Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận cao học , lịch sử đảng việc củng cố và bảo vệ chính quyền địa phương ở nước ta thời kì 1946 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.52 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thành cơng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm, đồng
thời xố bỏ chế độ thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đế quốc kéo dài gần 100
năm trên đất nước ta. Tuy nhiên, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra
đời đã phải đương đầu với mn vàn khó khăn. Trước tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã phát huy cao độ sáng tạo, khéo
léo, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, đi
đến bến bờ vinh quang; Lãnh đạo nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai với phương châm vừa kiến quốc vừa kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.
Có thể thấy, từ khi lãnh đạo chính quyền, một trong những mối quan tâm
hàng đầu của Đảng ta là chǎm lo xây dựng, bảo vệ chính quyền nhân dân, làm
cho chính quyền ngày càng vững mạnh. Cùng với việc xây dựng, kiện toàn và
đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước ở Trung ương, Đảng và Nhà nước rất quan
tâm vấn đề tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Do đó, em chọn
đề tài: “Việc củng cố và bảo vệ chính quyền địa phương ở nước ta thời kì 19461954 là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa to lớn đối với sự thắng lợi chung của
cách mạng” làm bài thu hoạch của mình.


NỘI DUNG
I. Tình hình đất nước sau cách mạng Tháng Tám
1.1. Thuận lợi
Trải qua 15 năm đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, nhân dân ta, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành
công. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa
phong kiến, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một Nhà nước
cách mạng kiểu mới đã ra đời ở Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ mục đích và bản chất của Nhà nước Việt Nam


mới không phải là cơ quan cai trị dân, mà là để phục vụ nhân dân; các cơ quan
của Chính phủ từ tồn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, gánh việc
chung cho dân. “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho
dân ta phải hết sức tránh”.
Sau Cách mạng Tháng Tám, nước ta có những thuận lợi lớn. Hệ thống
chính quyền cách mạng được xây dựng từ Trung ương tới cơ sở trên cả nước. Từ
hoạt động bí mật, Đảng ta đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng, Mặt
trận Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh có uy tín lớn trong dân tộc, chính
quyền cách mạng được tồn dân ủng hộ. Phong trào cách mạng và tinh thần yêu
nước của nhân dân dấy lên từ cao trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tiếp
tục phát triển với những hình thức và nội dung mới nhằm xây dựng, bảo vệ
chính quyền, giữ vững thành quả cách mạng. Chính quyền địa phương của Nhà
nước kiểu mới được thành lập trong cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng
vũ trang giành chính quyền trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945. Các Ủy ban
giải phóng ra đời trong cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền
ở các huyện, các làng là hình thức chính quyền “tiền Chính phủ” của nhân dân
các địa phương khi ta chưa giành được chính quyền trong cả nước. Cách mạng
tháng Tám 1945 thành cơng, các Ủy ban giải phóng đã trở thành các ủy ban
nhân dân - là tổ chức chính quyền tiền thân của các Hội đồng nhân dân và ủy
ban nhân dân sau này.
1.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, nhân dân ta và chính quyền cách mạng phải
đương đầu với những khó khǎn, thử thách nặng nề. 
1


Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng, các thế lực đế quốc,
phản động quốc tế đã cấu kết, bao vây, chống phá hòng thủ tiêu mọi thành quả
cách mạng của nhân dân ta, đặt lại ách thống tri của chúng, xoá bỏ nền độc lập
mà dân tộc ta vừa giành được: Gần 20 vạn quân của chính quyền Tưởng Giới

