Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận cao học tư tưởng hồ chí minh về kinh tế đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.89 KB, 34 trang )

1

MỞ ĐẦU
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những quan sát
và phân tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề quốc tế và thời đại,
cách ứng xử của Người trên trường quốc tế đã hình thành nên hệ thống lý
luận, quan điểm, nguyên lý thực tế, sâu sắc cũng như những hành động đối
ngoại chuẩn mực, hiệu quả, định hướng cho việc hoạch định chính sách đối
ngoại của Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về các vấn đề
quốc tế, chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế
giới. Các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo đó được thể hiện
trong các giai đoạn cách mạng và là nền tảng cho mọi thắng lợi của ngoại
giao Việt Nam suốt 70 năm qua với nhiều bài học kinh nghiệm. Dó đó, em
chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại” làm bài thu
hoạch của mình nhằm góp phần tìm hiểu sâu sắc, tồn diện hơn về tư tưởng
kinh tế đối ngoại của Người.


2

NỘI DUNG
1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại
1.1. Tư tưởng kinh tế đối ngoại Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát
triển truyền thống ngoại giao của dân tộc
Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã
phải nhiều lần đứng lên đấu tranh để bảo vệ nền độc lập của mình bằng mọi
hình thức, trong đó có đấu tranh ngoại giao. Vì vậy, lịch sử ngoại giao của
nước ta đã ghi lại biết bao kỳ tích, huyền thoại, thể hiện sáng ngời ý chí độc
lập, sách lược linh hoạt, tài ba ứng đối của cha ông ta.
Ngay từ thời xa xưa, nước Đại Việt là một nước láng giềng của


Trung Quốc nhưng phải luôn luôn đương đầu với chính sách bành trướng,
xâm lược của phong kiến Trung Hoa. Vì vậy hoạt động ngoại giao của Đại
Việt trong lịch sử chủ yếu nhằm đối phó với đế chế Trung Hoa, khi cịn bị
họ đơ hộ cũng như khi ta đã giành lại độc lập, khi dùng quân sự, lúc chính
trị - ngoại giao, cương nhu khác nhau, tùy tương quan lực lượng mỗi thời
kỳ. Trước hết là truyền thống “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí
nhân thay cường bạo”. Để bảo vệ độc lập dân tộc và từng tất đất của non
sơng gấm vóc, cha ông ta đã kiên quyết chiến đấu hy sinh, không chút nhân
nhượng; nhưng khi đất nước đã được giải phóng, non sơng đã quy về một
mối, kẻ thù đã chịu đầu hàng thì cha ơng ta lập tức chuyển ngay sang chính
sách ngoại giao hịa hiếu, tạo điều kiện cho họ rút về nước, “đi thủy cho
thuyền, đi bộ cho ngựa”, nhằm nối lại mối giao hảo giữa hai nước để tạo ra
cuộc sống yên bình cho nhân dân.
Như vậy, qua hàng nghìn năm đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, ông cha ta
đã để lại cho chúng ta những bài học vô giá về ngoại giao:
Một là, kiên quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích
dân tộc lên trên hết.


3

Hai là, giữ vững nguyên tắc, nhưng có sách lược thích hợp, khi
cương khi nhu. Với Trung Quốc, ơng cha ta ứng xử theo phương châm:
trong xưng đế, ngoài xưng vương, nghĩa là giữ vững chủ quyền độc lập,
nhưng nhân nhượng, hịa hiếu những vấn đề khơng phải ngun tắc.
Ba là, kết hợp quân sự và ngoại giao, chiến đấu trên chiến trường và
trên bàn hội nghị, vừa đánh vừa làm, lúc dùng ngoại giao phục vụ chiến
trường, lúc dùng thắng lợi trên chiến trường phục vụ ngoại giao.
Bốn là, biết mình, biết người, nắm bắt xu thế phát triển để xác định
mục tiêu, chính sách.

Đó là những kinh nghiệm quý báu mà Hồ Chí Minh đã kế thừa và
sau này nâng lên một tầm cao mới, là hành trang vơ giá để ngoại giao Việt
Nam nói chung và kinh tế đối ngoại Việt Nam nói riêng ngày nay bước lên
vũ đài quốc tế.
1.2. Tư tưởng về kinh tế đối ngoại Hồ Chí Minh là sự kế thừa
truyền thống đối ngoại dân tộc và tinh hoa cổ kim đông tây, được nâng
lên một tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin; nó thấm
nhuần sâu sắc chủ nghĩa yêu nước với tinh thần quốc tế trong sáng, chủ
nghĩa nhân đạo với tinh thần cách mạng tiến cơng.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng kinh tế đối ngoại của Hồ Chí Minh
được hình thành và phát triển qua nhiều năm tháng ngay từ khi Người bôn
ba qua nhiều nước, tìm đường cứu nước. Người đã hấp thu tinh hoa văn hóa
của nhân loại, Đơng và Tây; đã tiếp thu những thành tựu dân chủ và tiến bộ
của các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu ở Châu Âu, Châu Mỹ, đặc biệt là
tinh thần đấu tranh cho độc lập, tự do của cách mạng Mỹ; lý tưởng tự do,
bình đẳng, bác ái của cách mạng tư sản Pháp... Trên cơ sở đó, Người đã suy
ngẫm nhiều phương cách để giải phóng đất nước, giành độc lập cho dân tộc
và mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Q trình trải nghiệm ấy cùng
với tầm nhìn xa trơng rộng của mình đã giúp cho Hồ Chí Minh tìm được


