Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nâng cao chất lượng nhân lực nông nghiệp tỉnh bắc ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 110 trang )

3

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


HÁN THỊ THÚY NGA

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP
TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

Luan van


4

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


HÁN THỊ THÚY NGA

NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP
TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2014

Luan van


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chất lượng nhân lực

CLNL

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Cơ cấu kinh tế nông nghiệp

CCKTNN

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH


Giáo dục, đào tạo

GD-ĐT

Khoa học, công nghệ

KH,CN

Kinh tế - xã hội

KT-XH

Lao động sản xuất

LĐSX

Lao động nông nghiệp

LĐNN

Lực lượng sản xuất

LLSX

Nhân lực lao động

NLLĐ

Nhân lực nông nghiệp


NLNN

Sản xuất nông nghiệp

SXNN

Sản xuất

SX

Luan van


6

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH

11

1.1. Nhân lực và chất lượng nhân lực nông nghiệp

11


1.2. Quan niệm, vai trị, đặc điểm nâng cao chất lượng
nhân lực nơng nghiệp tỉnh Bắc Ninh

21

Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG NHÂN LỰC
NÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH
2.1. Chất lượng nhân lực nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời
gian qua - Ưu điểm và hạn chế

34
34

2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết để
nâng cao chất lượng nhân lực nông nghiệp ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay

50

Chƣơng 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG NHÂN LỰC NÔNG
NGHIỆP TỈNH BẮC NINH THỜI GIAN TỚI
3.1. Một số quan điểm cơ bản nâng cao chất lượng nhân
lực nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh thời gian tới
3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng nhân lực
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh

57


57
64

KẾT LUẬN

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

92

PHỤ LỤC

97

Luan van


7

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn
coi trọng phát triển nơng nghiệp; coi đó khơng chỉ là nhiệm vụ kinh tế, chính
trị - xã hội có ý nghĩa chiến lược và là mặt trận hàng đầu. Với tầm quan trọng
đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp
để khơng ngừng đổi mới phát triển nền nông nghiệp Việt Nam. Nhờ vậy,
nông nghiệp đã đem lại những thành tựu to lớn, góp phần tăng trưởng kinh tế
với tốc độ nhanh, ổn định trong thời gian dài, tạo cơ sở cho việc giải quyết
những vấn đề xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trong quá trình hội nhập

kinh tế quốc tế.
Để xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp Việt Nam phát triển theo
hướng toàn diện, hiện đại, hiệu quả, bền vững, thì vai trị quan trọng hàng đầu là
nhân lực trong nông nghiệp. Điều này đã được khẳng định trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội (KT-XH) giai đoạn 2011 - 2020 tại Đại hội XI của Đảng:
“Tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư cho nông nghiệp và
nông thôn,… thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào
tạo nghề cho 1 triệu lao động nơng thơn mỗi năm” [24, tr.123].
So với các tỉnh thuộc đồng bằng sơng Hồng, Bắc Ninh có vị trí địa lý
thuận lợi, có lợi thế về tiềm năng phát triển nơng nghiệp. Kể từ sau những
năm tái lập tỉnh (năm 1997), Bắc Ninh cùng với các tỉnh trong cả nước tiếp
tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đẩy nhanh quá trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nơng nghiệp; nhờ vậy, kinh tế nông nghiệp
tỉnh Bắc Ninh đạt được những thành tựu khá toàn diện, tăng trưởng với nhịp
độ cao, cơ cấu chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực từng khu vực, từng địa
phương và các thành phần kinh tế; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện.

Luan van


8

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm
năng lợi thế của tỉnh. Bắc Ninh vẫn còn mang nặng dấu ấn của một tỉnh
nông nghiệp và một trong những thách thức lớn nhất trong khu vực sản
xuất nông nghiệp (SXNN) chất lượng lao động thấp, cơ cấu bất hợp lý,
tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động có xu hướng
gia tăng. Việc đổi mới cách thức SX trong nơng nghiệp cịn chậm; phổ
biến vẫn là SX nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị nhiều sản