Thạch (Trung Quốc) - Đồng minh của đế quốc Mỹ, kéo vào miền Bắc. Ở phía
Nam vĩ tuyến 16 (từ Đà Nẵng trở vào), cũng với danh nghĩa lực lượng Đồng
minh, quân đội Anh vào tước vũ khí quân Nhật. Trên thực tế, đế quốc Anh đã
giúp cho thực dân Pháp trở lại chiếm Việt Nam và cả Đông Dương. Ngày 23-91945, được quân Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm
Sài Gòn, mở đâu cuộc xâm lược tân thứ hai của thực dân Pháp hòng đặt lại ách
thống trị ở Việt Nam và Đông Dương.
Sự chống phá của các thế lực phản động ở trong nước như “Đảng Nam
Kỳ”, “Đảng Đông Dương tự trị”, Đại Việt cách mạng đảng, Việt Nam phục
quốc, Việt Cách, Việt Quốc… cũng là một thách thức lớn. Giặc ngoài, thù trong
cấu kết chặt chẽ với nhau hịng tiêu diệt chính quyền cách mạng non trẻ, trong
khi cách mạng Việt Nam còn chưa nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế.
Nhân dân ta và chính quyền cách mạng cịn phải vượt qua những khó
khǎn lớn về đời sống kinh tế - xã hội. Nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo nàn, lạc
hậu lại bị thực dân Pháp và phát xít Nhật vơ vét, bị chiến tranh và thiên tai tàn
phá nên lại càng nghèo hơn. Hậu quả nạn đói cuối nǎm 1944 đầu nǎm 1945 làm
2 triệu người chết chưa kịp khắc phục, thì nạn lụt lớn lại xảy ra, tàn phá 9 tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ. 50% ruộng đất bỏ hoang. 
Về kinh tế tài chính, cơng nghiệp chỉ có khơng q 200 nhà máy nhỏ bé,
trang bị cũ kỹ, đang lâm vào đình đốn, hàng hố khan hiếm. Tài chính quốc gia
gần như trống rỗng. Ngân hàng Đơng Dương vẫn nằm trong tay tư bản nước
ngồi. Chính quyền cách mạng chỉ tiếp quản được kho bạc với khoảng hơn 1,2
triệu đồng với phân nửa là tiền rách, không đưa vào lưu hành được.
Về xã hội, trên 90% số dân không biết chữ. Hầu hết số người được đi học
chỉ ở bậc tiểu học và vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có một học sinh cao đẳng hoặc
đại học và chủ yếu học ở ngành luật và ngành thuốc. Thực tế đó làm cho việc tổ
chức, hoạt động của chính quyền mới gặp khơng ít khó khǎn, lúng túng. 
Chính quyền cách mạng tiếp thu một đất nước đổ nát với nạn đói và sự
kiệt quệ về kinh tế, tài chính và biết bao hậu quả khác mà chế độ phong kiến,
thực dân để lại. Với những thử thách nặng nề đó, sự mất - cịn của chính quyền
2



đặt trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, nhiệm vụ xây dựng,
củng cố chính quyền được Đảng ta đặt lên hàng đầu. Đảng chủ trương bất kể
tình hình như thế nào cũng phải “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”.
Để xây dựng ngay cơ sở pháp lý cho tổ chức chính quyền địa phương, chỉ
vài tháng sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hai Sắc lệnh đầu tiên về tổ
chức chính quyền địa phương là: Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 về
tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ; Sắc lệnh
số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban hành
chính thành phố, khu phố.
Hai Sắc lệnh trên đã tạo tiền đề để cuộc kháng chiến của nhân dân ta được
tiến hành trong điều kiện đã có chính quyền cách mạng - cơng cụ mạnh mẽ và
hiệu lực để tổ chức, động viên nhân dân tham gia kháng chiến.
II. Đảng lãnh đạo xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền địa phương thời
kì 1946-1954
2.1. Những chỉ đạo chung của Đảng, Nhà nước để xây dựng, củng cố chính
quyền địa phương
Chính quyền địa phương cơ sở theo cách hiểu phổ biến của khoa học
hành chính là chính quyền cấp thấp nhất. Ở Việt Nam hiện nay, chính quyền địa
phương cấp thấp nhất được gọi là “cấp xã”. Chính quyền địa phương cơ sở là
chính quyền được tổ chức ra nhằm bảo đảm, bảo vệ và phục vụ quyền, lợi ích
của nhân dân, nhân dân là đối tượng cơ bản để chính quyền phục vụ.
Thời kì 1946-1954, với sự bao trùm của cuộc chiến tranh, đòi hỏi Đảng
ta phải nhanh chóng chuyển hướng xây dựng chính quyền ở các địa phương, đặc
biệt là vùng nông thôn rộng lớn - nơi chúng ta có thể xây dựng một hậu phương
vững chắc phục vụ cho cuộc kháng chiến. Nhận thức tầm quan trọng trên, một
thời gian ngắn sau ngày Tồn quốc kháng chiến, Trung ương Đảng, Chính phủ

đã nhanh chóng chuyển hướng xây dựng chính quyền địa phương thành hệ
thống tổ chức chiến đấu tập trung, thống nhất.
Ngày 28/12/1946, Chính phủ đã kịp thời ban hành sắc lệnh số 3/SI/82-2,
về việc tạm hoãn các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến các
cấp, kéo dài nhiệm kì làm việc của những cơ quan này trong tình hình mới.
Quyết định này phản ánh những khó khăn của thời kì mới. Do hồn cảnh chiến
3