4

con đường cứu nước đúng đắn giành lại độc lập, tự do cho tổ quốc, hạnh
phúc cho nhân dân. Và một trong những con đường đó chính là có được
đường lối ngoại giao đúng đắn, tư tưởng kinh tế đối ngoại tài ba...
2. Tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại
2.1. Hồ Chí Minh sớm có tầm nhìn chiến lược về kinh tế mở.
Trước hết, chúng ta cần phải khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng phải là người đầu tiên đưa ra tư tưởng về ngoại giao nói chung và

kinh tế đối ngoại nói riêng, nhưng Người lại là một nhà ngoại giao kiệt xuất,
là một trong số ít những vị lãnh tụ cách mạng đã đi, quan sát, nghiên cứu và
tìm hiểu ở nhiều nước trên thế giới. Vì vây, tư duy về chính sách mở cửa
hội nhập kinh tế quốc tế đã sớm hình thành trong tư tưởng của Người. Ngay
từ lúc ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nhận thức rõ ý nghĩa của
việc mở rộng quan hệ quốc tế đối với mỗi quốc gia và sự phát triển chung
của nhân loại. Theo Người, sức mạnh của mỗi quốc gia, dân tộc không chỉ
phụ thuộc vào con người, tài nguyên, vị trí, truyền thống của nước ấy, mà
một phần quan trọng tùy thuộc vào các mối liên kết quốc tế. Vì vậy, cách
đây hơn 80 năm, vào năm 1919, ngay khi còn chưa trở thành người cộng
sản, đang bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có một nhận xét có
thể nói là vượt qua tư duy của mọi người trong thời đại mình, đặt nền móng
cho quan điểm mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của Người về sau: “Xét về
nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế;
và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng
cường”(1).
Với quan điểm đúng đắn nêu trên, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định Việt nam là một bộ phận của thế giới, những hoạt động của Việt
nam có mn ngàn sợi dây liên hệ, gắn bó chặt chẽ với thế giới bên ngồi.
Chính vì vậy, trong khi khẳng định cơng cuộc giải phóng ở Việt Nam phải
là sự nghiệp của người Việt Nam, phải đem sức ta mà tự giải phóng cho ta,


5

Người vẫn luôn nhấn mạnh cách mạng Việt Nam không thể thắng lợi hoàn
toàn nếu thiếu sự ủng hộ giúp đỡ của cộng đồng quốc tế. Từ thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chĩ rõ mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều do Đảng Cộng Sản có đường lối đúng đắn có thể đồn kết cả
dân tộc thành một khối trong mặt trận thống nhất và khiến cho sự nghiệp

cách mạng của Việt Nam luôn được nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ.
Người khẳng định: “Đó là bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên ta cần
ghi sâu vào lòng và phát huy thêm mãi”(2). Quan điểm đó được quán triệt,
vận dụng suốt cả trong q trình cách mạng Việt Nam, khơng chỉ trong đấu
tranh giành chính quyền, trong cách mạng giải phóng dân tộc mà cả trong
xây dựng đất nước cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cụ thể là:
Ngay sau khi giành được chính quyền, khi nhiệm vụ đất nước được
đặt ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ ngay đến việc thiết lập, mở rộng những
quan hệ quốc tế về kinh tế, văn hóa nhằm đưa đất nước Việt Nam từ nghèo
nàn, lạc hậu vươn lên sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Việc đầu
tiên mà Người nghĩ đến trong việc mở rộng quan hệ quốc tế là cử cán bộ
sang Mỹ học tập khoa học – kỹ thuật tiên tiến Mỹ. Trong Thư gửi Bộ
Trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Giêm Biếcnơ ngày 1/11/1945, Người nói rõ:
“Nhân danh Hội văn hóa Việt Nam, tơi xin được bày tỏ nguyện vọng của
Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang
Mỹ... một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên
Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông
nghiệp cũng như các lĩnh vực chun mơn khác”(3). Bức thư đó cho thấy tầm
nhìn xa trông rộng của Người được thể hiện trên hai lĩnh vực: một mặt,
Người đã nói rõ được rằng Việt Nam mong muốn có quan hệ hữu nghị với
các nước khơng phân biệt chế độ chính trị; mặt khác, Người đã chỉ ra sự cần
thiết phải có liên kết kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật để thúc đẩy nhanh
sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy


6

nhiên, trong điều kiện lúc bấy giờ phía Mỹ đã khơng đáp ứng u cầu chính
đáng của Hồ Chí Minh. Có thể coi đây là một cơ hội đã bị Mỹ bỏ qua trong
quan hệ giữa hai nước.

