Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tieu luan cao học, tư tưởng hồ CHÍ MINH về GIẢI QUYẾT vấn đề dân tộc TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.34 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta, dân tộc ta một kho
tàng vô giá, đó là di sản tư tưởng của Người. Những tư tưởng khoa học và
cách mạng của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực mãi mãi là ngọn đèn soi sáng
con đương cách mạng, Việt Nam. Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang khẳng định những di sản của lý
luận Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có sức sống mãnh liệt và trường
tồn. Cho dù thế giới có đổi thay thì tư tưởng về cách mạng Việt Nam , về con
đường xây dựng đất nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội , dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mãi mãi khơng thay đổi. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc là một hệ
thống những luận điểm mang tính cách mạng giá trị thực tiễn to lớn soi maai
mãi soi đường cho cách mạng Việt Nam. Hệ thống những luận điểm này của
Người đã không chỉ chỉ ra cho dân tộc Việt Nam một con đường giải phóng
và phát triển đúng đắn, đưa dân tộc và nhân dân Việt Nam vào kỷ nguyên
mới: kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc mà cịn góp phần to lớn phá tan hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới, đưa phong trào
cách mạng và phong trào dân chủ trên thế giới lên một tầm cao mới.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn
đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam, góp phần làm sáng rõ giá trị lý luận và
thực tiễn về một tư tưởng lớn quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một
giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc, trên cơ sở đó, quán triệt vận dụng vào
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hiện
nay, là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Với ý nghĩa đó em
lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vần đề dân tộc và giải quyết vấn
đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam" làm đề tài tiểu luận của mình.

1



NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1. Thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa địa là vấn đề độc lập dân
tộc, xoá bỏ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải
quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết
trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các ơng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu
về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở
thành một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực
tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả
C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về
mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý
luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các
Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng
vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều
kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc
địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó.
Cuộc cách mạng ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc hay đấu
tranh giai cấp? Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đã có luận
điểm cho rằng “thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa là vấn đề nông dân”,
nhấn mạnh vấn đề ruộng đất và cuộc đấu tranh giai cấp ở thuộc địa. Với Hồ
Chí Minh thì khơng phải như vậy. Người sớm nhận thấy, yêu cầu của xã hội
thuộc địa là phải tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chứ không
phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây.
Đối tượng của cách mạng thuộc địa là chủ nghĩa thực dân, chứ không phải là
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc nói chung.
2



Đầu thập niên 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh trăn trở rất nhiều về sự
khác nhau giữa xã hội châu Âu và xã hội phương Đông. Học thuyết về đấu
tranh giai cấp có thể áp dụng ở thuộc địa hay không? Người đề nghị “xem xét
lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học
phương Đơng”.
Tuy hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng
sản, nhưng quan điểm của Hồ Chí Minh có nhiều điểm khơng trùng hợp với
quan điểm của Trung ương Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, trong
đó có vấn đề dân tộc ở thuộc địa. Người dành sự quan tâm dến các thuộc địa,
vạch ra thực chất của vấn đề dân tộc ở thuộc địa là vấn đề chống chủ nghĩa
thực dân, vấn đề độc lập dân tộc.
Trong nhiều tác phẩm như Tâm địa thực dân, Bình đẳng, Vực thẳm
thuộc địa, Cơng cuộc khai hóa giết người..., Hồ Chí Minh tập trung tố cáo chủ
nghĩa thực dân, vạch trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chúng. Người
viết: “Để che đậy sự xấu xa của chế độ bóc lột giết người, chủ nghĩa tư bản
thực dân luôn luôn điểm trang cho cái huy chương mục nát của nó bằng
những châm ngơn lý tưởng: Bác ái, Bình đẳng, v.v.”. “Nếu lối hành hình theo
kiểu Linsơ của những bọn người Mỹ hèn hạ đối với những người da đen là
một hành động vơ nhân đạo, thì tơi khơng cịn biết gọi việc những người Âu
nhân danh đi khai hóa mà giết hàng loạt người dân châu Phi là cái gì nữa”.
Trong những bài có tiêu đề Đơng Dương và nhiều bài khác, Người lên án
mạnh mẽ chế độ cai trị hà khắc, sự bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp ở Đơng
Dương trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục. Người chỉ rõ sự
đối kháng giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân là mâu
thuẫn chủ yếu ở thuộc địa, đó là mâu thuẫn khơng thể điều hịa được. Sự áp
bức, thống trị dân tộc càng nặng nề, thì phản ứng dân tộc sẽ càng quyết liệt về
tính chất, đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức. Nghiên cứu tình
hình Đơng Dương, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
3



