Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ: Phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.09 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÚY AN

PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THÚY AN

PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
KHI LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 838.01.07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN............................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ..............6
1.2. Ý nghĩa của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ..................13
1.3. Các yêu cầu của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ..............16
1.4. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật về phân chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn ............................................................................................18
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn .............................................................................................................................26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI
LY HÔN TẠI HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI ......................................31
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn .........................................................................................................................31
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn tại huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi .................................................................43
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY
HÔN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN BA TƠ, TỈNH QUẢNG NGÃI .......................64
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly

hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi .......................................................64
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi ..................................65
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi ...................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt

Nguyên văn

01

BLDS

: Bộ luật Dân sự

02

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự

03

HĐXX


: Hội đồng xét xử

04

HN&GĐ

: Hơn nhân và gia đình

05

NXB

: Nhà xuất bản

06

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

07

TAND

: Tòa án nhân dân

08

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao

09

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

STT


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1.

Công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại huyện Ba Tơ

47

2.2.

Lý do của các vụ án ly hôn tại huyện Ba Tơ

48



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình chiếm một vị trí vơ cùng quan trọng trong đời sống xã hội, là tế bào
của xã hội, là cái nôi ni dưỡng con người, là mơi trường quan trọng hình thành và
giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Ở mỗi
con người đều tồn tại mối quan hệ ràng buộc về hôn nhân và gia đình. Khởi nguồn
để hình thành nên một gia đình thực sự là việc xác lập mối quan hệ hôn nhân giữa
người nam và người nữ, được gọi là kết hôn. Tuy nhiên, trong quan hệ hôn nhân và
gia đình thì khơng chỉ có sự kiện kết hơn mà cịn có cả ly hơn. Ly hơn là một mặt
của quan hệ hơn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt khơng thể
thiếu của quan hệ hơn nhân và gia đình. Dù khơng ai mong muốn một gia đình được
xây dựng từ những nỗ lực của hai bên tan vỡ, nhưng đôi khi trong cuộc sống, ly hôn
lại là cách thức giải quyết tốt nhất. Trong những năm gần đây, tình trạng ly hơn ở
nước ta và các nước trên thế giới gia tăng đáng kể, với những nguyên nhân, lý do ly
hôn cũng rất đa dạng và phức tạp. Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hơn cũng phức
tạp khơng kém và cịn nhiều vướng mắc, hạn chế trong đó có vấn đề phân chia tài
sản chung của vợ chồng.
Hiện nay, tính chất mối quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình có
nhiều thay đổi bởi chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường. Khi đời sống con
người ngày càng phát triển, đặc biệt trên phương diện vật chất, của cải, tài sản mà
con người tích góp được ngày càng lớn thì càng nảy sinh nhiều vấn đề. Một trong
những hệ lụy đó chính là sự mâu thuẫn, tranh chấp gay gắt khi xử lý tài sản chung
của vợ chồng sau ly hôn. Tất yếu, đặt ra nhu cầu quy định về phân chia tài sản
chung của vợ chồng. Vì vậy, Luật HN&GĐ năm 2014 đã được các nhà làm luật kế
thừa các quy định của hệ thống pháp luật HN&GĐ trước đây, bổ sung và xây dựng
để phù hợp với nhu cầu thực tiễn. Việc nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ những
quy định của luật hơn nhân và gia đình hiện hành về phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn là một việc làm thiết thực nhằm luận giải các quy định của pháp