phẩm nơng nghiệp cịn thấp; việc nghiên cứu ứng dụng chuyển giao khoa
học - công nghệ (KH,CN) và đào tạo, bồi dưỡng nhân lực có năng lực,
trình độ cho nơng nghiệp cịn hạn chế.
Những hạn chế trên, trong chừng mực nhất định đang là lực cản khá
lớn tới q trình CNH, HĐH nơng nghiệp của tỉnh. Vì vậy, để thực hiện thắng
lợi tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVIII (nhiệm
kỳ 2010 - 2015) là: “Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn, tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đổi mới quan hệ sản xuất, phát huy
mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư phát triển nơng nghiệp, xây dựng nơng thơn
mới” [37, tr.41], thì một trong những vấn đề hết sức quan trọng là phải nâng
cao chất lượng nguồn lực, đặc biệt là chất lượng nhân lực nông nghiệp
(NLNN) - nhân tố quan trọng, quyết định tới sự thành cơng của q trình
CNH, HĐH nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, đây là vấn đề cấp thiết đang
được đặt ra, đòi hỏi phải nghiên cứu thấu đáo cả về cơ sở lý luận và thực tiễn
để đề xuất các giải pháp sát thực, góp phần nâng cao chất lượng NLNN, đáp
ứng mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) tỉnh Bắc Ninh hiện
nay. Với những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng nhân
lực nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao học,
chuyên ngành kinh tế chính trị.

Luan van


9

2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực CNH, HĐH nông nghiệp, nơng thơn
nói chung, phát triển NLNN ở Việt Nam và một số tỉnh nói riêng đã có nhiều
cơng trình khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận,

thực tiễn ở mức độ, góc độ tiếp cận và các hình thức khác nhau. Liên quan
đến vấn đề nghiên cứu của luận văn có các nhóm cơng trình sau:
* Nhóm cơng trình khoa học bàn về vai trò của nguồn lực, nguồn
nhân lực con người trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nguồn lực, nguồn nhân lực con người có vai trị đặc biệt quan trọng,
quyết định đến sự phát triển, cường thịnh của mỗi quốc gia. Vấn đề này đang
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành nghiên cứu lý giải ở
nhiều góc độ cụ thể, tiêu biểu là các cơng trình sau: “Phát triển nguồn lực con
người để cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” của TS. Vũ Bá Bể, Nxb Lao động
xã hội, Hà Nội, 2005; “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội công nghiệp ở Việt Nam” của GS. TSKH. Lê Duy
Phong, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2010; “Nguồn nhân lực chất lượng
cao cho phát triển KT-XH ở thành phố Đà Nẵng” của Lê Hồng Quang, Luận
văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2006; “Quan điểm của Đại hội XI về phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ
CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức” Lê Thị Chiêu, Tạp chí Phát triển nhân
lực, số 425, 2011; “Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền vững
nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015” của PGS. TS. Ngơ Dỗn Vinh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; “Con người và nguồn lực con người”
của Trung tâm Khoa học xã hội nhân văn quốc gia, Hà Nội, 1995.
Các cơng trình này đã luận giải những vấn đề lý luận về khái niệm
nguồn nhân lực, nguồn lực con người và tiến hành phân tích, làm rõ các loại
nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế; thực

Luan van


10

trạng huy động nguồn lực với phát triển kinh tế ở Việt Nam; đề xuất quan

điểm, giải pháp huy động, sử dụng các nguồn lực chủ yếu nhằm nâng cao tốc
độ phát triển kinh tế ở Việt Nam. GS. TSKH. Lê Duy Phong cho rằng: Con
người là nguồn lực quan trọng nhất của công cuộc đổi mới hiện nay, đồng
thời tác giả đã đưa ra những dự báo, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tác giả Vũ Bá
Bể đã nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số nước
trên thế giới và thực trạng nguồn lực con người ở nước ta, đưa quan niệm về
nguồn lực con người, vai trò nguồn lực con người đối với tăng trưởng kinh tế
và sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam, xác định được một số giải pháp cơ bản
nhằm phát huy nguồn lực con người ở nước ta. Tuy nhiên, những cơng trình
khoa học này mới chỉ dừng lại ở việc khái quát những luận điểm chung nhất
về nguồn lực, nguồn nhân lực con người nói chung. Song những luận điểm
khoa học của các cơng trình trên là những gợi ý cần thiết để vận dụng trong
nghiên cứu phát triển nguồn NLNN nói chung và NLNN tỉnh Bắc Ninh hiện
nay nói riêng.
* Nhóm các cơng trình khoa học bàn về phát triển nông nghiệp,
nông thôn ở nước ta.
Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước ta. Vì vậy, vấn đề này luôn được rất nhiều lực lượng
nghiên cứu, quán triệt, đề xuất giải pháp thực hiện, tiêu biểu là các cơng trình
khoa học sau: “Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn vùng đồng bằng sơng Hồng” của GS. TS. Nguyễn Đình Phan và
GS. TS. Trần Minh Đạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; “Phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam” của Nguyễn Hữu Chiến, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội, 2008; “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng thơn trong q
trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta” của GS. TS. Hoàng Ngọc Hòa, Nxb