Tuy nhiên, tư tưởng chiến lược kinh tế mở được Người đề cập tập
trung, đầy đủ và rõ ràng nhất là trong thư gửi tới Liên Hiệp Quốc và bày tỏ
chính sách hợp tác kinh tế quốc tế của mình. Bức thư có đoạn: “Đối với các
nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp
tác trong mọi lĩnh vực:
a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà
tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá
giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế
quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
d) Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục
quân trong khuôn khổ của Liên Hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt
và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải qn và
khơng qn.
… Chính sách mở cửa và hợp tác nói trên, Chính phủ Việt Nam cũng
dành cho nước Pháp trong Hiệp đinh ngày 6 tháng 3 năm 1946. Nhưng
những người đại diện Pháp ở Đông Dương đã tìm các phá hoại…
Trong cuộc đấu tranh vì những quyền thiêng liêng của mình, nhân
dân Việt Nam có một niềm tin sâu sắc rằng họ cũng chiến đấu cho một sự
nghiệp chung: đó là sự khai thác tốt đẹp những nguồn lợi kinh tế và một tổ
chức có hiệu quả cho an ninh Viễn Đông”(4). Tuy nhiên, lúc bấy giờ, Liên
hợp quốc dưới sự thao túng của Mỹ, nên quan điểm hợp tác kinh tế quốc tế
tiến bộ, khá toàn diện của Người nêu lên đã không được Liên hợp quốc
chấp nhận.


7

Như vậy, dù trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc,

chiến tranh lạnh diễn ra, trong khi đó, đất nước mới giành được độc lập,
giữa bộn bề cơng việc, kẻ thù vẫn đang lăm le dịm ngó nhưng Người vẫn
đặt việc xây dựng một nền kinh tế mở lên hàng đầu. Đó là điều mà vào thời
kỳ đó khơng ai giám nghĩ tới, nó thể hiện tư duy của một vị lãnh tụ thiên tài,
đạt tầm hiện đại, vượt xa những tư tưởng lúc bấy giờ và chính điều này một
lần nữa khẳng định được sự sáng tạo tài tình trong quan điểm về kinh tế đối
ngoại của Người.
Đến năm 1956, sau khi Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, bước
vào thời kỳ q độ dần lên chủ nghĩa xã hội, hợp tác kinh tế quốc tế ngày
càng trở nên cần thiết và có điều kiện mở rộng hơn. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trong cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc cần mở rộng công nghiệp, nông nghiệp, thương
nghiệp để nâng cao sức sản xuất và cải thiện đời sống của nhân dân. Chúng
tôi cần nhiều dụng cụ, máy móc và hàng hóa của tất cả các nước, trong đó
tất nhiên kể cả nước Nhật Bản. Và chúng tơi có thể cung cấp cho những
nước ấy lương thực, cây cơng nghiệp và khống sản…”(5). Và cuối những
năm 60, trong khi đánh giá về nguyên nhân những thắng lợi quan trọng của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người viết: “Nước ta ở về xứ nóng,
khí hậu tốt, rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu. Nhân dân dũng cảm và cần
kiệm. Các nước anh em giúp đỡ nhiều” (6).
Những quan điểm đó đã giúp cho Việt Nam tranh thủ được sự ủng
hộ rất lớn của các nước và nhân dân tiến bộ trên thế giới không chỉ về mặt
chính trị, tinh thần, mà cịn về kinh tế trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ
của dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Như vậy, Hồ Chí Minh
ln mong muốn Việt Nam được đứng trong lòng bầu bạn, nhờ những mối
quan hệ giúp đỡ bên ngồi mà khơng ngừng cải thiện và nâng cao đời sống
kinh tế, văn hóa của nhân dân Việt Nam.


8


2.2. Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận khoa học về đối tác, phân
loại và có thái độ ứng xử phù hợp với từng đối tác khác nhau.
Ngay sau ngày đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã cơng bố những quan điểm lớn của Chính Phủ về ngoại giao. Nguyên tắc
chung được nêu lên là kiên trì ngoại giao với tất cả các nước trên cơ sở của
sự bình đẳng, tương trợ. Mục tiêu của ngoại giao là làm sao đất nước ít kẻ
thù hơn, nhiều bạn đồng minh hơn. Người đã nhiều lần nhấn nói rõ: nhân
dân và Chính Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa làm bạn với tất cả
mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai, và “một khi đã độc lập,
Việt Nam sẽ đứng với tất cả các nước bầu bạn”(7). Từ nguyên tắc ngoại giao
đó, chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của Người đã được khẳng
định rõ ngay khi Người trả lời nhà báo Mỹ Standley Harrison như sau: “Việt
Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với
Việt Nam một cách thật thà”(8).
Như vậy, với chủ trương, đường lối ngoại giao, ngoại thương đó của
Người đã cho ta thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng và Nhà nước ta luôn
chủ trương mở rộng quan hệ với tất cả các đối tác. Tuy nhiên, do những tác
động của lịch sử và các điều kiện khách quan, Người đã có những quan
điểm chỉ đạo, xử lý mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác nhau đối với từng
đối tác cụ thể, tùy theo mối quan hệ về chính trị, lịch sử và địa lý giữa Việt
Nam với các đối tác, để từ đó vạch ra chính sách đối ngoại làm cơ sở cho
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trên cơ sở đó, Người đã chỉ ra
phương châm quan hệ của nước ta với các nước bạn bè xã hội chủ nghĩa,
với các nước trong bán đảo Đông Dương, với các nước Đông Nam Á, với
nước Pháp và các nước trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Người nói: “Chúng
ta phải ra sức khôi phục lại kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp, vận tải, để nâng cao dần đời sống của nhân dân.
………