1


luật liên quan đến chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn, giúp cho
các bên thực hiện quyền của mình góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật,
tạo ra cách hiểu thống nhất, giúp cho việc giải quyết phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn kịp thời và hiệu quả, nhất là gắn với một địa phương cụ thể là
huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi, nơi hàng năm có khoảng 42,7% án ly hôn được giải
quyết trong tổng số án thụ lý.
Chính vì vậy, học viên chọn đề tài: “Phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh
Quảng Ngãi” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình là việc làm có tính
cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xoay quanh đề tài nghiên cứu đã có nhiều cơng trình khoa học như luận án
tiến sĩ, thạc sĩ, giáo trình, tài liệu chuyên khảo và các bài báo, tạp chí, chuyên đề
nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan về pháp luật hơn
nhân và gia đình nói chung, về tài sản của vợ chồng khi ly hôn nói riêng, cụ thể
như:
Sách chuyên khảo: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm
2000” của Nguyễn Văn Cừ - Ngơ Thị Hường, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002;“Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Điện, NXB
trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002;“Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ Việt Nam” của Nguyễn Văn Cừ, NXB Tư Pháp, Hà Nội, 2008.
Bên cạnh đó, một số đề tài nghiên cứu khoa học như:“Chế độ tài sản của vợ
chồng theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn
Văn Cừ, Đại học Luật Hà Nội, 2005; “Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh quan
hệ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”, Luận văn thạc
sĩ của Nguyễn Thanh Mai, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; “Chia tài

sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện”, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hạnh, Khoa Luật, Học viện khoa học xã
hội,2012. “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn”,

2


Luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Minh Mẫn, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
2014;
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành luật
như: “Một số vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân”
của tác giả Phan Tấn Pháp và Nguyễn Nho Hồng, tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
01(238)/2012; “Một số vấn đề về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn” của
tác giả Đỗ Văn Nhật, tạp chí Dân chủ và pháp luật số 03(240)/2012;“Một số vấn đề
cơ bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ và thực
tiễn giải quyết” của Thu Hương – Duy Kiên, tạp chí Tịa án nhân dân số
5,6/2013;“Một số vấn đề liên quan về chia tài sản chung” của Đặng Mạnh Cẩm
Yến, TAND quận Hai Bà Trưng – thành phố Hà Nội, tạp chí Tịa án nhân dân số 10,
2013;“Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật HN&GĐ Việt
Nam” của Nguyễn Văn Cừ, tạp chí Luật học số 4/2015.
Có thể thấy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về pháp luật hơn nhân và gia
đình với phạm vi nghiên cứu khác nhau, có giá trị nghiên cứu khác nhau liên quan
đến vấn đề tài sản của vợ chồng cũng như thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, vấn đề
phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ở một huyện miền núi cụ thể là
huyện Ba Tơ mà đối tượng đặc thù là người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm phần
chủ yếu đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu chun sâu, tồn diện về lý luận
và thực tiễn. Do đó, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống những

vấn đề lý luận và thực tiễn về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi;
trên cơ sở đó xác định nhu cầu hoàn thiện pháp luật và đưa ra một số quan điểm,
phương hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật trong việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn góp phần bảo
về quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng cũng như các cá nhân có liên quan.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận pháp lý và cơ sở thực tiễn về phân chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn.
Phân tích, đánh giá thực trạng việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hơn; tìm ra được những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập trong
quá trình áp dụng pháp luật tại huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua.
Xác định nhu cầu hoàn thiện pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định trong Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2014. Đồng thời, nghiên cứu việc áp dụng pháp luật để giải quyết các
vụ, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ,
tỉnh Quảng Ngãi. Trong phạm vi của đề tài, luận văn chỉ nghiên cứu giải quyết việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, cịn đối với việc phân chia tài sản

chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi vợ hoặc chồng chết, bị tịa án tun là đã chết khơng thuộc phạm vi nghiên cứu.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp và các quan điểm của Đảng,
pháp luật của Nhà nước điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình. Đồng thời, tác giả
còn sử dụng phương pháp điều tra, khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết
quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn.

4


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp hệ thống, phân tích, so
sánh, tổng hợp, thống kê và nghiên cứu những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi liên quan đến việc phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn; các bài viết, tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về những vấn đề lý luận, thực
tiễn việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại một huyện miền núi là
huyện Ba Tơ mà đối tượng đặc thù là người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm phần
chủ yếu từ đó nêu lên những thành tựu đã đạt được trong quá trình áp dụng pháp
luật quy định về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn. Bên cạnh đó, qua
thực tiễn phát hiện những vấn đề vướng mắc, bất cập trong các quy định của Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng như những khiếm khuyết, sai sót trong quá
trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề về phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là cho
các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định và nguyên tắc về phân chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hơn. Từ đó góp phần thực hiện pháp luật công bằng, dân chủ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về phân chia
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn
Để làm rõ nội hàm khái niệm, đặc điểm phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn cần thiết phải làm rõ một số khái niệm có liên quan:
Tài sản chung của vợ chồng là gì?
Hiện nay, trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về tài
sản, tuỳ thuộc vào góc độ và mục đích tiếp cận mà tài sản được định nghĩa và quy
định. Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản”. Theo Tiêu
chuẩn Thẩm định giá Việt Nam số 12: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản”. Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Tài sản là