Luan van



11

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; “Phát triển nơng nghiệp hàng hóa ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay” của Lương Thành Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học
viện Chính trị, 2012; “Vấn đề phát triển nơng nghiệp, nông thôn ở nước ta trong
thời kỳ đổi mới” của Đào Thế Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 771, 2002.
Các cơng trình khoa học trên đã tập trung phân tích khá toàn diện đặc
điểm KT-XH trong SXNN và phát triển nơng thơn Việt Nam, trong đó có
đồng bằng sơng Hồng; có cơng trình đã phân tích khá sâu sắc mối quan hệ biện
chứng trong phát triển nông nghiệp, nông dân, nơng thơn, coi đó là một nội dung
cốt lõi để phát triển kinh tế, thu dần khoảng cách giữa người giàu và người nghèo,
giữa thành thị và nông thôn. Hệ thống các giải pháp mà các cơng trình khoa học
trên đưa ra chủ yếu tập trung đổi mới cơ chế, chính sách, huy động tiềm lực để phát
triển nơng nghiệp, nơng thơn; trong đó, nhiều tác giả đã tập trung phân tích những
biện pháp cụ thể để phát triển nguồn NLNN, yếu tố có vai trị quyết định đến phát
triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu chính của các cơng trình khoa học nêu
trên là phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết mối quan hệ giữa đẩy
mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Do
vậy, vấn đề chất lượng nguồn NLNN và nâng cao chất lượng NLNN chưa
được đầu tư nghiên cứu nhiều. Song những biện pháp cụ thể phát triển NLNN
mà các cơng trình khoa học đã nêu ra là những gợi ý cần thiết để luận văn tập
trung nghiên cứu hoàn thành mục tiêu đề ra.
* Nhóm các cơng trình khoa học bàn về phát triển nguồn nhân
lực nông nghiệp ở nƣớc ta và ở một số địa phƣơng
Tiêu biểu là các công trình: “Việc làm của nơng dân trong q
trình CNH, HĐH vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020” của Trần
Thị Minh Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; “Giải pháp
nâng cao chất lượng nguồn NLNN trên địa bàn Việt Yên, tỉnh Bắc Giang


Luan van


12

hiện nay” của Nguyễn Thị Kim Dung, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học
Nông nghiệp, 2010; “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn tỉnh Thái Bình hiện nay” của Phí Văn Hạnh, Luận án Thạc sĩ Kinh tế
chính trị, Học viện Chính trị, 2010; “Nâng cao chất lượng lao động đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH nông nghiệp” của GS. TS. Hồ Văn Vĩnh - Tạp chí Cộng sản, số
805, 2009;…
Các cơng trình trên đã tập trung nghiên cứu, đưa ra được một số
quan niệm cơ bản về nguồn NLNN, chất lượng nguồn NLNN, nâng cao
chất lượng nguồn NLNN, phát triển nguồn NLNN phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp ở các địa phương cụ thể. Một số cơng trình đã
luận bàn khá sâu sắc về đặc điểm nguồn NLLĐ nông nghiệp, xác định
được một số tiêu chí cụ thể để đánh giá thực trạng chất lượng nguồn
NLNN ở mỗi địa phương. Hệ thống giải pháp mà các cơng trình nêu ra là
khá tồn diện và tập trung vào nâng cao nhận thức về chất lượng, hồn
thiện cơ chế, chính sách bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề,
sức khỏe cho nguồn NLLĐ nơng nghiệp để làm nịng cốt cho nơng nghiệp
nước ta hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, ở phạm vi địa phương tỉnh Bắc
Ninh đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
vấn đề chất lượng NLNN dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài mà
tác giả lựa chọn để nghiên cứu khơng trùng với các cơng trình đã được
cơng bố và là cần thiết, có ý nghĩa lý luận, thực tiễn đối với tỉnh Bắc Ninh
hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chất lượng và nâng cao chất lượng

NLNN; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng
NLNN tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.