9

Chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn.
Chúng ta sẽ dựa theo năm nguyên tắc lớn của bản tuyên bố Trung Ấn và Trung - Miến để gây quan hệ hữu hảo với hai chính phủ nhà vua
Miên và Lào.
Chúng ta phát triển quan hệ hữu hảo với các nước Đông - Nam Á.
Đối với Pháp, chúng ta sẽ cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn
hóa trên ngun tắc bình đẳng và hai bên đều có lợi. Chúng ta đồn kết với
nhân dân Pháp và nhân dân u chuộng hịa bình thế giới”(9).
Qua đoạn trích đó, tác giả nhận thấy rằng, một trong những điểm
sáng tạo tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ kinh tế đối
ngoại chính là Người đã có sự phân chia các đối tác dựa trên đặc điểm kinh
tế, chính trị khác nhau trong quan hệ với Việt Nam và đưa ra chính sách
nhất quán, trước sau như một thích ứng với từng đối tác. Cụ thể là:
Trước tiên, đối tác được Người đặc biệt coi trọng, mở rộng hợp tác
toàn diện trước hết là với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Người cho
rằng các nước xã hội chủ nghĩa là chỗ dựa vững chắc của nước Việt Nam,
do đó, cần phải “Đồn kết chặt chẽ”, bởi vì, theo Người, “nhờ sự giúp đở
của các nước anh em, chúng tơi ngày càng có nhiều khả năng và có thể tin
tưởng vào một tương lai đầy thắng lợi” (10). Trong bối cảnh thế giới chia làm
hai phe đối lập, các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu ln thi hành
chính sách thù địch với các nước xã hội chủ nghĩa; trong lúc đó chủ nghĩa
đế quốc ln tìm cách phá hoại cách mạng Việt Nam thì quan điểm của Hồ
Chí Minh và của Đảng ta là dứt khoát phải dựa vào phe xã hội chủ nghĩa.
Ngay cả khi các nước xã hội chủ nghĩa gặp hồn cảnh phức tạp như Liên Xơ
và Trung Quốc có mối bất hịa, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn
khéo léo thực hiện chính sách đồn kết để vừa góp phần vào việc hàn gắn sự
rạn nứt giữa các nước xã hội chủ nghĩa vừa thu hút được sự giúp đở tích cực
của của cả hệ thống để tâp trung sức cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước...



10

Quan điểm đó của Người được thể hiện rõ trong các chuyến thăm hữu nghị
chính thức, các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Khối lượng vật
chất to lớn, các phương tiện, máy móc, việc đào tạo các chuyên gia, thợ kỹ
thuật mà các nước xã hội chủ nghĩa đã dành cho Việt Nam trong những năm
dân tộc ta tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã thể hiện hiệu quả, tính khoa học đúng
đắn của đường lối hợp tác toàn diện, của việc mở rộng quan hệ kinh tế của
Người và của Đảng ta đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Đối tác quan trọng thứ hai là với các nước láng giềng Lào và
Campuchia. Đối với những nước này Việt Nam “quan hệ hữu hảo trên cơ sở
năm nguyên tắc chung sống hịa bình”(11).
Đối tác thứ ba là với các nước Đơng Nam Á khác, cũng là những
nước láng giềng gần gũi sau Lào và Campuchia, có nhiều hồn cảnh giống
Việt Nam, nhưng cũng là những nước có chế độ chính trị khác Việt Nam thì
cần phải “phát triển quan hệ hữu hảo”(12).
Thực tế lịch sử cho thấy tại các diễn đàn quốc tế có liên quan, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln khẳng định tình đồn kết, hữu nghị và sự hợp tác với
nhân dân các nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương, với các nước
Đông Nam Á và Nam Á. Những mối quan hệ kinh tế, ngoại giao mà Nhà
nước ta thực hiện trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và sau này là kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã thể hiện rõ chủ
trương này. Đặc biệt, trong mối quan hệ này, Người luôn đề cao và nhiều
lần nói tới năm ngun tắc chung sống hịa bình. Người đặc biệt nhấn mạnh
những ngun tắc khơng xâm phạm lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi…
Đối tác thứ tư mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới là với những
nước đã có những mối quan hệ trong lịch sử, những đối tác có nhiều thuận

lợi trong việc hiểu biêt tâm lý người Việt Nam, hiểu biết những điều kiện
tự nhiên và xã hội của đất nước và con người Việt Nam mà điển hình là