tranh nên hoạt động của Hội đồng nhân dân không thể duy trì một cách bình
thường như trước. Mọi hoạt động của cơ quan Nhà nước địa phương đều tập
trung vào các ủy ban kháng chiến hành chính - cơ quan đầu não của chính quyền
địa phương. Đây là nét rất độc đáo trong xây dựng chính quyền của Đảng để
đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh.
Để thuận tiện trong việc chỉ đạo kháng chiến, phát huy khả năng độc lập
sáng tạo của các địa phương, sự phân chia các đơn vị hành chính ở nước ta có
nhiều thay đổi. Cả nước chia thành 4 cấp.
Đơn vị hành chính cao nhất là Liên khu, được thành lập theo Sắc lệnh
120 ngày 25-1-1948 trên cơ sở một số khu nhỏ trước đây. Các Liên khu này là
những vùng có địa thế gần nhau, cùng có vị trí chiến lược về quân sự, được tổ
chức lại cho phù hợp với tình hình kháng chiến, đồng thời giúp cho chỉ đạo của
Trung ương tới các địa phương được nhanh chóng kịp thời. Liên khu I: Cao
Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,Phúc Yên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải
Ninh, Hòn Gai, Quảng Yên. Sơn Liên khu III: Tây, Hà Đông, Hà Nam, Nam
Định, Ninh Bình, Hịa Bình, Hải Phịng, Kiến An, Thái Bình, Hưng Yên, Hải
Dương, Hà Nội. Liên khu IV: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên. Liên khu V: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên, Khánh Hịa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Viên, Đồng Nai Thượng, Gia
Lai, Công Tum, Đắc Lắc. Liên khu X: Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên
Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, huyện Mai Đà. Cuối năm 1949, Liên khu I và

Liên khu X hợp nhất thành Liên khu Việt Bắc (sắc lệnh số 127/SL ngày
4/11/1949).
Sau cấp Liên khu là cấp tỉnh. Các đơn vị hành chính trung gian có tên gọi
là phủ, châu, huyện, quận; nay thống nhất gọi là cấp huyện. Như vậy, trong thời
gian này, sự thay đổi lớn về tổ chức hành chính là việc thành lập một số Liên
khu, kéo theo sự thay đổi trong quá trình xây dựng, củng cố chính quyền ở các
địa phương.
Ngay sau ngày kháng chiến bùng nổ, ở các địa phương, bên cạnh Ủy ban
hành chính và Ủy ban quân sự, chính phủ cịn quyết định thành lập các Ủy ban
bảo vệ (sắc lệnh số 1 ngày 20/12/1946). Trong thời gian đầu, các ủy ban bảo vệ
có nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch kháng chiến của cấp trên, tổ chức các hoạt
động vũ trang chống địch bảo vệ chính quyền. Chiến sự lan tới đâu thì ủy ban
bảo vệ ở đó đổi thành Ủy ban kháng chiến.
4


Cơ cấu thành phần Ủy ban kháng chiến được quy định rõ ràng, chặt chẽ.
Ủy ban kháng chiến khu và tỉnh có một đại biểu quân sự, một đại biểu hành
chính và ba đại biểu nhân dân (sắc lệnh ngày 19/3/1947). Ủy ban kháng chiến
huyện gồm ba đại biểu là quân sự, hành chính, nhân dân. Ủy ban kháng chiến xã
gồm một đại biểu nhân dân, một đại biểu quân sự (sắc lệnh ngày 26/3/1947).
Ngày 1/10/1947, Chính phủ ra Sắc lệnh số 91 về hợp nhất Ủy ban hành
chính và Ủy ban kháng chiến từ cấp tỉnh trở xuống thành Ủy ban hành chính
kiêm kháng chiến. Ở cấp xã, ủy ban này có 5 ủy viên hành chính, một ủy viên
quân sự và một ủy viên nhân dân. Ở cấp huyện, tỉnh, gồm 7 ủy viên trong đó 3
ủy viên hành chính, 1 ủy viên quân sự và 3 ủy viên nhân dân.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ cịn ban hành hai sắc lệnh quan
trọng nhằm kiện toàn và củng cố bộ máy chính quyền ở địa phương: Sắc lệnh số
254/SL và Sắc lệnh 255/SL ngày 19/11/1948 quy định về cách tổ chức Hội đồng
Nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính ở các địa phương nói chung và

trong vùng bị tạm chiếm nói riêng.
Căn cứ vào những sắc lệnh trên, có thể thấy việc xây dựng chính quyền
địa phương có một số thay đổi chính sau:
- Tất cả các Ủy ban kháng chiến hành chính từ cấp xã đến cấp liên khu
đều phải đảm nhận một nhiệm vụ nặng nề là lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng
chiến chống Pháp trong phạm vi địa phương mình, đồng thời phối hợp với các
địa phương khác trong toàn quốc. Đây là nhiệm vụ trung tâm quan trọng hàng
đầu, chi phối mọi hoạt động của ủy ban trong suốt thời kì kháng chiến
- Ủy ban kháng chiến hành chính cấp liên khu ngồi những nhiệm vụ
chung cịn được trao thêm một số quyền hạn đặc biệt như: Quyền điều động
quân đội, quyền quyết định các kế hoạch kháng chiến, huy động lực lượng và
thực phẩm…trong phạm vi địa phương mình. Những quyền hạn này được áp
dụng trong trường hợp liên lạc với trung ương hết sức khó khăn mà yêu cấu
kháng chiến lại cần kíp.
- Trong hồn cảnh kháng chiến, lần đầu tiên quyền trực tiếp lãnh đạo và
điều khiển tất cả các cơ quan chuyên môn ở địa phương của các Ủy ban kháng
chiến hành chính được xác nhận trong các sắc lệnh trên.
Cùng với việc quy định về hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền địa
phương, Chính phủ, Bộ nội vụ và các bộ còn ra nhiều Sắc lệnh, Thông tư, chỉ thị
quy định, hướng dẫn cách làm việc, mối quan hệ giữa chính quyền dịa phương
5