người Đơng Dương giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ
một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Nguyễn Ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước
bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.
Nếu như C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản,
V. I. Lênin bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Hồ Chí
Minh tập trung bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. C. Mác và V.
I. Lênin bàn nhiều về đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí
Minh bàn nhiều về đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Trong nhiều tác
phẩm, nhất là tác phẩm Đường kách mệnh, Người phân biệt ba loại cách
mạng: cách mạng vô sản, cách mạng tư sản và cách mạng giải phóng dân tộc,
xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa là giải phóng dân tộc.
2. Lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
Để giải phóng dân tộc cần xác định một con đường phát triển của dân
tộc, vì phương hướng phát triển dân tộc quy định những yêu cầu và nội dung
trước mắt của cuộc đấu tranh giành độc lập. Mỗi phương hướng phát triển gắn
liền với một hệ tư tưởng và một giai cấp nhất định.
Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ
Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh
thời đại mới là chủ nghĩa xã hội.
Hoạch định con đường phát triển của của một dân tộc thuộc địa là một
vấn đề hết sức mới mẻ. Từ một nước thuộc địa đi lên chủ nghĩa xã hội phải
trải qua nhiều giai đoạn chiến lược khác nhau. Trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đi tới xã hội
cộng sản” là hướng phát triển lâu dài. Nó quy định vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, đồn kết mọi lực lượng dân tộc, tiến hành các cuộc cách mạng
chống đế quốc và chống phong kiến cho triệt để.

4


“Tư sản dân quyền cách mạng” là giai đoạn chiến lược giải phóng dân tộc,
hồn thành nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc (không bao gồm
nhiệm vụ ruộng đất). “Thổ địa cách mạng” không nằm trong cuộc cách mạng
tư sản dân quyền, mà là một giai đoạn chiến lược với nhiệm vụ chủ yếu là
cách mạng ruộng đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là giai đoạn phát triển kế
tiếp để từng bước đạt mục tiêu cuối cùng.
Từ một xã hội thuộc địa tiến lên chủ nghĩa xã hội phải qua ba giai đoạn
phát triển khác nhau: (1) làm tư sản dân quyền cách mạng, (2) thổ địa cách
mạng và (3) đi tới xã hội cộng sản.
Mỗi giai đoạn chiến lược có một nhiệm vụ chiến lược trung tâm và có
thể làm một phần nhiệm vụ của giai đoạn khác, hoặc là làm trước một phần
nhiệm vụ của giai đoạn sau, hoặc là làm nốt nhiệm vụ của giai đoạn chiến
lược trước để lại.
Sự hoạch định con đường phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh là biện chứng
và khách quan, không nhập hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến
vào một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Nó phù hợp với hồn cảnh lịch sử
cụ thể ở thuộc địa. Đó cũng là nét độc đáo, khác biệt với con đường phát triển
của các dân tộc đã phát triển lên chủ nghĩa tư bản ở phương Tây.
3. Độc lập tự do, nội dung cốt lõi của vấn đề thuộc địa
3.1. Cách tiếp cận từ quyền con người
Hồ Chí Minh hết sức trân trọng quyền con người. Người đã tìm hiểu và
tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong Tuyên ngôn độc
lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách
mạng Pháp, như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi
được”.