của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản
theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Cịn khi phân loại tài
sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vơ hình”.
Như vậy, từ những định nghĩa trên có thể thấy rằng: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và những của cải vật chất có giá trị trong việc sản xuất hoặc tiêu dùng”.
Trên cơ sở đó, tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của
vợ chồng, là hình thức sở hữu chung đặc biệt. Tài sản chung vợ chồng là những tài
sản được hình thành hoặc tạo ra phù hợp với những căn cứ xác lập tài sản chung vợ
chồng theo quy định của Luật HN&GĐ và các quy định của pháp luật có liên quan
khác. Việt Nam có câu tục ngữ “của chồng công vợ”, nên tài sản chung của vợ
chồng không nhất thiết do hai vợ chồng trực tiếp tạo ra hoặc tạo ra ngang bằng
nhau. Song, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung
(ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung). Tài sản chung
của vợ và chồng chỉ được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các
6


nghĩa vụ chung của vợ, chồng. Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản chung của vợ, chồng cần phải được sự đồng ý của cả vợ và chồng.
Những tài sản có giá trị lớn (theo qui định của pháp luật) thì sự đồng ý này phải
được thể hiện bằng văn bản. Còn những tài sản khác thì khi vợ (hoặc chồng) xác
lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
gia đình thì đương nhiên được hiểu là đã được sự đồng ý của người kia. Theo quy
định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng được quy
định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung
hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để
bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng
đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản
chung.”
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Tài sản chung của vợ chồng là tài sản
thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Vợ, chồng có quyền,
nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung đó, bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và
và những của cải vật chất có giá trị trong việc sản xuất hoặc tiêu dùng. Tài sản
chung của vợ chồng có thể bao gồm bất động sản và động sản.
Vợ, chồng với tư cách là chủ thể của quan hệ hơn nhân và gia đình và cũng là
chủ thể của sử dụng tài sản chung vợ chồng khi tham gia quan hệ dân sự. Như vậy,
để xác định tài sản chung của vợ chồng theo luật định thì căn cứ vào các yếu tố sau:

7


Một là, thời kỳ hôn nhân – căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng
Theo quy định trên ta thấy, căn cứ quan trọng nhất khi xác định tài sản là tài
sản chung của vợ chồng hay không là sự ra đời và tồn tại quan hệ vợ chồng - thời
kỳ hôn nhân. “Thời kỳ hôn nhân” là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng,
được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân [36, khoản 13,
Điều 3]. Như vậy, thời kỳ hơn nhân được tính kể từ khi hai bên nam, nữ đăng ký kết
hôn - thời điểm phát sinh quan hệ vợ chồng trước pháp luật; việc đăng ký kết hơn
phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cơng nhận theo đúng thủ tục và các
điều kiện luật định. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Luật HN&GĐ
năm 2014 thì các quan hệ HN&GĐ xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp

dụng pháp luật về HN&GĐ tại thời điểm xác lập để giải quyết. Quy định này nhằm
để giải quyết hậu quả còn tồn đọng do tình trạng “hơn nhân thực tế” trong xã hội
trước khi có Luật HN&GĐ năm 2000 và Luật HN&GĐ năm 2014.
Để xác định khoảng thời gian tồn tại của thời kỳ hơn nhân thì việc kết hơn
giữa nam và nữ phải đáp ứng các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn. Thực tế có nhiều vợ chồng sống chung nhưng khơng đăng ký kết
hơn, khi phát sinh mâu thuẫn họ có xin ly hôn và phân chia tài sản. Tuy nhiên, pháp
luật Việt Nam chỉ công nhận trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ
chồng trước ngày 03/01/1987, đối với trường hợp này thì dù họ đăng ký kết hơn hay
khơng đăng ký kết hơn thì thời kỳ hơn nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ
chung sống với nhau. Đối với trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ
chồng sau ngày 03/01/1987 đến trước ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, có
đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn theo quy định tại Nghị quyết số
35/2000/QH 10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao thì họ có nghĩa
vụ đi đăng ký kết hơn trong thời hạn 02 năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày
01/01/2003. Nếu hết thời hạn này mà họ không đăng ký kết hơn thì khơng được coi
là vợ chồng nên khi có u cầu Tịa án khơng giải quyết việc ly hơn và chia tài sản
chung vợ chồng.