Luan van


13

* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về chất lượng NLNN và nâng cao chất lượng
NLNN ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đánh giá thực trạng chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh. Chỉ rõ ưu điểm,
hạn chế, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
NLNN tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng nhân lực nông nghiệp.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới
NLNN, chất lượng NLNN và nâng cao chất lượng NLNN ở tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Đề tài tập trung phân tích, nghiên cứu, khảo sát số liệu,
tư liệu ở một số sở, ban, ngành và các huyện, thị ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2005
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, những chủ
trương, giải pháp của tỉnh trong những năm gần đây về những vấn đề có liên

quan đến nội dung của đề tài và thực tiễn phát triển NLNN ở nước ta… làm
cơ sở lý luận cho đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống hóa
thống kê, lơgic - lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tiễn và

Luan van


14

phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác trong nghiên cứu
kinh tế để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần làm sáng tỏ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn nâng cao chất lượng NLNN ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay; đồng
thời, cung cấp cứ liệu khoa học để các cấp lãnh đạo, các cơ quan chức năng
của tỉnh Bắc Ninh tham khảo, hoạch định chính sách nâng cao chất lượng
NLNN, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp của Tỉnh trong những năm
tới và phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy trong lĩnh vực trên.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, nội dung của đề tài kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết,
kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Luan van


15

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
NHÂN LỰC NÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH
1.1. Nhân lực và chất lƣợng nhân lực nông nghiệp
1.1.1. Nhân lực và nhân lực nông nghiệp
* Nhân lực
Đề cập đến nhân lực chính là đề cập đến nguồn lực con người, các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: con người hiện thực là một
chỉnh thể sinh học - xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của
con người. Kết hợp hai mặt sinh học và xã hội, con người có một năng lực
tiềm ẩn (tiềm năng), khi được sử dụng và gặp mơi trường thuận lợi thì tiềm
năng ấy được phát huy, lúc đó con người trở thành động lực cho sự phát triển
KT-XH. Khẳng định điều này, Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Lao động là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên
một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con
người” [26, tr.641]. Lao động mang ý nghĩa nhân bản sâu xa, bởi trong lao
động con người đã làm biến đổi tự nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã làm
nên lịch sử của cả xã hội lồi người. Chính các hoạt động nhận thức thực tiễn
đã làm hồn thiện nhân cách, trình độ, trí tuệ và thể lực của con người, giúp
con người thực hiện các chức năng xã hội của mình. Vì vậy, nâng cao chất
lượng nhân lực (CLNL) cần phải quan tâm tới cả mặt sinh học (sức khỏe,
dinh dưỡng, vệ sinh, môi trường…) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo
đức, lối sống…) cho con người. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng
của nhân lực, đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trò của
nhân lực trong lao động.
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh rằng: con
người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh.
Nhưng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh của con người lại chỉ được thực hiện
trong mối quan hệ với cộng đồng - xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để

Luan van



16

con người thể hiện bản tính phong phú và tư duy sáng tạo của mình. Hay sự
thay thế của các hình thái KT-XH trong lịch sử là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất (LLSX). Mà trong LLSX, con người là yếu tố cách mạng và
năng động nhất. Chính con người đã làm nên những biến đổi về tính chất và
trình độ của LLSX để rồi đưa xã hội tiến lên. Trong tiến trình các cuộc cải
biến xã hội, con người luôn là mục tiêu, đồng thời là động lực của tiến trình
đó. Thực tế đã chứng minh, ở đâu các lực lượng cách mạng có ý thức đầy đủ
về vai trị của con người, có giải pháp hiện thực hóa vai trị của con người thì
sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi. Với ý nghĩa đó, xét trong tiến
trình nâng cao CLNL thì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực.
Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Con người là chủ thể cụ thể của nguồn nhân lực, vừa tồn tại
với tư cách cá nhân, với những nhu cầu cụ thể của nhân lực, vừa tồn tại
với tư cách là những thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc.
Bằng năng lực và trách nhiệm đối với xã hội, con người có vai trị to lớn,
quyết định tới thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của
dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Hay con người là mục tiêu, là động
lực của toàn bộ sự phát triển KT-XH. Trong Di chúc, Người căn dặn: Vơ
luận việc gì đều do con người làm ra.
Thực tiễn trong gần 30 năm đất nước đổi mới và thực hiện công cuộc
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn càng cho chúng ta thấy rõ hơn về tầm quan
trọng của nhân lực. Trong các lý thuyết kinh tế và một số cơng trình nghiên cứu
gần đây thì quan niệm về nhân lực được đề cập đến những góc độ sau:
Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Liên xơ (cũ) thì:
Nhân lực là tồn bộ những lao động dưới dạng tích cực (đang tham gia lao
động) và tiềm tàng (những người có khả năng lao động nhưng chưa tham gia

lao động).
Theo từ điển thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Pháp thì nhân lực
có phạm vi hẹp hơn. Nó khơng bao gồm những người có khả năng lao động
nhưng khơng có nhu cầu làm việc.