5


Nhưng từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao
thành quyền dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
3.2. Nội dung của độc lập dân tộc.
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí
Minh nói: "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu".
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các đồng
minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất long trọng thừa nhận, thay
mặt những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn ái Quốc gửi tới hội nghị Vécxây bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
Việt Nam. Bản Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung
vào hai nội dung cơ bản:
Một là, địi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông
Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các tịa án đặc biệt
dùng làm cơng cụ khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân
(tức những người yêu nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh (một
cách độc tài) và thay thế bằng chế độ ra các đạo luật.
Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các
quyền tự do ngơn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú...
Bản yêu sách đó khơng được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn Ái Quốc
kết luận: Muốn giải phóng dân tộc, khơng thể bị động trơng chờ vào sự giúp
đỡ bên ngồi, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình.
Trong nhiều bài viết, nhất là trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Nguyễn ái Quốc lên án mạnh mẽ tội ác của chủ nghĩa thực dân đã tước
bỏ tất cả quyền con người và quyền dân tộc ở các thuộc địa.

6



Đầu năm 1930, Nguyễn ái Quốc soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, mà tư
tưởng cốt lõi là độc lập tự do.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Ban chấp
hành Trung ương Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập Việt
Nam độc lập đồng minh, ra báo Việt Nam độc lập, thảo Mười chính sách của
Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình
quyền". Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự
do của nhân dân ta trong câu nói bất hủ: "Dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt
cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!"
Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm
thời đọc Tun ngơn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới:
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy".
Quan niệm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thực sự
Theo người độc lập phải là nền độc lập thực sự, các quyền độc lập cơ
bản phải đảm bảo như độc lập - chủ quyền - thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Độc lập phải gắn với quyền tự quyết của dân tộc trên tất cả các lĩnh vực đối
nội và đối ngoại.
Năm 1887, trên cơ sở thơn tính và áp đặt ách thống trị dân tộc, thi hành chính
sách chia để trị, thực dân Pháp lập ra cái gọi là “Liên bang Đông Dương”
thuộc Pháp, gồm 5 xứ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Lào và Cao Miên) do
một viên Toàn quyền người Pháp đứng đầu.
Hồ Chí Minh lên án thực dân Pháp chia cắt nước Việt Nam, “lập ba chế
độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của

7


ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết”. Sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa
thực dân, giành độc lập của dân tộc Việt Nam cũng là cuộc đấu tranh cho sự
thống nhất và toàn vẹn chủ quyền quốc gia. Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích của
Cách mạng tháng Tám là “giành lại hịa bình, thống nhất, độc lập và dân
chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”. Mục đích của kháng chiến chống thực
dân Pháp là để giữ lấy và phát triển những thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám, tức là hịa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ”.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc
Theo Bác đối với mỗi người dân mất nước cái quý nhất đó là độc lập
của tổ quốc tự do cho nhân dân. Bởi vậy bất kể thế lực nào vi phạm đến
quyền thiêng liêng của dân tộc đều bị đánh trả, trừng trị.
HCM trong kháng chiến chống Pháp “ Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước không chịu làm nô lệ” Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ người đưa ra một chân lý thời đại “ Khơng có gì q hơn độc
lập tự do” đã cổ vũ cho dân tộc và các nước thuộc địa vùng dậy đấu tranh
giành độc lập.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với hồ bình
Ngun tắc ĐLDT gắn liền với hịa bình: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa trên ngun tắc tơn
trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Độc lập dân tộc phải gắn liền với ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh cho rằng đây là vấn đề to lớn, bởi lẽ nếu dân không được ấm
no, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Khi giành được độc lập
chính phủ phủ cách mạng phải đi đến làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở,
được học hành. Để thực hiến hóa quan điểm đó Hồ Chí Minh đã xây dựng
một Nhà nước của dân do dân vì dân từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
4. Chủ nghĩa dân tộc