8


Vậy, căn cứ để xác lập tài sản chung của vợ chồng, trước hết phải dựa trên cơ
sở “thời kỳ hơn nhân” của vợ chồng. Tồn bộ tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân này được coi thuộc khối tài sản chung của vợ chồng trừ trường hợp vợ
chồng thực hiện phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân theo quy định tại Điều 40
Luật HN&GĐ năm 2014 hoặc có thỏa thuận tài sản của vợ chồng mà quy định
khác.
Hai là, dựa vào nguồn gốc tài sản

Tất cả những tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân là tài sản chủ yếu, cơ bản nhất trong khối tài sản chung của vợ chồng. Tài sản
này có thể do vợ hoặc chồng trực tiếp tạo ra thể hiện dưới dạng vật chất cụ thể như
nhà cửa, vật dụng trong gia đình…hoặc gián tiếp làm ra dựa trên công việc, năng
lực. Trên thực tế, thu nhập chủ yếu của các cặp vợ chồng thường là tiền lương, tiền
công lao động, những thu nhập và tài sản do vợ chồng làm kinh tế gia đình hoặc lợi
nhuận thông qua việc sản xuất, kinh doanh.
Trong xã hội ngày nay, lao động vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của mỗi
cơng dân. Chính vì vậy, vợ, chồng có thể tự do tham gia lao động, sản xuất kinh
doanh để tạo ra tài sản, nhưng đó phải là những lao động hợp pháp. Nhà nước ln
khuyến khích, tạo điều kiện cho các cá nhân có điều kiện mở rộng sản xuất, kinh
doanh. Bởi nó một mặt vừa mang lại tài sản để duy trì ổn định và phát triển gia
đình, mặt khác góp phần làm giàu cho xã hội. Thu nhập của vợ chồng gồm nhiều
loại, nhưng thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh là loại thu nhập
ổn định, cơ bản và chủ yếu.
Bên cạnh đó, các thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân như: tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp; hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ
chồng. Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2014. Hoa lợi, lợi tức phát sinh
từ tài sản riêng là thu nhập quan trọng của vợ chồng, nhằm duy trì đời sống chung
của gia đình nên pháp luật quy định đây là tài sản chung của vợ chồng.

9


Ngoài ra, những tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung cũng được xem là tài sản chung của vợ chồng. Đây là tài sản có tính chất đặc
thù trong khối tài sản chung vợ chồng, bởi tài sản này hình thành trên cơ sở ý chí
định đoạt của người khác và phải tuân theo quy định của pháp luật thừa kế và pháp