11

với nước Pháp. Mặc dù, Pháp cũng là nước tư bản chủ nghĩa phát triển,
nhưng có quan hệ lịch sử đặc biệt đối với Việt Nam, thì Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng phải “ cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn hóa trên
ngun tắc bình đẳng cùng có lợi” (13). Mỗi một chúng ta đều biết rằng thực
dân Pháp đã xâm lược Việt Nam hàng trăm năm, lại vừa gây ra cuộc chiến
tranh 9 năm khiến nhân dân ta phải chịu nhiều tổn thất nặng nề cả về người
và của. Thế nhưng do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, nhân dân Việt Nam và
nhân dân Pháp, nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế Pháp, nền văn hóa
Việt Nam và nền văn hóa Pháp có mối quan hệ lâu đời, nếu phát huy được
quan hệ này theo hướng tích cực thì sẽ có lợi nhiều cho nhân dân hai nước.
Vì vậy, trong chính sách đối ngoại, đặc biệt trong chính sách kinh tế đối
ngoại với nước Pháp, Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt. Người nói:
“Đối với nước Pháp, chúng tơi tiếp tục chủ trương rằng trong những điều
kiện bình đẳng tuyệt đối và cùng có lợi, trước hết là tin cậy lẫn nhau và
hợp tác thẳng thắn, chúng tơi có thể thiết lập những quan hệ đặc biệt về
kinh tế và văn hóa với nước Pháp”(14); “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân
thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay cơng nhân, thương
gia hay trí thức, nếu học muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được
nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như an hem bầu bạn” (15). Đặc biệt,
trong nhiều lần tiếp xúc với chính giới và giới công thương Pháp trong
chuyến thăm nước Pháp (tháng 10/1946), Người nói rõ: Nếu cần chuyên
gia kỹ thuật nước ngồi thì Chính phủ Việt Nam sẽ mời người Pháp đầu
tiên. Khoản 4 trong Tạm ước Việt – Pháp 14/9/1946 di Người ký với bộ
trưởng thuộc địa M.Mutê ghi rõ: “Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng

Hịa sẽ dùng đến người Pháp trước nhất mỗi khi cần người cố vấn hoặc
chuyên môn. Chỉ khi nào nước Pháp không cung cấp được nhân viên mà
Chính phủ Việt Nam cần đến thì đặc quyền trên đây của Pháp mới thơi thi
hành”(16). Gần bảy năm sau ngày thực dân Pháp phải rút khỏi Đông Dương,


12

ngày 2/9/1961, được hỏi về vấn đề quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với
nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh: “Mặc dù có cuộc chiến
tranh đó và những vết thương do nó gây ra, chúng tơi vẫn luôn luôn là
những người bạn của nhân dân Pháp và chúng tôi không bao giờ lầm lẫn
nhân dân Pháp với bọn thực dân. Chúng tôi sẵn sàng và chúng tơi đã nhiều
lần tun bố muốn có quan hệ về ngoại giao, kinh tế và văn hóa với Chính
Phủ Pháp, chúng tôi chỉ nêu ra những điều kiện của một nước có chủ quyền
và độc lập, tức là những quan hệ đó phải tiến hành trên cơ sở bình đẳng và
có đi có lại”(17). Qua đó ta có thể nhận thấy rằng Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thức rõ tính chất đặc biệt trong quan hệ giữa Việt Nam và Pháp, thấy rõ vai
trò của nước Pháp như một cánh cửa giúp Việt Nam bước vào Châu Âu từ
rất sớm. Tuy nhiên, do đầu óc hẹp hịi, những người cầm quyền nước Pháp
khi đó đã khơng chấp nhận quan điểm của Người, dẫn đến cuộc chiến tranh
giữa hai dân tộc, gây ra nhiều tổn thất nặng nề cho cả hai bên.
Đối tác thứ năm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm tới trong việc
mở rộng hợp tác là với các nước tư bản chủ nghĩa khác trên thế giới có tiềm
lực kinh tế và khoa học - kỹ thuật, có vị trí và vai trị quan trọng trong các
mối quan hệ quốc tế. Người đã nhiêu lần nhấn mạnh: “trong quan hệ với các
nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là rõ ràng và
trong sáng: đó là một chính sách hịa bình và quan hệ tốt. Chính sách đó dựa
trên năm ngun tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bố chung Trung - Ấn và
Trung - Miến, tức là: tơn trọng tồn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau,

không xâm phạm, không can thiệp vào các cơng việc nội bộ, bình đẳng và
hai bên cùng có lợi, chung sống hịa bình”(18). Trên cơ sở đó, chúng ta phải
khẳng định rằng, khơng phải đương nhiên mà từ cuối những năm 20 của thế
kỷ XIX, sau đó là những năm trước Cách mạng Tháng Tám và đặc biệt là
trong những ngày tháng đất nước ta mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã giao thiệp khá rộng rãi với chính giới các nước lớn như Mỹ,