8


Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản
phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách
thống trị của chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Trước khi chủ nghĩa tư bản phương Tây đưa đại bác đến gõ cửa các
quốc gia phương Đơng, thì những quốc gia này vẫn cịn đang chìm nặng trong
bóng tối của chế độ phong kiến với cấu trúc xã hội gồm hai giai cấp: địa chủ
phong kiến và nông dân. Dưới tác động của các cuộc khai thác thuộc địa, các
giai cấp này ít nhiều có sự biến đổi, và những giai cấp mới lần lượt ra đời:
công nhân, tư sản, tiểu tư sản. Tất cả các giai cấp đó đều nằm dưới ách thống
trị của chủ nghĩa tư bản thực dân.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn ái Quốc đã nhận thấy sự áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng
nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Không chỉ quần chúng
lao động (công nhân và nông dân), mà cả các giai cấp và tầng lớp trên trong
xã hội (tiểu tư sản, tư sản và địa chủ) đều phải chịu nỗi nhục của người dân
mất nước, của một dân tộc mất độc lập tự do. Cùng với sự kết án chủ nghĩa
thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh
khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, "chủ nghĩa dân tộc
là động lực lớn của đất nước". Vì thế, "người ta sẽ khơng thể làm gì được cho
người An Nam nếu khơng dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời
sống xã hội của họ". Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế
cộng sản là: "Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng
sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy
sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế".
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực

ngoại xâm nào: “Dân ta có một lịng u nước nồng nàn. Đó là một truyền
thống q báu của ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
9


thần ấy lại sơi nổi, nó kêt thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước”.
Theo Hồ Chí Minh, “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân
dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh
cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây
dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một
nước Việt Nam dân chủ mới”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân
tộc được chân chính “là một bộ phận của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn tinh
thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động”.
Với niềm tin ở truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam, Người
khẳng định: "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng khơng làm sao
chiếm được lịng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta".
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ
truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của
chủ nghĩa dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và
Người cho đó là "một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
II. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN
TỘC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Sau khi tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc cho nhân dân
ta, Hồ Chí Minh đã xúc tiến thành lập một chính Đảng cách mạng chân chính
ở Việt Nam và Người đã cùng Trung ương Đảng ta trực tiếp lãnh đạo cách
mạng, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam vượt qua
mọi gian khổ, khó khăn, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước,

cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao,
thốt khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong
10


cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả đời. Đề cập
đến tư tưởng của Người về vấn đề nêu trên cần khái quát một số quan điểm
lớn sau đây:
1. Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa nửa
phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc,
tự do cho nhân dân, hồ bình và thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hồ bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng
của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh nước
mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay sai thì
quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình đẳng, tự
do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc, bắt bớ, giết
hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà “Khơng có
gì q hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh
trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và của
cả nhân loại có lương tri. Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng
đó của Hồ Chí Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng đó được qn triệt trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt
Nam và nó được thể hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch
sử.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rơdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18 của
Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại bỏ
phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tơi khơng hiểu
chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng

tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho
đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy
là tất cả những điều tôi hiểu.”.

11


Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ơng ta
mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất
trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói
chuyện với đồng chí Võ Ngun Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này
thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương
quyết giành cho được độc lập.”
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo
dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết khơng
sợ! Khơng có gì q hơn độc lập tự do.”
Độc lập, tự do và tư tưởng cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh là chìa
khóa để mở đường hội tụ thắng lợi của chiến lược: “Đồn kết, đồn kết, đại
đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành công”.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành thắng lợi nhanh chóng
trong cả nước bằng phương thức khởi nghĩa dân tộc, thể hiện sức mạnh vĩ đại
của ý chí độc lập và khát vọng tự do của tồn dân tộc Việt Nam. Ðây là một
điển hình thành cơng về cách mạng giải phóng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc
vô cùng sáng tạo thể hiện một chủ nghĩa dân tộc trong sáng. Cách mạng
Tháng Tám có sự sáng tạo lớn so với các cuộc cách mạng ở các nước trên thế
giới, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Cách mạng ở đâu thành cơng cũng

phải đổ máu nhiều. Có nước phải chặt đầu Vua. Có nước đồng bào chia đảng
phái, chém giết nhau liên tiếp trong bao nhiêu năm. Nước ta, Vua tự thoái vị,
các đảng phái khơng có mấy. Trong một thời gian ngắn, các giai cấp đồn kết
thành một khối, mn dân đồn kết để mưu hạnh phúc chung là nước được