và các cơ quan chuyên môn…nhằm tăng cường mối quan hệ với nhân dân, đơn
giản gọn nhẹ bộ máy chính quyền, phân công phân nhiệm, làm cho công tác chỉ
đạo kháng chiến ngày càng đi vào nề nếp.
2.2 - Xây dựng chính quyền ở vùng địch tạm chiếm và các khu du kích
Trong thời kì 1946-1954, để tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng lâu
dài, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, Đảng đã ra sức giữ
vững và củng cố chính quyền ở các khu du kích và những vùng địch tạm chiếm.

Vùng tạm chiếm là những nơi địch đã kiểm sốt hồn tồn, chính quyền địch
đã thành lập và hoạt động cơng khai. Chính quyền ta hoặc bị phá, hoặc vẫn cịn
nhưng khơng thể hoạt động cơng khai. Địch đóng vị trí và đi lại tự do, các tổ chức
Việt gian, gián điệp hoạt động cơng khai. Bộ đội ta có thể tồn tại bí mật, các tổ chức
quần chúng của ta bị địch phá, hoặc phải hoạt động bí mật. Dân chúng bị địch kiểm
sốt, bắt buộc phải theo luật lệ của chính quyền địch. Chủ trương của chính quyền
cách mạng khơng thể thi hành hoặc có thi hành phải bí mật.
Vùng du kích là những vùng địch và ta phải giằng co, sự đấu tranh ở đây
rất ác liệt và phức tạp. Chính quyền của ta tồn tại và làm việc cơng khai hay bán
cơng khai, Chính quyền của địch vẫn cịn phạm vi hoạt động và ảnh hưởng đã
hạn chế. Bộ độ địa phương và dân quân du kích của ta đi lại hoạt động được
nhưng chưa đủ sức để đối phó với tất cả các cuộc đánh phá của địch. Các tổ
chức quần chúng của ta tồn tại và làm việc công khai hay bán công khai. Địch
củng cố cứ điểm nhưng khơng kiểm sốt được địa phương, tổ chức Việt gian,
gián điệp hoạt động công khai hay bán công khai. Đời sống của nhân dân ta
được bảo vệ nhưng luôn luôn bị uy hiếp, nhân dân chấp hành mệnh lệnh chính
phủ cách mạng nhưng đối với địch cũng bị chúng khống chế một phần.Vùng
tạm chiếm và vùng du kích khơng có ranh giới rạch rịi, ln biến động và thay
đổi theo sự phát triển của cuộc đấu tranh giữa ta và địch.
Sau thất bại ở Việt Bắc - Thu đông năm 1947, âm mưu đánh nhanh, thắng
nhanh của thực dân Pháp bị phá sản, chúng quay sang bình định rất dữ dội vùng
tạm chiếm, lập hệ thống chính quyền bù nhìn, thực hiện chính sách “dùng người
Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Để phá tan âm mưu của
địch, ta phát động phong trào chiến tranh du kích rộng lớn, đưa chiến tranh vào
sâu trong lịng địch nhằm phá nát thế kìm kẹp của chúng, biến hậu phương của
chúng thành tiền phương, thậm chí thành hậu phương của ta.

