp dụng một cách bất cơng Bộ luật Hình
sự”, nhất là các Điều 19, 79, 87, 88 và 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, kể cả
khi Bộ luật này đã được sửa đổi năm 2015, 2017. Các luận điệu xun tạc Việt
Nam có chính sách hai mặt trong việc giam giữ tù nhân chính trị: Cơng khai thì
khép vào tội “vi phạm luật pháp” nhưng thực tế là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân
chính trị”; hay các luận điệu xuyên tạc về sử dụng cách tra tấn, bức cung, nhục
hình đối với những người bị tạm giữ, tạm giam; phân biệt đối xử giữa tù nhân
chính trị với tù nhân khác, ngăn cản thân nhân vào thăm; bắt giữ và xét xử tùy
tiện; duy trì án tử hình; cáo buộc tình trạng đàn áp, ngăn chặn, cản trở hoạt động
của luật sư;....
Thứ năm, xuyên tạc, kích động trên lĩnh vực giáo dục - đào tạo, văn hóa nghệ thuật, đạo đức, lối sống. Ngoài việc triệt để lợi dụng “con bài” tôn giáo,
dân tộc, các quỹ, trường đại học theo tư tưởng cánh hữu, chống cộng ưu tiên cấp
học bổng để thu hút học sinh, sinh viên tham gia tìm hiểu “nền dân chủ đa


16

nguyên”, “nghiên cứu nhân quyền”, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức hội,
nhóm tơn giáo... nhằm “thay máu” giới trẻ. Đặc biệt, chúng tăng cường tung “tin

giả” đủ loại với sự phụ họa một cách có chủ ý hoặc vô ý thức của truyền thông
đại chúng theo cơ chế thị trường và dựa trên nền tảng in-tơ-nét, nhằm phá hoại
kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy sự suy đồi, rối loạn tư tưởng, đạo đức,
lối sống trong xã hội.
Thứ sáu, xâm nhập, kích động nhằm thúc đẩy “tự diễn biến, “tự chuyển
hóa” sang tư tưởng nhân quyền tư sản. Đồng thời, các thế lực thù địch tăng
cường tác động “từ bên ngồi”, như địi Nhà nước Việt Nam phải đáp ứng ngay
tiêu chuẩn về các quyền dân sự, chính trị (tự do lập hội, tự do xuất bản báo chí
tư nhân, hoạt động tơn giáo khơng cần sự quản lý của Nhà nước,...) tương tự các
quốc gia phát triển phương Tây. Họ gắn dân chủ, nhân quyền với các vấn đề hợp
tác phát triển về dân chủ, tôn giáo, tiếp cận thông tin, và các hoạt động lập pháp,
hành pháp, tư pháp,... đặc biệt đòi dân sự hóa hoạt động lĩnh vực quốc phịng, an
ninh, nhằm thúc đẩy phát triển tối đa cái gọi là xã hội dân sự theo kiểu phương
Tây. Họ móc nối và tìm cách mua chuộc bằng tiền, hiện vật có giá trị để làm
thay đổi tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một số cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược và cơ quan trọng yếu nhằm thay đổi
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm chệch hướng XHCN trong bảo đảm
dân chủ, nhân quyền và quá trình đổi mới đất nước nói chung.
Thứ bảy, kích động các cá nhân, tổ chức trong nước tổ chức bạo động, bạo
loạn và nhờ nước ngồi can thiệp, quốc tế hóa vấn đề để mưu toan gây mất uy
tín cho Việt Nam. Thí dụ, trong UPR chu kỳ I (2009), II (2014) và III (2019),
một số tổ chức phi chính phủ thù địch người Việt và người nước ngồi có quy
chế quan sát viên tại Hội đồng Kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC),
như Ủy ban bảo vệ quyền con người cho người Việt Nam - VCHR, Tổ chức
Đảng cấp tiến xuyên quốc gia - TRP,... lợi dụng diễn đàn của Hội đồng Nhân
quyền của Liên hợp quốc vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người. Tăng


17


cường trao giải cho các đối tượng chống đối để tạo dựng “ngọn cờ” chống phá
Nhà nước Việt Nam. Thông qua những “ngọn cờ” này, họ kích động, lơi cuốn,
tập hợp và phát triển lực lượng chính trị đối lập theo kiểu “đa nguyên, đa đảng”
ở nước ta. Chẳng hạn một biểu hiện cho những luận điệu, phủ nhận thành quả về
dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam là những báo cáo của chính quyền Mỹ (Báo
cáo về tự do tôn giáo, về buôn người và về nhân quyền) và của một số tổ chức
quốc tế, nhất là của HRW. Ngày 13-1-2021, HRW công bố Báo cáo hằng năm
với tiêu đề: “Phúc trình Tồn cầu 2021”, dài 761 trang, về đánh giá việc thực
hành nhân quyền tại hơn 100 quốc gia. Trong đó bản phúc trình này phê phán
Việt Nam trong năm 2020 “tiếp tục vi phạm các quyền dân sự và chính trị cơ
bản một cách có hệ thống”, qua việc siết chặt quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội,
tự do tôn giáo, chặn truy cập nhiều trang mạng, gây sức ép buộc các công ty
viễn thông phải gỡ bỏ các nội dung phê phán Đảng Cộng sản và chính quyền...
Thực tế thì đây khơng phải là lần đầu tiên HRW đưa ra những thông tin sai trái
như vậy để cơng khai chỉ trích Việt Nam và nhiều quốc gia có chủ quyền khác.