13

Trung Quốc, Anh,... và đặc biệt là với chính giới Mỹ, kể cả tổng thống,
ngoại trưởng,… Từ năm 1945, Người đã tính đến việc cử thanh niên Việt
Nam sang Mỹ học tập. Đồng thời, ngay trong những ngày tháng quyết liệt
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người vẫn nói rõ, người Mỹ
đến Việt Nam để bắn giết, để bị giết chết là điều sỉ nhục, nhưng người Mỹ
đến giúp đỡ Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Người bày tỏ: “Sẽ rất sung
sướng được đón tiếp Tổng Thống Mỹ đến Việt Nam với ý nguyện ấy”(19).
Trong hoàn cảnh thế giới lúc bấy giờ “chiến tranh lạnh” giữa hai hệ
thống xã hội còn đang căng thẳng, đường lối ngoại giao “có trọng tâm”, “có
trọng điểm” mà Hồ Chí Minh đề xuất và thực hiện là hoàn toàn hợp lý, vượt
xa thời đại. Như vậy, một trong những điều khiến Hồ Chí Minh trở thành
nhân vật vĩ đại vì Người sớm nhìn thấy lợi ích và sớm thực hiện việc mở
rộng giao lưu quốc tế. Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, dù trong hồn
cảnh nào, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì quan điểm mở rộng quan hệ với các
nước xã hội chủ nghĩa, với các nước láng giềng và các nước có chế độ chính
trị khác nhau. Mặc dù, lịch sử đã qua đi, nhưng quan điểm của Người về
việc xác định đối tác mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế là những quan
điểm có tính sáng tạo, đi trước thời đại và có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn
trong công cuộc xây dựng nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế hiện nay.
2.3. Mở rộng kinh tế đối ngoại là để thu hút ngoại lực nhằm phát

huy nội lực.
Thu hút ngoại lực để phát huy nội lực là một trong những quan điểm
chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại. Đây cũng là điểm
khác nhau căn bản của tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh với tư tưởng
ngoại giao của các bậc tiền bối như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Nếu
như đường lối cứu nước của cụ Phan Bội Châu là con đường bạo động, dựa
hoàn toàn vào Nhật để giải phóng đất nước; thì cụ Phan Châu Trinh lại theo
đường lối cải lương “xin giặc rủ lòng thương”, phản đối bạo động, muốn


14

dựa vào Pháp để chống phong kiến. Chính vì vậy mà các phong trào do hai
cụ tổ chức đều bị thất bại. Trước thất bại của mình, cụ Phan Bội Châu cũng
không hiểu tại sao liền hỏi ý kiến của Nguyễn Ái Quốc, Người đã nói với cụ
Phan Bội Châu: Cụ đi theo con đường bạo động nhưng lại chủ trương dựa
vào Nhật để đuổi Pháp chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”. Qua đó ta có thể khẳng định rằng tư tưởng thu hút ngoại lực để giải
phóng đất nước đã có từ trước nhưng điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đó là
thu hút ngoại lực để phát huy nội lực chứ không phải dựa hồn tồn vào
nước ngồi để giải phóng đất nước như các vị tiền bối đã làm.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự tồn tại, phát triển của nước nhà tùy
thuộc vào tài năng, trí tuệ, truyền thống, vị trí Việt Nam (ngày nay chúng ta
gọi là nội lực) và sự hợp tác giúp đỡ quốc tế. Người thường xuyên chỉ ra
mối liên hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố đó và xác định đúng đắn vai trị, vị trí
của mỗi nhân tố trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó, theo
Người, nội lực và hợp tác giúp đỡ quốc tế đều là những nhân tố quyết định
tạo nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, điều này khơng có
nghĩa là hai nhân tố ấy giữ vị trí như nhau, bằng nhau mà trong đó, Hồ Chí
Minh coi nội lực giữ vai trị quyết định, ngoại lực giữ vai trị quan trọng, nó

chỉ phát huy sức mạnh thơng qua nội lực. Từ đó, Người chỉ rõ: Dân tộc ta
phải mạnh, đất nước ta phải mạnh, cơng việc ngoại giao phải bắt đầu từ đó.
Đo đó, chúng ta lo tìm bạn bè nhưng trước hết phải lo tổ chức lực lượng của
mình. Như vậy, khi nói đến vấn đề thu hút ngoại lực để phát huy nội lực, tác
giả xin nhấn mạnh trên hai khía cạnh chính sau:
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu căn bản nhất của
việc mở rộng hợp tác giao lưu kinh tế quốc tế là để nhận sự giúp đỡ của
nước bạn bằng cách thu hút mọi nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống của nhân dân. Sinh thời, Hồ Chí Minh rất coi trọng những kết
quả thu được do sự hợp tác kinh tế quốc tế và sự giúp đỡ của các nước anh


15

em đối với nước ta như cung cấp máy móc, chuyên gia, giúp đở đào tạo cán
bộ kỹ thuật và cơng nhân lành nghề. Vì vây, mới chỉ hơn một tháng sau
ngày giành được độc lập, trong bài trả lời các nhà báo được đăng trên báo
Cứu quốc, Người đã nói rõ mục tiêu này; “Có thể rằng: chúng ta hoan
nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những
nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những
nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho
chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”(19). Và vào năm 1955, Người tiếp
tục nhắc nhở: các nước bạn giúp ta để hàn gắn mau chóng những vết thương
chiến tranh; để tăng gia sản xuất về nông nghiệp, công nghiệp và để phát
triển thương nghiệp; để khôi phục và phát triển nền kinh tế, văn hóa; để ta
dần nâng cao đời sống của nhân dân ta.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, việc mở rộng quan hệ kinh
tế quốc tế là nền tảng để có điều kiện phát huy tiềm năng, lợi thế của Việt
Nam trên cơ sở “tự lực cánh sinh dựa vào mình là chính”. Tức là phải thu
hút ngoại lực để phát huy nội lực. Vậy tư tưởng này được hiểu như thế nào?