12


hoàn toàn độc lập và chống được giặc xâm lăng, đuổi bọn thực dân tham ác ra
ngoài bờ cõi".
Cách mạng Tháng Tám thành công mở ra một kỷ nguyên mới trong
lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc Tuyên ngôn độc lập trịnh trọng tuyên
bố với quốc dân đồng bào và thế giới rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng
tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ
vững quyền tự do và độc lập ấy"
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của đồng
bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền con
người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi người
dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc
Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới và
các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng, hồ
thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh cũng đã thực thi thắng lợi chiến lược đại đoàn kết dân tộc
do Đảng Cộng sản là người lãnh đạo duy nhất chính vì Người đã thành công
trong việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng
đạo đức và văn minh, một “Đảng hiện thân cho trí tuệ, danh dự và lương tâm
của dân tộc, một đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân

dân lao động, của dân tộc Việt Nam”.
2. Sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã
hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc cho mọi người, mọi dân tộc.

13


Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại ở
cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp
cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thơi. Bởi có độc
lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng chẳng có
ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than, đói rét và tủi nhục
của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến. Bởi vậy,
một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp
giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xố bỏ
nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người
nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành.
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải
quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến.Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực
hiện được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả
nhân loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư khơng chỉ ở Hồ Chí

Minh mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình
khác. Sự bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với
những người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng
chính là ở chỗ đó.
Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng kiến
cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên con
14


đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và C.
Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện cơng cuộc giải
phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ
các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại rất
nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm đau có
thuốc, già khơng lao động thì được nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt
dần dần được xố bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”

3. Phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử của Việt Nam đã chứng minh trong cộng đồng các dân tộc ở
nước ta khồng hề có dân tộc lớn (dân tộc nhiều người) đi áp bức, bóc lột dân
tộc nhỏ (dân tộc ít người), mà quan hệ giữa các dân tộc với nhau là quan hệ
anh em, ruột thịt. Truyền thống quý báu đó của dân tộc Việt Nam như Hồ Chí
Minh đã nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Giarai hay

15


Êđê, Xơđăng hay Bana… đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, nó đói giúp nhau.”
Bên cạnh việc lên án thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân, phong kiến
dùng chính sách “chia để trị” nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam và để kìm
hãm các dân tộc trong vòng nghèo nàn và dốt nát, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính
ưu việt của chế độ mới để nhằm giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc ở Việt
Nam: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: Các dân tộc đều bình
đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau như anh em. Đồng
bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng tiến bộ về mọi
mặt.”
Hậu quả của chế độ thực dân phong kiến và các thế lực thù địch chống
phá cách mạng để lại ở Việt Nam là rất nặng nề; để khắc phục hậu quả đó
nhằm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho đồng bào miền xi cũng như miền ngược, Hồ Chí Minh
ln coi trọng tình đồn kết, thương u giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc
anh em ở trong nước. Bởi, chỉ có trên cơ sở đồn kết mới tạo nên sức mạnh to
lớn cho cách mạng Việt Nam để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cách
mạng đã đề ra.
Sau khi chủ trì Hội nghị Trung ương lần thức Tám (5 – 1941), nhận