IV. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƯỜI Ở TỈNH HƯNG
YÊN.
4.1. Công tác quản lý hành chính nhà nước.
- Cơng tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân: Công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị của tổ chức, công dân được quan tâm chỉ đạo thực hiện, chất lượng được
nâng lên. Thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy, cơ quan hành chính nhà nước trong việc tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với
người dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân.
Công tác thanh tra tiếp tục được quan tâm thực hiện có trọng tâm, trọng điểm.
Qua thanh tra, đã phát hiện và xử lý nhiều sai phạm, kiến nghị khắc phục, chấn



18

chỉnh, thu hồi và hạn chế thất thoát tài sản của Nhà nước1.
- Cơng tác xây dựng chính quyền: Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội
khóa XV và đại biểu HĐND các cấp, nhiệm kỳ 2021-2026, tỷ lệ cử tri đi bầu cử
đạt 98,03%, kết quả này khẳng định sự tin tưởng của cử tri vào đường lối lãnh
đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, thể hiện sự quan tâm của cử tri
trong xây dựng chính quyền.
- Cơng tác cải cách hành chính: Tiếp tục được cấp ủy, chính quyền các
cấp quan tâm, chỉ đạo, đạt một số kết quả đáng ghi nhận2. Tỷ lệ văn bản gửi,
nhận thông qua mạng điện tử nội bộ tỉnh đạt trên 98%; 100% các cơ quan hành
chính nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp xã đã được cấp chữ ký số. Cơng tác cải cách
thủ tục hành chính và xây dựng chính quyền điện tử đạt hiệu quả cao, đã cơng
bố 1.444 thủ tục hành chính thuộc quyền giải quyết của tỉnh lên Cổng dịch vụ
công Quốc gia, từng bước nâng cao uy tín của chính quyền trong cơng tác quản
lý nhà nước. Hoạt động cải cách chế độ công vụ, công chức, cải tiến lề lối làm
việc và bồi dưỡng cán bộ, công chức được tăng cường. Làm tăng cường chất
lượng công tác công vụ, lấy sự hài lịng của người dân làm tiêu chí đánh giá chất
lượng công vụ.
- Công tác phổ biến giáo dục pháp luật: Đã quan tâm ứng dụng công
nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật quy định về quyền
con người. Từng bước đưa việc tuyên truyền về quyền con người vào hệ thống
các trường học trên địa bàn tỉnh.
4.2. Công tác tư pháp của các cơ quan.
- Công an tỉnh Hưng Yên: Với tinh thần “Vì nhân dân phục vụ”, 5 năm
qua, Công an các đơn vị, địa phương đã tổ chức 114 Hội nghị Công an lắng
nghe ý kiến nhân dân; phát gần 10.000 phiếu khảo sát ý kiến góp ý đối với lực
1 Năm 2021: Tồn ngành Thanh tra đã thực hiện 262cuộc thanh tra; đã phát hiện sai phạm 32,8 tỷ

đồng, 86.104m2 đất; kiến nghị thu hồi số tiền 11,6 tỷ đồng; xử phạt vi phạm hành chính 2,6 tỷ đồng;

kiến nghị khác 21,2 tỷ đồng.
2 Năm 2020, xếp hạng chỉ số cải cách hành chính (Par Index) xếp thứ 22/63 tỉnh, thành phố; chỉ số sẵn

sàng cho phát triển công nghệ thông tin - truyền thông (ICT Index) giữ nguyên thứ hạng 13/63 tỉnh,
thành phố; chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) tăng 16 bậc, xếp thứ 44/63
tỉnh, thành phố; chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tăng 2 bậc so với năm 2019, xếp thứ 53/63
tỉnh, thành phố.