Để trả lời câu hỏi đó, tác giả đưa ra ba luận cứ sau:
Thứ nhất, tư tưởng tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính, một
tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh và người vẫn thường giáo dục nhân dân
mình. Người khẳng định: “muốn người ta giúp cho thì trước hết phải tự giúp
lấy mình đã”; “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập” (20). Vì vậy, ngay trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, khi cách mạng Trung Quốc chưa
thành công, Việt Nam vẫn nằm trong vòng vây của chủ nghĩa tư bản, Hồ
Chí Minh vẫn khẳng định với phóng viên báo Mỹ Harôn Ixắc: “Độc lập của
Việt Nam luôn luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam” (21). Đồng thời, trong
Báo cáo kết quả chuyến đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Mơng Cổ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nói rõ thêm: “Cũng như trong thời kỳ kháng chiến, phương


16

châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta
là phụ”(22). Như vậy, Người chỉ coi việc các nước ban giúp đỡ là tạo điều
kiện để nước ta tự lực cánh sinh.
Thứ hai, Người cho rằng vì sự giúp đỡ của bạn dù có vơ tư và to lớn
bao nhiêu cũng chỉ có hạn, vẫn phải dựa vào sức mình là chính. Người nói:
“sự giúp đỡ của các nước bạn cho ta cũng chỉ có hạn. Căn bản là ta phải tự
lực cánh sinh, cố gắng sản xuất”(23).
Thứ ba, sau khi đi thăm và ký kết, tiếp nhận sự giúp đỡ của các nước
bạn về, Người đã nhắc nhở các nước bạn hợp tác giúp đỡ ta cũng như thêm
vốn cho ta, ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển
khả năng của ta, nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không được ỷ lại, trơng chờ.
Từ đó, Người căn dặn: “Ta được các nước bạn giúp, tức là có thêm điều kiện
để tự lực cánh sinh”(24). Đồng thời, Người nhắc nhở: sự giúp đỡ của các nước
bạn là vô cùng quý báu và cần thiết; Chính phủ các cấp, các ngành, cán bộ và

nhân dân phải biết sử dụng hợp lý, có hiệu quả sự giúp đỡ quý báu ấy. Người
nói: “Cán bộ ta phải ra sức công tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia
bạn, học tập kinh nghiệm tiền tiến của các nước bạn; phải bảo quản và sử
dụng tốt những máy móc và vật liệu các nươc bạn giúp ta”(25).
Như vậy, mục tiêu cơ bản nhất của Hồ Chí Minh trong việc mở
rộng quan hệ kinh tế với các nước không phải chỉ nhằm nhận sự giúp đỡ
của bạn bè quốc tế để bù đắp sự thiếu hụt ở trong nước mà chính là thơng
qua giao lưu, mở rộng quan hệ kinh tế để thu hút mọi nguồn lực nhằm phát
triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân ta. Đó chính là quan điểm
thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người - là điểm khác nhau căn
bản giữa Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối trước đó, là điểm sáng tạo độc
đáo của người trong tư duy về kinh tế đối ngoại. Đó là những quan điểm
vẫn cịn có giá trị thực tiễn rất to lớn trong vấn đề thực hiện quan hệ hợp
tác kinh tế quốc tế hiện nay.


17

2.4. Hồ Chí Minh chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa
chính sách đối ngoại với chính sách kinh tế đối ngoại.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại
và đường lối kinh tế đối ngoại thực chất là mối quan hệ giữa chính trị và
kinh tế. Sinh thời, Người rất coi trọng mối quan hệ này và xử trí rất linh
hoạt và uyển chuyển. Đồng thời khi giải quyết mối quan hệ đó, Người ln
chú trọng trên hai vấn đề chính sau:
Trước tiên, Người luôn ưu tiên và chú trọng giải quyết quan hệ đối
ngoại làm cơ sở cho quan hệ kinh tế đối ngoại. Tức là ngoại giao và hợp tác
quốc tế được xem là một giải pháp quan trọng và hữu hiệu để giải quyết các
vấn đề kinh tế. Vì vậy, Người đặc biệt nhấn mạnh chúng ta phải làm sao có
sự gắn bó giữa cơng tác đối ngoại với việc xây dựng kinh tế của đất nước,

những thắng lợi trong chính sách đối ngoại phải nhằm mở rộng quan hệ
kinh tế, mang lại sự tăng trưởng bền vững cho đất nước.
Trong khi mở rộng chính sách đối ngoại, thơng qua đó tăng cường
hợp tác quốc tế song phương và đa phương để tạo nguồn lực phát triển đất
nước, Người còn đặc biệt nhấn mạnh phải chủ động về đường lối đối ngoại,
không lệ thuộc hoặc chịu sức ép từ các hợp đồng kinh tế hay viện trợ vật
chất, không giao động, từ bỏ mục tiêu chính trị ban đầu. Từ đó, chúng ta có
thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu về
sự thủy chung nhất quán, nhưng rất kiên quyết và khôn khéo để giải quyết
các bất đồng chính trị thơng qua đối thoại, đàm phán tách rời sức ép chính
trị khỏi việc trợ kinh tế.
Ngay trong những năm đầu của thập niên 60, đế quốc Mỹ ngày càng
gia tăng sức ép quân sự trên chiến trường miền Nam và đe dọa ném bom
bắn phá miền Bắc, trong khi đó bất đồng Xơ - Trung ngày càng sâu sắc. Có
thể nói lúc này nhân dân Việt Nam đang đứng trước khó khăn, khơng tránh
khỏi áp lực tác động từ cả ba phía Mỹ - Xô - Trung.