luật về tặng cho tài sản. Vợ chồng có thể được tặng cho hoặc được thừa kế chung
trong thời kỳ hôn nhân, những tài sản này đương nhiên thuộc khối tài sản chung vợ
chồng nếu hợp đồng tặng cho hoặc di chúc nêu rõ tặng cho chung, thừa kế chung
cho vợ, chồng. Trong thực tiễn, việc vợ chồng được tặng cho chung hay thừa kế
chung tài sản từ cha mẹ là khá phổ biến.
Ba là, tài sản chung của vợ chồng xác lập dựa trên ý chí của các bên (do vợ
chồng thỏa thuận)
Việc vợ, chồng thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung có thể là mặc
nhiên hoặc bằng văn bản. Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp sau được coi là
vợ chồng đã thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung, đó là vợ chồng bán tài
sản riêng để góp vào mua một tài sản mới, khi mua khơng có sự phân biệt về tỷ lệ
đóng góp sau đó vợ chồng đã đưa vào sử dụng chung; bên có tài sản riêng trong q
trình sử dụng, kê khai cấp giấy chứng nhận đã ghi tên cả hai vợ chồng trong đơn xin
đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng
không phải mặc nhiên những trường hợp nêu trên khi giải quyết tranh chấp đều
đương nhiên xác định đó là tài sản chung vợ chồng. Việc nhập tài sản riêng của vợ,
chồng vào tài sản chung là quy định mang tính mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với đặc
thù của quan hệ hôn nhân.
Quy định này thể hiện rõ quyền tự định đoạt của mỗi người đối với tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình, tự định đoạt việc nhập hay không nhập tài sản riêng
để trở thành tài sản chung của vợ chồng. Đây không những là nguyên tắc xuyên
suốt của BLDS, mà còn được cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ năm 2014. Chính vì
vậy, khi chủ sở hữu đã quyết định nhập tài sản riêng vào tài sản chung thì ta phải
tơn trọng quyền tự định đoạt đó của họ. Tức là chúng ta phải thừa nhận tài sản đó là
tài sản chung của vợ chồng.

10


Bốn là, xác định tài sản chung của vợ chồng dựa trên ngun tắc suy đốn

Do tính chất của quan hệ tài sản trong quan hệ hôn nhân là không có sự phân
biệt rạch rịi nên trong nhiều trường hợp tài sản chung - tài sản riêng của vợ, chồng
có sự trộn lẫn. Do đó, để đảm bảo cơng bằng, hợp lý cho các bên thì khi phân chia
tài sản các bên có quyền đưa ra các bằng chứng để chứng minh đó là tài sản riêng
của mình, nếu có căn cứ Tịa án sẽ cơng nhận đó là tài sản riêng của họ, nếu họ
khơng chứng minh được đó là tài sản riêng của mỗi bên thì đó là tài sản chung. Đây
là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2000 và được Luật HN&GĐ năm 2014 kế
thừa. Việc xác định tài sản chung căn cứ vào nguyên tắc suy đốn có ý nghĩa như
một ngun tắc có tính chất định hướng trong việc giải quyết các tranh chấp giữa
vợ chồng với nhau về nguồn gốc tài sản. Tuy nhiên, tác dụng của nguyên tắc này
chỉ dừng lại ở chỗ thiết lập một sự suy đốn, khơng có ý nghĩa khẳng định chắc
chắn tất cả các tài sản trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng.
Các căn cứ xác lập tài sản chung tạo ra đường lối giải quyết việc phân chia
tài sản chung của vợ chồng. Khi xác định được tài sản nào là tài sản chung của vợ
chồng thì việc phân chia như thế nào cho hợp tình, hợp lý, phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh và nhu cầu thực tế sử dụng của vợ chồng là vấn đề quan trọng là khâu
quyết định đến hiệu quả giải quyết tranh chấp về tài sản, nhất là khi hai vợ chồng ly
hơn.
Ta có thể hiểu, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa án quyết
định theo u cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng khi mà tình trạng
mâu thuẫn gia đình trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn
nhân khơng đạt được, từ đó vợ, chồng muốn hủy bỏ các trách nhiệm pháp lý và
trách nhiệm của hôn nhân cũng như các ràng buộc dân sự khác. Ly hơn có hai dạng
là thuận tình ly hơn (cả hai vợ chồng đều mong muốn và cùng ký vào đơn ly hôn)
và ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng, trong trường hợp này Tòa án
phải thụ lý để xem xét, giải quyết cho ly hôn. Cùng với sự chấm dứt về quan hệ hơn
nhân thì chế độ tài sản chung của vợ chồng cũng chấm dứt kể từ thời điểm ly hôn.