Luan van


17

Trong báo cáo của Liên Hợp Quốc đánh giá về những tác động của
tồn cầu hóa đối với nhân lực đã đưa ra định nghĩa: Nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực thực có thực tế cùng với những năng lực tồn tại
dưới dạng tiềm năng của con người.
Theo giáo trình kinh tế nguồn nhân lực của Trường Đại học Kinh tế, thì
nhân lực là sức con người nằm trong mỗi con người và làm cho con người
hoạt động; sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể
con người và đến một mức nào đó con người đủ điều kiện tham gia vào quá
trình lao động - con người có sức lao động.
Theo thuyết lao động xã hội thì nhân lực được hiểu là tổng hợp cá nhân
những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu
tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách
hiểu này, nhân lực là một bộ phận của dân cư, bao gồm những người trong độ
tuổi lao động theo quy định của Bộ Luật lao động Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (nam từ đủ 15 đến hết 60 tuổi, nữ từ đủ 15 đến 55 tuổi), có
khả năng lao động. Đây là lực lượng lao động tiềm năng, lực lượng quan
trọng nhất có thể huy động vào các hoạt động của nền KT-XH.
Ở nước ta khái niệm nhân lực được sử dụng khá rộng rãi từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới. Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: nhân lực được thể
hiện qua số lượng dân cư, chất lượng con người (bao gồm thể lực, trí lực,

năng lực và phẩm chất…). Như vậy, nhân lực khơng chỉ bao hàm về CLNL
hiện tại mà cịn bao hàm cả nguồn cung cấp nhân lực cho tương lai.
Về cơ bản, quan niệm của các nước, các tổ chức quốc tế và ở nước ta
về nhân lực là tương đối thống nhất với nhau về bản chất, nội dung và các
giới hạn xác định nhân lực, như vậy nhân lực bao gồm 2 bộ phận:
Thứ nhất, là bộ phận nhân lực có tham gia vào hoạt động kinh tế (còn
gọi là lực lượng lao động), là những người có cơng ăn việc làm, đang hoạt
động trong các ngành kinh tế và văn hóa của xã hội và những người chưa có
việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm.

Luan van


18

Thứ hai, là bộ phận nhân lực không hoạt động kinh tế (lực lương dự
trữ), bao gồm những người trong độ tuổi lao động nhưng với những lý do
khác nhau họ không tham gia vào các hoạt động KT-XH, như những
người đang làm nội trợ gia đình, người đang đi học, người nghỉ hưu trước
tuổi quy định và những người có khả năng lao động nhưng khơng tích cực
tìm việc làm.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra: Nhân lực của mỗi quốc gia hay
một địa phương là tổng hợp những tiềm năng lao động có trong một thời
điểm xác định, bao gồm các nhóm yếu tố biểu thị về thể chất, trí tuệ, năng
lực, tính năng động xã hội và khả năng phát triển việc làm của bộ phận dân
số trong độ tuổi quy định đang có việc làm và chưa có việc làm nhưng có
khả năng làm việc.
* Nhân lực nông nghiệp
Trên cơ sở quan niệm về nhân lực, tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính
trị, NLNN được hiểu là tổng thể những người trong độ tuổi lao động có năng

lực, thể chất và tinh thần tồn tại trong lực lượng lao động xã hội đang tham
gia vào q trình lao động sản xuất nơng nghiệp để sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần, phục vụ cho nhu cầu phát triển KT-XH.
Từ khái niệm trên, NLNN được hiểu là một bộ phận dân số bao gồm
những người nằm trong độ tuổi qui định có khả năng lao động và đang tham
gia (trực tiếp hoặc gián tiếp, ít nhiều, thường xun hoặc khơng thường
xun) làm việc trong lĩnh vực nơng nghiệp. Về chất lượng, đó là: tổng hợp
những yếu tố về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc, kỷ
luật lao động và kinh nghiệm sống, làm việc của NLNN.
1.1.2. Chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực nông nghiệp
* Chất lượng nhân lực nông nghiệp
Từ điển Tiếng việt của Viện Ngôn ngữ học, Ủy ban Khoa học xã hội
định nghĩa: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người,