18

Trước sức ép từ nhiều hướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo tháo
gỡ theo phương châm kiên trì đường lối đối ngoại mềm mỏng, nhưng kiên
quyết giữ vững lập trường chính trị, khơng sa vào tư tưởng “tả khuynh” biệt
lập, chia rẽ bè phái, tách khỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế;
mặc khác, giương cao ngọn cờ đoàn kết, chủ động dàn xếp mối bất đồng Xô
- Trung, thông qua con đường ngoại giao mà thẳng thắn bày tỏ quan điểm
của mình.
Thực tiễn lịch sử cho thấy tư tưởng chỉ đạo của Người là cực kỳ sáng
suốt, “thấu tình, đạt lý”, vì thế mặc dù mâu thuẫn Xô – Trung không hề giảm
bớt, nhưng Việt Nam vẫn tranh thủ được sự giúp đỡ của Chính Phủ cũng như

nhận được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân hai nước Xô - Trung.
Như vậy, điểm sáng tạo vượt trước thời đại của Hồ Chí Minh khi
giải quyết mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại là dù
trong bất kỳ tình huống nào cũng không được dao động, không ham lợi kinh
tế mà từ bỏ mục tiêu chính trị - lập trường có tính ngun tắc của chủ nghĩa
Mác - Lênin.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến kinh tế mở được hình thành
từ rất sớm. Cùng với thời gian và trước những thử thách khắc nghiệt của
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt mấy chục năm. Chủ tịch
Hồ Chí Minh ln giữ vững quan điểm nhất quán, xử lý linh hoạt, đúng đắn
mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong chính sách kinh tế đối ngoại. Có
thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khá linh hoạt trong việc xử lý mối quan
hệ cụ thể, Người có cách xử lý riêng đối với từng đối tác tùy theo địa lý,
quan hệ chính trị, lịch sử, để từ đó vạch ra chính sách đối ngoại làm cơ sở
cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong những mối quan hệ
chồng chéo, phức tạp của bối cảnh quốc tế lúc đó, với tài ứng xử bình tĩnh,
khơn khéo, với sức cảm hóa kỳ diệu, Hồ Chí Minh đã có thể vượt qua mọi


19

trở ngại, khó khăn để thuyết phục kẻ thù và chinh phục trái tim bạn bè bằng
thái độ hiểu biết và tấm lịng nhân hậu vơ biên.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động, trật
tự cũ đã thay đổi, trật tự mới chưa hình thành. Tình hình thế giới đang diễn
biến phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc và thay đổi khôn lường. Khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương và tiểu vùng Đơng Nam Á là nơi có sự đan
xen về lợi ích và mâu thuẫn giữa các cường quốc trong khu vực và thế giới,
đặc biệt là về chủ quyền lãnh thổ và an ninh biển Đơng.
Trong tình hình đó, chúng ta cần nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh

về kinh tế đối ngoại, vận dụng tốt để xác lập một đường lối và chính sách
đối ngoại khơn ngoan, mềm dẻo, có khả năng thích ứng với những diễn biến
phức tạp có thể xảy ra.
3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại trong giai đoạn
hiện nay
Đối với nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm
từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân
chủ, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước mắt, mở rộng quan
hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới để thực hiện thành
công công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu đó phải được quán
triệt đối với mọi ngành, mọi cấp trong hoạt động kinh tế đối ngoại cũng như
phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực của kinh tế đối ngoại.
3.1. Quan điểm về kinh tế đối ngoại của Đảng được thể hiện qua
các kỳ Đại hội sau khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới.
Thấm nhuần và quán triệt quan điểm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về kinh tế nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Đại Hội VI (1986),
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chủ trương tăng cường kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, sử dụng tốt mọi khả năng mở
rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước.


20

Đến Đại Hội VII (1991), tư duy của Đảng ta về quan hệ quốc tế tiếp
tục được đổi mới. Đó là việc nhận thức trong đời sống chính trị - kinh tế
quốc tế, quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, bên cạnh lợi ích mang tính
giai cấp, mang tính ý thức hệ cịn có những lợi ích mang tính toàn cầu và
trong một thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ thì nhu
cầu cần có sự phối hợp giữa các nước trở thành tất yếu. Trên cơ sở đó, Đại
Hội VII (1991) chủ trương: hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các

nước, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình, với phương châm “Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình,
độc lập và phát triển”.
Đại hội VIII của Đảng (1996) tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa va đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều
mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Đến Đại hội IX của Đảng (2001), lần đầu tiên Đảng ta đã làm rõ
thuật ngữ xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về
đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước. Ngày 27/11/2001, Bộ chính trị
ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW về hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu
tiếp tục quán triệt chủ trương đã được xác định tại Đại Hội IX. Yêu cầu đó
là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mơi trường.



×