thấy cơ hội cứu nước đang đến gần, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào cả
nước, trong thư Người viết: “…Hỡi các bậc phú hào u nước, thương nịi!
Hỡi các bạn cơng nơng, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương!
Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải
đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi
nước sơi lửa bỏng.”
Hồ Chí Minh chẳng những là người quan tâm đến đồn kết dân tộc, mà chính
Người là hiện thân của sự đồn kết đó, là người trực tiếp tổ chức khối đại
đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện gây chia rẽ,
16


hiềm khích, kỳ thị dân tộc để thực hiện tình đồn kết trong đại gia đình các
dân tộc Việt Nam. Bài học kinh nghiêm về đoàn kết trong cách mạng Việt
Nam được Người tổng kết thành 14 chữ vàng như sau:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Để thực hiện quyền bình đẳng và xây dựng tình đồn kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, xuất phát từ hoàn
cảnh và điều kiện sống của các dân tộc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặc biệt
quan tâm đến đồng bào dân tộc ít người, sống ở miền núi, vùng sâu và vùng
xa của đất nước. Bởi, theo Người so với đồng bào sống ở miền xuôi, vùng
đồng bằng và đơ thị, thì đời sống của đồng bào ở miền núi, xét trên mọi
phương diện, còn thấp và gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, miền núi
và vùng sâu, vùng xa của đất nước ta, là nơi có điều kiện tự nhiên khơng
thuận lợi, trình độ sản xuất và văn hoá của nhân dân nơi đây còn rất thấp. Nơi
ăn, chốn ở, trường hợc, cơ sở y tế và giao thơng đi lại cịn nhiều khó khăn và
thiến thốn. Bên cạnh đó, do trình độ dân trí thấp nên những thủ tục lạc hậu,
mê tín, di đoạn còn rất nặng nề.
Hơn nữa, khu vực miền núi nước ta – nơi làm ăn sinh sống chủ yếu của

đồng bào các dân tộc ít người, là nơi giáp biên giới với số nước láng giềng, xa
đồng bằng, địa bàn hiểm trở, dân cư thưa thớt, nhiều vùng vốn là căn cứ địa
cách mạng quan trọng của cách mạng Việt Nam trước đây. Bởi vậy, quan tâm
đến đồng bào dân tộc ít người vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc của Hồ Chí
Minh trong chế độ mới, vừa có ý nghĩa kinh tế và quốc phịng to lớn đối với
cả hiện tại và tương lai của đất nước.
Sự quan tâm, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc ít người theo Hồ Chí
Minh, là trách nhiệm của toàn Đảng và toàn dân, của tất cả các cấp, các
ngành, từ Trung ương đến địa phương, bằng những việc làm cụ thể và thiết
thực.
17


4. Phải đoàn kết, thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và
thân thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam.
Vì nhiều lý do khác nhau, dẫn đến một thực tế của đời sống thế giới, là
người dân của nước này đến cư trú và làm ăn sinh sống ở nước khác và ngược
lại. Giải quyết thực trạng đó ở mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi chính đảng, thậm
chí với từng nhà lãnh đạo có những quan điểm và chủ trương chính sách khác
nhau.
Đối với người Việt Nam sống xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết,
thương yêu họ, kêu gọi họ hướng về quê hương đất nước, nơi quê cha, đất tổ
của mình, vì tất cả bà con đều là “con Lạc cháu Hồng” của đất Việt. Đồng
thời, Người cũng kêu gọi và khuyên nhủ bà con phải giữ mối quan hệ thân
thiện với nhân dân các nước và thực hiện tốt luật pháp của họ. Trong những
năm chiến tranh và cách mạng, với lịng u nước, thương dân, Hồ Chí Minh
đã thu phục được nhiều trí thức tài ba về nước phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân, trong đó có người đã trở thành anh hùng của Việt Nam.
Đối với người nước ngồi sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh ln thể hiện
thái độ ơn hồ và thân thiện với họ. Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi

đi Pháp về (23 tháng 10 năm 1946), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Người Pháp ở
Pháp đối với ta rất thân thiện, thì người Việt ở Việt đối với người Pháp cũng
nên thân thiện. Đối với quân đội Pháp ta phải lịch sự. Đối với kiều dân Pháp
ta phải ơn hồ. Để tỏ cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh. Để cho
số người Pháp ủng hộ ta càng thêm đông, sức ủng hộ càng thêm mạnh. Để
cho những kẻ thù khiêu khích muốn chia rẽ, khơng có thể và khơng có cớ mà
chia rẽ. Để cho cơng cuộc thống nhất và độc lập của chúng ta chóng thành
cơng.”
Đối với người Hoa sống ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng thể hiện quan
điểm trước sau như một là đoàn kết, thân thiện và bảo vệ tài sản, tính mạng
cũng như quyền làm ăn chính đáng của họ trên đất nước Việt Nam, như công
18


dân Việt Nam. Theo Người, chẳng phải hôm qua hôm nay người Hoa kiều
mới đến Đông Dương. Họ đã ở đây, họ đã luôn giữ một địa vị rất quan trọng
trong đời sống kinh tế của Đông Dương. Nhưng chưa bao giờ lại có những
cuộc xung đột giữa người Việt Nam với người Hoa trên đất nước Việt Nam.
Trong “Thư gửi anh em Hoa kiều” nhân ngày Độc lập 2 – 9 – 1945, Hồ
Chí Minh nêu rõ: “Hai dân tộc Trung - Việt chúng ta, mấy ngàn năm nay,
huyết thống tương thơng, chung nền văn hố, trong lịch sử vẫn được gọi là hai
nước anh em; hơn nữa, đất nước liền kề, núi sông kế tiếp, càng như môi vớI
răng che chở cho nhau. Ngót trăm năm nay, đế quốc xâm lược Viễn Đông,
giặc Pháp cưỡng chiếm nước ta, lấy đó làm bàn đạp xâm lược Trung Quốc.
Hai dân tộc anh em phương Đông chúng ta lại chịu chung nổi khổ cực bị áp
bức và xâm lược.” Xuất phát từ quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc và hai nước
anh em, trong thư, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến chính sách cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta đối với bà con Hoa Kiều đang làm ăn, sinh sống ở Việt
Nam: “Chính phủ nhân dân lâm thời Việt Nam đã lập tức tuyên bố xoá bỏ mọi
luật pháp của Pháp trước đây áp đặt lên Hoa kiều, xác định chính sách cơ bản

là bảo đảm tự do, hoan nghênh Hoa kiều cùng nhân dân Việt Nam chung sức
xây dựng nước Việt Nam mới. Mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật
đồn kết, có việc gì thì giải quyết với nhau theo nguyên tắc hợp pháp lý với
thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau, khơng được vì những việc tranh
chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân tộc…”
Ngoài ra, đối với các dân tộc và quốc gia khác trên thế giới, quan điểm của
Hồ Chí Minh là tơn trọng nền độc lập dân tộc, không can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia, dân tộc khác, đồng thời thực hiện quyền bình đẳng
giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Quan điểm đó của Người được khẳng
định trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ, ngày 2 – 9 – 1945 rằng: “… tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”
19


KẾT LUẬN
Chẳng đường lịch sử hơn 80 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc
và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng
Việt Nam. Chính sách đó vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng
Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã
được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin
tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt Nam có được sức mạnh to lớn để
hồn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng
như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày
nay.

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 20059.
2. PGS, TS Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên), Sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, 2010
3. CD – Rom Hồ Chí Minh tồn tập
4. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh tiểu sử,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006
5. Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (tập1, 2), Nxb
Chính trị Quốc gia, 2007
6. GS.Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2005
7. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch, Nxb Trẻ, 2005
8. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên) Tư tưởng Hồ Chí Minh và
con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1997
9. Mạch Quang Thắng, Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng sáng tạo, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010
10. Mạch Quang Thắng (Chủ biên), Vận dụng và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2010

21


MỤC LỤC

22




×