11



Phân chia tài sản chung của vợ chồng.
Tính chất của mối quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình ln có
sự thay đổi bởi chịu sự tác động của nền kinh tế thị trường. Dẫn đến, vợ, chồng ngày
càng có nhu cầu thực hiện các hoạt động kinh tế độc lập, khẳng định quyền tự do định
đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của riêng mình. Ngồi ra, trong cuộc sống gia đình
khơng phải lúc nào cũng “thuận buồm xi gió”. Vì vậy, khơng tránh khỏi phát sinh
mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Mâu thuẫn ngày càng lớn, vợ chồng khơng tìm được
tiếng nói chung, tình cảm rạn nứt dẫn đến hôn nhân đỗ vỡ. Từ đó dẫn đến vợ chồng
ly hơn và vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng được đặt ra.
Tuy nhiên, không phải trong bất cứ trường hợp nào, tài sản chung của vợ
chồng cũng có thể được phân chia. Theo quy định của pháp luật, việc phân chia tài
sản chung của vợ chồng có thể diễn ra trong thời kỳ hôn nhân; khi một bên vợ hoặc
chồng chết trước, bị tòa án tuyên bố là đã chết và trường hợp khi vợ chồng ly hôn.
Xuất phát từ thực tế trên, Luật HN&GĐ năm 2014 đã được các nhà làm luật
kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật HN&GĐ trước đây, bổ sung và xây
dựng các quy định về việc phân chia tài sản chung của vợ chồng để phù hợp với nhu
cầu thực tiễn.
Phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là việc dùng khối tài sản
chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân phân chia cho vợ, chồng và mỗi người
được nhận một phần tài sản trong khối tài sản chung đó; đồng thời được xác định
phần quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản đã được chia.
Bản chất của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng chính là việc chấm
dứt quyền sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với toàn bộ khối tài sản chung
của vợ chồng hoặc một phần khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi phân chia, tài
sản chung sẽ được chia thành từng phần tài sản xác định và xác lập quyền sở hữu
riêng của của vợ, chồng đối với phần tài sản được chia.
Những quy định của pháp luật về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn là cơ sở để vợ, chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
đối với tài sản của vợ chồng khi quan hệ hôn nhân chấm dứt nhằm bảo đảm lợi ích


12


cá nhân vợ và chồng..
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng có thể diễn ra cùng với việc vợ,
chồng xin ly hơn hoặc có thể diễn ra khi vợ chồng đã ly hơn vì thời điểm ly hơn vợ,
chồng không yêu cầu giải quyết về tài sản chung mà tự thỏa thuận, nhưng sau đó họ
khơng tự thỏa thuận được. Việc vợ, chồng yêu cầu phân chia về tài sản đồng thời
với việc ly hôn hoặc sau khi ly hôn đều được coi là vụ việc phân chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn. Mặc dù pháp luật đã có những quy định điều chỉnh vấn đề
giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn nhưng thực tiễn giải quyết lại rất phức
tạp, tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc trong q trình áp dụng pháp luật.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc giải quyết ly hôn và phân
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có trách nhiệm ra phán quyết chấm dứt quan hệ
hôn nhân của vợ chồng; là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà nước và được
tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ. Tịa án nhân dân là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia
đình nói chung cũng như việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn.
Ngồi ra, trong một số trường hợp, mặc dù thời kỳ hôn nhân chấm dứt, nhưng vợ
chồng lại khơng u cầu Tịa án giải quyết vấn đề tài sản của họ, đây là quyền tự
định đoạt của chủ sở hữu nên Tòa án tơn trọng quyết định của họ. Sau đó, có thể
vì một số lý do, hai bên phát sinh tranh chấp. Mặc dù lúc này quan hệ giữa họ là
quan hệ giữa các đồng sở hữu tài sản với nhau, nhưng nguồn gốc tài sản chung
vẫn từ quan hệ vợ chồng trước đây, nên Tòa án sẽ căn cứ vào cơ chế chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn tương ứng với các quy định tại Luật HN&GĐ hiện hành
để giải quyết.
1.2. Ý nghĩa của việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật về

HN&GĐ được Nhà nước qui định dựa trên sự phát triển của các điều kiện kinh tế xã hội. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong pháp luật của Nhà
nước, người ta (có thể) nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế -

13


xã hội (tính khách quan) và ý chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội
đó (tính chủ quan). Rõ ràng, tương ứng với mỗi chế độ xã hội cụ thể là một chế độ
HN&GĐ do Nhà nước qui định bằng pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán (trong
đó có các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước XHCN, khi qui định về chế độ
tài sản của vợ chồng đều ghi nhận trước hết quyền bình đẳng của vợ chồng về tài
sản, bảo đảm quyền sở hữu của vợ chồng đối với các loại tài sản giữa vợ chồng. Bởi
lẽ, để thực hiện và đạt được các quyền tự do, bình đẳng trong các quan hệ nhân thân
giữa vợ chồng (họ, tên, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, chỗ ở, nghề nghiệp...) thì trước
hết phải có bình đẳng thực sự trong quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng - cơ sở vật
chất bảo đảm cho các quyền nhân thân của vợ chồng. Nguyên tắc vợ chồng bình
đẳng với nhau về mọi phương diện là một trong các nguyên tắc cơ bản theo hệ
thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước XHCN.
Như vậy, trong mỗi chế độ xã hội cụ thể đều xây dựng một mơ hình (kiểu)
gia đình phù hợp với tính chất, kết cấu của chế độ xã hội đó. Lịch sử xã hội đã ghi
nhận nhiều hình thái gia đình tương ứng với chế độ chủ nô, phong kiến, tư sản và
gia đình XHCN với những đặc điểm và nội dung khác nhau, do các điều kiện kinh
tế - xã hội chi phối. Trong quan hệ gia đình (dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng), quan hệ vợ chồng có vai trị đặc biệt quan trọng. Cuộc sống chung của
vợ chồng, tính chất của quan hệ vợ chồng được xác lập địi hỏi phải có khối tài sản
chung của vợ chồng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, bảo đảm cho gia
đình tồn tại và thực hiện được các chức năng xã hội của nó.
Trước hết, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được pháp
luật của Nhà nước ghi nhận (dù là theo thỏa thuận hay theo các căn cứ pháp luật)

đều thực hiện vai trò nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng khi hôn nhân
chấm dứt, tạo điều kiện để vợ, chồng có những cách thức "xử sự" theo yêu cầu của
pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội;
Thứ hai, trong lĩnh vực HN&GĐ, Luật HN&GĐ điều chỉnh các quan hệ về
nhân thân và tài sản phát sinh giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành

14


viên khác trong gia đình; trong đó, Luật HN&GĐ điều chỉnh trước tiên và chủ yếu
nhóm các quan hệ nhân thân, nó quyết định tính chất và nội dung của nhóm quan hệ
tài sản (ví dụ, khi quan hệ vợ chồng được xác lập hay chấm dứt, lúc đó vợ, chồng
phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con).
Hiện nay, ở nước ta đang tiến hành chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đạo đức trong gia đình và
xã hội bị xuống cấp nghiêm trọng; đặc biệt đã nảy sinh các hành vi cha mẹ khơng
quan tâm, chăm sóc con cái do nhiều ngun nhân, trong đó có nguyên nhân về
kinh tế. Khi vợ, chồng ly hôn việc thực hiện và áp dụng việc phân chia tài sản
chung của vợ chồng góp phần củng cố, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
nhân thân giữa cha mẹ với các con.
Thứ ba, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn góp phần điều
tiết, ổn định quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Bởi, trong
suốt thời kỳ hơn nhân, nhằm đáp ứng lợi ích cá nhân vợ, chồng và quyền lợi của gia
đình; vợ chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân sự với những người khác. Nhờ có
quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn mà các giao dịch đó vẫn
được bảo đảm thực hiện, quyền lợi của vợ, chồng, của người tham gia giao dịch liên
quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ. Từ đó, khi vợ chồng thực hiện quyền sở
hữu của mình, vì lợi ích chung của gia đình, của cá nhân vợ, chồng hay vì lợi ích của
người khác được ổn định trong một trật tự pháp lý. Các kết ước liên quan đến tài sản

do vợ, chồng thực hiện theo những mục đích cụ thể đối với từng loại tài sản đều phát
sinh các hậu quả pháp lý nhất định. Trong đó, quyền lợi của người thứ ba tham gia
giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng cũng được pháp luật bảo vệ.
Tóm lại, việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nhằm tạo điều
kiện cho các bên tạo lập cuộc sống mới sau khi ly hôn, đảm bảo công bằng giữa vợ
và chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản cũng như có nghĩa vụ đối
với các con.

15



×