6



Cùng với sự phát triển của kháng chiến, vùng tạm chiếm ngày càng thu
hẹp, khu du kích ngày càng mở rộng. Đặc biệt là sau thời kì Đơng Xn 19531954, khu du kích phát triển có tính nhảy vọt, tạo thành thế liên hoàn, làm ruỗng
nát hậu phương của kẻ thù. Ở vùng tạm chiếm, hầu như ta chỉ có cơ sở chính trị
và đấu tranh chính trị là chủ yếu. Chính quyền ta hoặc bị phá, hoặc vẫn cịn
nhưng không thể hoạt động được.
Ở vùng tạm chiếm, địch dựa vào bọn tay sai lập ra chính quyền Ngụy. Do
đó từ năm 1948 trở đi, chúng ta có chủ trương nắm tề, diệt tề. Các cấp lãnh đạo
nhiều nơi lập ra chính quyền ngụy trá hình. Một số đảng viên bề ngồi tham gia
chính quyền địch, bên trong cung cấp thông tin địch cho ta. Đây là một biện
pháp cần thiết thể hiện sự năng động, sáng tạo của Đảng ta trong xây dựng chính
quyền, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những tổn thất của ta ở vùng tạm chiếm.
Một tình hình khá phổ biến ở vùng tạm chiếm là nhiều nơi phong trào
quần chúng mạnh, tuy chưa có chính quyền cách mạng nhưng uy tín của Việt
minh có ý nghĩa như một chính quyền thực sự. Các tổ chức của Việt Minh đã
chủ trương lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống lại âm mưu chia rẽ của giặc
Pháp trong việc tạo ra những cái gọi là “Xứ Nùng tự trị”, “xứ Thái tự trị”,” “xứ
Mường tự trị”, chống lại âm mưu “dùng người Việt chống người Việt”….
Đối với vùng du kích, chính quyền ta hoạt động cơng khai, hoặc bán cơng
khai song song với chính quyền địch. Ở những vùng này, sự tồn tại của chính
quyền rất khó khăn và đặc biệt. Có nơi chính quyền địch làm chủ ban ngày, cịn
ban đêm, chính quyền cách mạng hồn toàn khống chế. Một số nơi ta sử dụng
ngay tổ chức tề ngụy để che mắt địch, rào làng chiến đấu, mua sắm vũ khí. Ở
những nơi này, hội tề hoàn toàn trên danh nghĩa làm nhiệm vụ liên hệ với địch
giải quyết những cơng việc thường nhật, cịn Ủy ban kháng chiến hành chính
mới thực sự tổ chức điều hành mọi cơng việc kháng chiến. Nhìn chung, cơng tác
xây dựng chính quyền trong vùng tạm chiếm và khu du kích gặp nhiều khó khăn
do những biến động của cuộc chiến. Hoạt động của chính quyền cách mạng ở
vùng tạm chiếm, vùng du kích phần lớn là tự động cơng tác trong trường hợp
mất liên lạc với cấp trên.
2. 3 - Xây dựng chính quyền ở vùng tự do

Bên cạnh vùng tạm chiếm là những vùng tự do. Ở vùng tự do, cách mạng
làm chủ hồn tồn, chính quyền hoạt động cơng khai, mọi chủ trương và chính
sách của Đảng, Chính phủ được thực hiện, nhân dân được hưởng các quyền tự
7


do, dân chủ. Điển hình là các vùng tự do như khu IV, khu V ở Trung bộ, khu IX
ở Nam bộ và đặc biệt là Việt Bắc - khu căn cứ địa của cuộc kháng chiến cả
nước.
Các vùng tự do không ngừng được mở rộng theo sự lớn mạnh của cách
mạng. Trong những năm cuối của cuộc kháng chiến, Việt Bắc đã được mở rộng
từ Tây sang Đông, đánh thơng với khu IV, và qua đó nối liền với vùng giải
phóng Lào. Tại những vùng tụ do này, có thể xây dựng hâu phương tồn diện
với quy mơ ngày càng rộng lớn để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc
chiến tranh nhất là chiến tranh chính quy.
Tháng 1/1949, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 6 họp kiểm điểm cơng
tác xây dựng chính quyền qua hai năm kháng chiến và chỉ ra 8 công việc phải
làm để củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.1
Tháng 2/1950, trong Thư gửi Hội nghị kháng chiến hành chính tồn quốc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh với những vấn đề quan trọng như: chỉnh đốn
và kiện toàn bộ máy chính quyền, sửa đổi và thống nhất cách làm việc, thiết
thực thực hiện quân dân nhất trí, giải quyết vấn đề cán bộ, chỉnh đốn và đẩy
mạnh phong trào thi đua ái quốc.2
Thực hiện các chủ trương trên, ngày 19/4/1949, Bộ Nội vụ ra Thông tư số
814/NV/TC về việc bầu cử Hội đồng nhân dân xã và tỉnh. Ngày 25/4/1949,
Chính phủ ra Sắc lệnh 29/SL cho phép bầu lại hội đồng nhân dân tỉnh. Ngày
22/5//1950, Chính phủ ra tiếp sắc lệnh 80 về bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
xã theo tinh thần của sác lệnh 63/SL ngày 22/11/1945. Sắc lệnh ghi rõ trong
những vùng bị địch uy hiếp, Bộ trưởng bộ Nội vụ có thể tạm hỗn bầu cử Hội
đồng nhân dân tỉnh, chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh có thể tạm

hỗn bầu hội đồng nhân dân xã. Các sắc lệnh trên được triển khai trong các vùng
tự do và một số vùng thuộc căn cứ du kích.
Theo báo cáo của Bộ Nội vụ gửi Văn phịng Chính phủ thì tồn quốc đã
bầu Hội đồng nhân dân xã khóa 2, Tỉnh Thanh Hóa (vùng tự do) có 206.918 cử
tri đi bầu, chiếm 99%, đứng đầu toàn quốc. Ngoài ra,một số lớn tỉnh cũng bầu
hội đồng nhân dân tỉnh khóa 2, số người đi bỏ phiếu rất đơng. Tỉ lệ cử tri đi bầu
có thấp hơn so với Hội đồng nhân dân xã , song nói chung vẫn cao. Ở Quảng
Ngãi (vùng tự do), tỉ lệ cử tri đi bầu chiếm 89%.
1
2