19

lượng Công an đến các cơ quan, tổ chức, cán bộ và người dân trên địa bàn tồn
tỉnh, trong đó đã nhận về 94,6% số phiếu đánh giá ở mức “Hài lòng”; 100% các
đơn vị đã ban hành các Tiêu chí về văn hóa ứng xử của cán bộ chiến sỹ trong
thực hiện nhiệm vụ, lấy kết quả thực hiện là một trong những tiêu chí bình xét
thi đua hàng tháng, hàng năm cho từng cán bộ chiến sỹ.
Trong quá trình đấu tranh phịng, chống tội phạm, cán bộ chiến sỹ thực
hiện nghiêm túc việc bảo đảm quyền con người; trong đó, nội dung cốt lõi là tạo
ra các điều kiện cần thiết trong quá trình thực hiện các hoạt động ngăn ngừa,
phát hiện, điều tra, truy tố tội phạm, để các cá nhân, tổ chức có liên quan trong
vụ án hình sự có thể tiếp cận, thụ hưởng được các quyền của họ theo quy định
của pháp luật, đồng thời góp phần hạn chế, ngăn ngừa nguy cơ xâm hại quyền
con người từ các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể khác. Cùng với đó,
cơng tác điều tra, truy tố, xét đặc xá, tha tù luôn được thực hiện đảm bảo đúng
người, đúng tội, đúng quy định, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật nhưng
đồng thời cũng có những biện pháp cảm hóa, giáo dục thể hiện chính sách khoan
hồng của Đảng, Nhà nước để những người một thời lầm lỗi hướng thiện, làm lại
cuộc đời.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên: Công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân hai cấp bảo đảm

tuân thủ các quy định của pháp luật, các mặt công tác của ngành đạt và vượt các
chỉ tiêu đề ra. Trong công tác thực hành quyền công tố, Viện Kiểm sát nhân dân
hai cấp đã đảm bảo việc khởi tố, truy tố đúng người, đúng tội. Công tác kiểm sát
hoạt động tư pháp, tăng cường kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam đúng pháp
luật và cũng như đảm bảo các quyền của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam được
tôn trọng. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn các vụ việc có dấu hiệu dùng bức cung,
nhục hình trong quá trình giải quyết các vụ việc hình sự cũng như các vi phạm
của các cơ quan tố tụng để kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu khắc phục3.
3 17 kháng nghị, 149 kiến nghị khắc phục vị phạm, 12 kiến nghị phòng ngừa vi phạm, tội phạm


20

- Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên: Tòa án nhân dân hai cấp đã nỗ lực, chủ
động triển khai các biện pháp cơng tác, cơ bản hồn thành tốt nhiệm vụ được
giao; đã giải quyết 3.178 vụ, việc/4.032 vụ, việc thụ lý. Công tác giải quyết, xét
xử các loại án đã có những tiến bộ cả về tiến độ và chất lượng giải quyết. Các vụ
án lớn, trọng điểm, dư luận xã hội quan tâm được Tòa án nhân dân hai cấp đưa ra
xét xử kịp thời, nghiêm minh, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Việc tranh tụng tại phiên tòa được chú trọng, đảm bảo công bằng, khách quan,
theo đúng tinh thần cải cách tư pháp; các phán quyết của hội đồng xét xử cơ bản
đảm bảo đúng pháp luật, được dự luận đồng tình, đánh giá cao.
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN QUYỀN CON
NGƯỜI, CHỐNG NHỮNG LUẬN ĐIỂM XUYÊN TẠC TRONG TÌNH
HÌNH HIỆN NAY
Một là, Thường xun nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực phản động, thù địch trên lĩnh vực quyền con người để đề
xuất giải pháp phù hợp. Qua đó tiếp tục hồn thiện hệ thống chính sách, pháp
luật để phù hợp với chuẩn mực quốc tế về quyền con người. Thúc đẩy cải thiện
về lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm tôn trọng và thực hiện đầy đủ các cam

kết quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Hai là, tăng cường các biện pháp, chính sách, nguồn lực nhằm bảo đảm tốt
hơn nữa quyền con người trên tất cả các mặt dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội theo đúng mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra. Trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 vẫn đang đe doạ đến an ninh, an toàn của con người, ưu tiên
cao nhất vẫn là bảo đảm quyền sống, quyền chăm sóc sức khoẻ, đồng thời bảo
đảm an sinh xã hội cho nhóm các đối tượng dễ bị tổn thương, chịu tác động
nghiêm trọng của đại dịch. Khi đại dịch COVID-19 được đẩy lùi, Việt Nam sẽ
nỗ lực tái thiết nền kinh tế, vực lại đời sống người dân, trong đó chú trọng kế
thừa, áp dụng các bài học kinh nghiệm, chính sách kinh tế vĩ mơ hiệu quả từ các
nước…