Văn kiện Đảng 1949-1950, tập II, q2, BNCLSĐTƯ,H, 1979,114
Hồ Chí Minh Tồn tập, tập V,NXB Sự thật, H, 1985, 345

8


Đại hội đại biểu toàn quốc lần 2 đầu năm 1951 đã diễn ra trong tình hình
thế giới và trong nước có những biến chuyển: sau chiến thắng Biên giới, cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam nhận được sự chi viện của các nước anh em
trong phe xã hội chủ nghĩa. Cùng từ năm 1950 trở đi, Mĩ ngày càng can thiệp
sâu vào các nước ở bán đảo Đông Dương. Được Mĩ viện trợ, thực dân Pháp đã
đề ra chủ trương mới với nội dung chủ yếu là xây dựng lực lượng chủ lực cơ
động mạnh, tăng cường lực lượng ngụy quân, xây dựng tuyến phòng ngự bao
quanh vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ để ngăn chặn chủ lực ta, tăng cường
bình định vùng địch tạm chiếm, tiến công phá căn cứ của ta và chuẩn bị tiến
cơng ra chiếm các vùng tự do.
Trước tình hình trên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần 2 đã quyết định đưa
Đảng ra hoạt động công khai, củng cố, tổ chức bổ sung và hoàn chỉnh đường lối
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong giai đoạn mới, nhằm đưa cuộc

kháng chiến đến thắng lợi hồn tồn. Do đó, trong giai đoạn này, Đảng, Chính
phủ đã có nhiều biện pháp kiên quyết và thích hợp để kiện tồn nhà nước cách
mạng.
Ngun tắc kiện tồn chính quyền là phải thực sự dân chủ, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, kiện toàn các cơ quan Nhà nước trước hết là kiện tồn
“thành phần cơng nơng, nhất là trong các Hội đồng nhân dân, ủy ban kháng
chiến hành chính các cơ quan kinh tế, công an”, “việc đề bạt công nông giữ địa
vị và công việc ngày càng quan trọng hơn trong các cơ quan chính quyền là một
điểm cấp thiết”3.
Nam 1952, một số nơi đã tiến hành trong toàn quốc đã tiến hành bầu cử
hội đồng nhân dân tỉnh xã khóa 3 và kiện tịan Ủy ban kháng chiến hành chính
theo các thơng tư, sắc lệnh của Chính phủ. Kết quả, ở như một số tỉnh như
Tuyên Quang: 70% đi bầu, ứng cử: 39, số hội viện chính thức: 20. Trong đó,
cơng nhân: 1, bần cố nơng: 2, trung nơng: 12, tiểu tư sản: 54
Cùng với việc kiện toàn hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành
chính các cấp một số liên khu được chấn chỉnh.
Chính quyền liên khu là nhà nước cao nhất ở địa phương. Việc xây dựng
liên khu trở thành một đơn vị kháng chiến tương đối độc lập là chủ trương đúng
đắn của Đảng, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của các địa phương. Bên
3

Văn kiện Đảng 1951-1952, Tập III, ,q1, BNCLSĐTƯ,H,1980,397
Báo cáo thành tích xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân trong 8 năm kháng chiến của bộ nội vụ,
BNV- 930/TL,ĐVBQ,685, Tài liệu khối nội chính TTLTQGI
4