21

Ba là, Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các khuyến nghị
UPR chu kỳ III mà Việt Nam chấp thuận; các cam kết và nghĩa vụ theo các
Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Tham gia tích
cực và có trách nhiệm vào các cơ chế của HĐNQ LHQ.
Bốn là, tăng cường hợp tác quốc tế để thúc đẩy tiến bộ quyền con người.
ASEAN đã tiến cử Việt Nam vào vị trí thành viên HĐNQ LHQ, do vậy chúng ta
cần thường xuyên tiến hành các cuộc tham vấn với các nước, các cơ quan
chuyên trách của Cộng đồng, bảo đảm lợi ích của tồn khối vừa tìm tiếng nói
chung trong nhiều vấn đề quyền con người. Chủ động, tích cực tham gia và
đóng góp trực tiếp vào việc định hình giá trị cũng như luật pháp về vấn đề quyền
con người trong quan hệ quốc tế.
Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền trong và ngoài nước, nâng cao
nhận thức người dân, các cấp chính quyền về đảm bảo quyền con người. Hệ
thống thường trực về nhân quyền từ Trung ương đến địa phương cần đẩy mạnh
công tác bảo vệ, bảo đảm quyền con người, đẩy mạnh tuyên truyền về quyền

con người, nâng cao nhận thức cho cán bộ trực tiếp làm công tác nhân quyền
cũng như người dân tự hiểu và bảo vệ các quyền của mình. Đổi mới nội dung,
phương thức đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực quyền con người. Đa dạng hóa
các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo,
linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp
phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận.
Thứ sáu, tiếp tục nâng cao năng lực của đội ngũ chuyên môn, chuyên
trách (tư tưởng, lý luận, thơng tin, truyền thơng, văn hóa, ngoại giao, an ninh
chính trị, bảo vệ chính trị nội bộ); xây dựng cơ sở dữ liệu chủ động công bố trên
cổng thông tin điện tử bằng tiếng Việt và tiếng Anh về thành tựu trong bảo vệ,
bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và tư liệu về quyền con người bị xâm hại
do hành động của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch gây ra đối với nhân
dân Việt Nam để đấu tranh có hiệu quả về quyền con người.


22

Thứ bảy, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội,
thông tin đối ngoại về thành tựu bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân qua hơn 35 năm đổi mới. Phát huy hiệu quả vai trị của báo chí, truyền
thơng trong bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người, thực hiện có hiệu
quả các chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước.
Thứ tám, ngăn chặn, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật,
chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội tại Việt Nam. Đồng thời, chủ động
công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng cả ở trong nước và
quốc tế.


23


KẾT LUẬN
Từ khi giành được độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam
đã vượt qua muôn vàn khó khăn, tạo dựng nên nền tảng vững chắc cho một xã
hội thực sự dân chủ, công bằng, văn minh, mà ở đó các quyền tự do cơ bản của
người dân được bảo vệ và không ngừng phát triển. Trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước, đặc biệt là việc thực hiện công cuộc đổi mới hơn 30 năm
qua, chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên mọi lĩnh vực: kinh tế
phát triển nhanh, đất nước hịa bình và ổn định, đời sống được cải thiện rõ rệt và
các quyền của mọi người dân về kinh tế văn hóa, xã hội, dân sự, chính trị đều
được bảo đảm và tăng cường.
Những thành tựu mà chúng ta đạt được thể hiện sinh động ý chí và quyết
tâm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc không ngừng thúc đẩy các
quyền con người ở Việt Nam, tiếp tục tạo nên động lực cho xã hội, củng cố thêm
niềm tin, tập hợp sức mạnh, sự đoàn kết của toàn dân để chung tay xây dựng
một đất nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh",
tất cả vì con người và cho con người.
Vấn đề quyền con người luôn được Đảng và Nhà nước đề cao, nhận thức
tích cực và áp dụng phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nhờ đó, từ một
dân tộc bị tước đoạt cả những quyền tự do cơ bản nhất, người dân Việt Nam đã
được thụ hưởng ngày một đầy đủ và toàn diện hơn các quyền của mình. Trên thế
giới cịn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề quyền con người, thậm chí một
số thế lực thù địch, cơ hội đã lợi dụng điều này để vu cáo, xuyên tạc tình hình


24

nhân quyền tại Việt Nam, song những thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đạt
được trong những năm qua là bằng chứng không thể phủ nhận cho những nỗ lực
của Việt Nam trong lĩnh vực này./.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp lý luận
chính trị: Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb.Lý luận chính trị.
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội.
3. Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2021 của Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Hưng Yên.
4. Báo cáo tổng kết cơng tác tịa án năm 2021 của Tịa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên.
5. Báo cáo của UBND tỉnh Hưng Yên trình tại kỳ họp Kỳ họp thứ Năm,
HĐND tỉnh Hưng Yên khóa XVII năm 2021.
5. />%CC%80u-tha%CC%80nh-tu%CC%A3u-ve%CC%80-quye%CC%80n-con-nguo%CC
%80i-2168.html


25

6. />

×