9


cạnh liên khu, cấp tỉnh, cấp huyện cũng được tăng cường tạo ra một guồng máy

nhịp nhàng, gọn nhẹ phục vụ kháng chiến. Cấp xã được Đảng, Chính phủ quan
tâm đặc biệt, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, cấp bách trong q trình xây
dưng bộ máy chính quyền cách mạng nói chung và ở địa phương nói riêng thời
kì kháng chiến.
2.4 - Kiện tồn và củng cố chính quyền cấp xã
Trong hệ thống chính quyền địa phương, cấp xã được coi là các chính
quyền cơ sở. Mỗi địa phương là một đơn vị cấu thành từ cấp cơ sở và trong thể
thống nhất của cả nước. Chính quyền địa phương nói chung và cấp cơ sở nói
riêng có vai trị cực kì to lớn tạo nên sức mạnh của Nhà nước Việt Nam. Nói về
vai trị của cấp cơ sở, Bác Hồ chỉ rõ: làng xã là nền tảng của nước nhà, làng có
tốt thì nước mới mạnh.
Sau khi giành chính quyền, Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến việc kiện
tồn, củng cố chính quyền cấp xã. Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 tiếp đến là
Hiến pháp 1946 đã đặt nền tảng pháp lý cho quá trình xây dựng chính quyền cấp
xã: “Ở tỉnh, thành phố, thị xã, và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ
thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra
Ủy ban hành chính” (Điều 58)..Từ năm 1946 đến 1954, Nhà nước đã có trên
dưới 50 sắc lệnh, Nghị định, Thơng tư về kiện tồn củng cố chính quyền cấp xã.
Ngày 23/3/1951, Bộ Nội vụ ra thông tư số 62 “Kế hoạch củng cố chính
quyền cấp xã”, đã quy định mọi cơng dân Việt Nam đều có quyền tham dự
chính quyền , tham gia ý kiến cơng việc chính quyền, song về thực tế, mọi công
dân Việt Nam không cùng tham gia trong các cơ quan chính quyền, do đó cơng
dân có quyền bầu một số người thay mặt mình ở những cơ quan ấy.
Cuối năm 1949-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp bổ túc chỉ đạo
lớp “bổ túc cấp xã” do Bộ nội vụ tổ chức. Liên khu Việt Bắc đã huấn luyện cho
hầu hết cán bộ xã, đào tạo được 90 cán bộ nòng cốt cho huyện, phần lớn thuộc
thành phần các dân tộc thiểu số.
Tại Nam Trung bộ, cũng triển khai đề án cấp xã, tiến tới bỏ cấp thôn. Hơn
200 cán bộ xã được huấn luyện về nhiệm vụ và chức năng, phương pháp làm
việc của chính quyền cấp cơ sở. Tại Nam bộ, trong điều kiện xa trung ương,

cuối năm 1952, việc chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ khu vực đến xã cũng
được triển khai.

10


Ngày 14/6/1952, Chính phủ ra sắc lệnh số 95/SL “quy định số lượng, thể
lệ bầu củ Ủy ban kháng chiến hành chính xã” nhằm chấn chỉnh một bước cơ
quan kháng chiến hành chính địa phương. Triển khai sắc lệnh này, trung ương
đã chọn một số xã tại Liên khu IV để chỉ đạo thí điểm là: xã Ngọc Thọ (Thanh
Hóa), Thịnh Văn (Hà Tĩnh) và các xã huyện Nam Đàn…sau đó triển khai rộng
rãi tồn liên khu. Năm 1952, Thanh Hóa có 186 xã, ở trung châu đã chấn chỉnh
được 89 xã. Thọ Xuân chấn chỉnh 18/23 xã, Yên Định 9/12 xã…
Khi cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước vào những năm tháng cuối
cùng, điều kiện cách mạng cho phép Đảng và Nhà nước phát động quần chúng
thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất. Thực tế, “một số nơi đã để cho bọn địa
chủ cường hào hoặc tay sai của chúng lọt vào chính quyền nắm giữ, phản lại
nhân dân”. Trước tình trạng đó, ngày 16/5/1953, Hội đồng Chính phủ ra Thơng
tư số 265/TT về việc chỉnh đốn thành cán bộ xã.
Thực hiện Thông tư, năm 1953 ta kết hợp chỉnh đốn chính quyến xã nhằm
vào 3 cơng tác chính: Chỉnh đốn cán bộ xã, chia xã chấn chỉnh bộ máy và lề lối
làm việc của xã. Kết quả 2 cuộc phát động quần chúng ở vùng tựu do, 185 xã cũ
đã gạt ra ngồi chính quyền nhiều ủy viên ủy ban hành chính kháng chiến xã,
hầu hết là không đủ năng lực và phẩm chất. ủy ban kháng chiến hành chính của
114 xã mới, có 63 % là bấn cố, 33% trung nông, 4% tầng lớp khác, 85 xã mới có
85/732 ủy viên là người dân tộc.
Tuy nhiên, do tình hình chiến tranh nên cơng việc củng cố chính quyền
cấp xã khơng đều. Chính vì vậy, một số nơi, chính quyền cơ sở chưa phát huy
được sức mạnh của mình. Cấp xã được coi là cấp cơ sở của hệ thống chính
quyến nhân dân, nhưng trên thực tế, nhiều nơi trong kháng chiến vẫn tồn tại cấp

thôn và như vậy mối quan hệ giữa nhà nước từ xã đến nhân dân phải thông qua
một cấp trung gian - một cấp chưa được thừa nhận về mặt pháp lí.
III. Đánh giá cơng tác xây dựng chính quyền địa phương của Đảng trong giai
đoạn 1946 - 1954
Dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng, chính quyền cách mạng được xây
dựng từ trung ương đến địa phương. Trong đó, bộ máy chính quyền địa phương
thời kì 1946-1954 đã thực sự phát huy được vai trị của nó trong cơng cuộc
kháng chiến kiến quốc. Chính quyền địa phương thời kì này thông qua cơ cấu,
hoạt động đã thể hiện rõ vai trị là chính quyền của dân, do dân, vì vân, đáp ứng
những yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của đông đảo quần chúng nhân dân.
11


Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, chúng ta đã phân
biệt rõ sự khác nhau trong việc quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền ở vùng
nơng thơn với quản lý và tổ chức bộ máychính quyền ở đơ thị. Vì vậy, Chính
phủ đã ban hành 2 Sắc lệnh riêng để quy định về hai mô hình tổ chức chính
quyền địa phương ở địa bàn nơng thôn (xã, huyện, tỉnh theo Sắc lệnh số 63) và
mô hình tổ chức chính quyền ở đơ thị (thành phố, khu phố theo Sắc lệnh số 77).
Trong các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động của HĐND
và UBHC, nhất là trong thời kỳ kháng chiến 1946 - 1954, vị trí, vai trị và thẩm
quyền của UBHC các cấp được tăng cường, đề cao hơn HĐND. HĐND các cấp
đặt dưới sự giám sát tương đối chặt chẽ và toàn diện cả về tổ chức, cả về hoạt
động của các cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên (cơ quan hành chính cấp
trên chuẩn y kết quả bầu UBHC cấp dưới, chuẩn y các nghị quyết HĐND cấp
dưới về nhiều vấn đề). Sự giám sát này được xem như sự giám hộ hành chính do
các cơ quan hành chính cấp trên thực hiện với tư cách người đại diện cho Chính
phủ bảo đảm cho nền hành chính hoạt động thống nhất và thông suốt và nhằm
xây dựng và thực hiện một chính quyền mạnh mẽ của nhân dân. Vì HĐND các
cấp có quyền quyết định về mọi vấn đề của địa phương nếu không trái với mệnh

lệnh của cấp trên, tất cả UBHC các cấp đều do HĐND cùng cấp hoặc các
HĐND cấp dưới bầu ra, riêng UBHC khu phố còn do cử tri trực tiếp bầu ra.
Bên cạnh đó, cơng cuộc xây dựng và củng cố chính quyền ở địa phương
thời ki 1946-1954 cũng không tránh khỏi những hạn chế: thực hiện dân chủ
thực sự trong xây dựng bộ máy chính quyền ở địa phương chưa có điều kiện đầy
đủ để phát huy. Năm 1949, 1952 ta có chủ trương tiến hành bầu cử hội đồng
nhân dân tỉnh, xã nhưng cũng chỉ ở những nơi có điều kiện. Vai trò của HĐND
một số nơi còn mờ nhạt. Một số địa phương do điều kiện khó khăn, HĐND,
UBHCKC do cấp trên chỉ định. Do biến động của chiến tranh và yêu cầu của
nhiệm vụ cách mạng, các đơn vị hành chính kháng chiến thường xuyên được
điều chỉnh, kéo theo sự thay đổi của bộ máy chính quyền. Điều này dẫn đến sự
chệch choạc ban đầu của bộ máy chính quyền địa phương. Ngồi ra, việc chia
nhỏ xã, xóa thơn, lấy xã là đơn vị hành chính thấp nhất ở một số địa phương còn
chưa phù hợp. Trên thực tế, chính quyền địa phương vẫn phải thơng qua cấp
thơn, xóm, bản làng để nắm tình hình và huy động nhân tài vật lực cho kháng
chiến.

12


KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ máy chính
quyền từ trung ương đến địa phương đã không ngừng được xây dựng và củng
cố. Đảng đã dựa chắc vào nhân dân, bắt rễ trong lịng dân tộc. Nhờ đó đã tạo ra
một nguồn sức mạnh vô cùng to lớn để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc,
hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải
phóng hồn tồn miền bắc và đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội với những
thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn
thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn miền bắc đối với tiền tuyến lớn

miền nam
Hiện nay, xu hướng chung của các nhà nước dân chủ trên thế giới là tổ
chức chính quyền địa phương theo nguyên tắc tự quản. Liên minh Châu Âu năm
1985 đã thông qua Công ước về tự quản địa phương, nên đối với những nước mới
muốn xin gia nhập Liên minh Châu Âu thì một trong những điều kiện địi hỏi là
phải tham gia Cơng ước này. Hiện nay Liên hợp quốc đang tiến tới xây dựng và
thông qua Hiến chương quốc tế về tự quản địa phương. Vì vậy, chúng ta cần
nghiên cứu tiếp thu những kinh nghiệm hay của tổ chức tự quản địa phương,
những điều kiện và khả năng có thể áp dụng được ở nước ta để hướng tới đổi mới
một cách cơ bản tổ chức chính quyền địa phương trong giai đoạn mới.

13


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng, “Ba mươi lăm năm đấu tranh của Đảng”,
TII, , NXB Sự thật, HN, 1972
2. ThS. Nguyễn Huy Cát “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình xây
dựng, củng cố bộ máy chính quyền cách mạng thời kì 1945-1960”, HN, 2005
3. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, T II, NXB GD

14



×