Luan van


19

một sự vật, một sự việc”. Chất lượng của sự vật bao giờ cũng gắn với những
thuộc tính, những yếu tố cơ bản tạo nên sự vật, hiện tượng, cái quy định phẩm
chất, giá trị của sự vật hiện tượng.
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, chất lượng là thuộc tính chung của
mọi sự vật, hiện tượng. Mỗi lĩnh vực cụ thể có chất lượng hoạt động ở lĩnh
vực đó. Ở các lĩnh vực khác nhau, thì yêu cầu về chất lượng cũng khác nhau.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, CLNL biểu hiện ở tất cả các mặt, các hoạt động
trong quy trình SXNN, nó khơng chỉ thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu
thành bản chất bên trong của nhân lực mà cịn là chỉ tiêu phản ánh trình độ
phát triển KT - XH, chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển của con người và đời
sống xã hội nói chung.

Do vậy, chất lượng NLNN tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị có thể
được hiểu là tổng hợp giá trị của các yếu tố về thể lực, trí lực, năng lực, trình
độ, phẩm chất đạo đức, kỹ năng, tác phong, kỷ luật làm việc và kinh nghiệm
của người lao động, đảm bảo cho họ thực hiện tốt qui trình sản xuất nơng
nghiệp nhằm tạo ra của cải vật chất và tinh thần, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp.
Con người luôn là yếu tố cách mạng, năng động nhất của lực lượng sản
xuất xã hội. Do vậy, chất lượng nhân lực cao hay thấp luôn là tấm gương
phản chiếu một cách trung thực nhất tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong SXNN cũng như vậy, chất lượng NLNN ln là nhân
tố quan trọng phản ánh tính chất và trình độ phát triển của lực lượng SXNN
trong từng giai đoạn, thời kỳ cụ thể. Và theo đó, một chất lượng NLNN cụ
thể, một lực lượng SXNN với trình độ phát triển cụ thể ln địi hỏi phải có
một quan hệ SXNN tương ứng, phù hợp. Đến lượt nó, một quan hệ SXNN
tiến bộ, phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy LLSX nông nghiệp phát triển và nâng
cao chất lượng NLNN.
Chất lượng NLNN được xem xét với tư cách là tổng hợp những tiềm
năng lao động hiện có trong một thời điểm xác định, bao gồm các nhóm yếu

Luan van


20

tố biểu thị về thể chất, trí tuệ, năng lực, kỹ năng làm việc, tính năng động xã
hội và khả năng phát triển việc làm của bộ phận LĐNN. Trong các yếu tố
cấu thành chất lượng NLNN, có những yếu tố định lượng có thể tính tốn,
đo lường một cách cụ thể, đồng thời cũng có những yếu tố định tính, khó có
thể đo lường và tính tốn một cách chính xác, đầy đủ. Chất lượng nhân lực
nói chung và chất lượng NLNN không phải là phạm trù cố định, bất biến mà

nó ln vận động, biến đổi. Sự vận động biến đổi của nó được quy định bởi
yêu cầu, nhiệm vụ phát triển KT-XH và từ thực tiễn phát triển ngành nông
nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy: do tính chất
đặc thù của SXNN, cộng với nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
nhau nên chất lượng NLNN thường ”lạc hậu tương đối” so với nhân lực của
các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Là một nước nông nghiệp, với nền văn minh lúa nước có truyền thống từ
lâu đời, đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp lại chịu hậu quả nặng nề
của những cuộc chiến tranh, chất lượng NLNN luôn là vấn đề đặt ra với nước
ta trong quá trình phát triển. Bởi, so với các nước trong khu vực và trên thế
giới, chất lượng NLNN của Việt nam thường thấp hơn, năng suất LĐNN của
nước ta cũng vì vậy mà thường thua kém so với thế giới. Mặc dù vậy, nhờ vào
kết quả của quá trình CNH, HĐH và dưới tác động của quá trình mở cửa, hội
nhập quốc tế (đặc biệt là hội nhập kinh tế quốc tế), NLNN nước ta đã và đang
phát triển theo chiều hướng tích cực: số lượng NLNN giảm dần trong khi lao
động của các ngành công nghiệp, dịch vụ gia tăng với tốc độ nhanh; chất lượng
NLNN tăng lên cùng với cơ cấu NLNN ngày càng dịch chuyển hợp lý
* Tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực nơng nghiệp
Đánh giá chất lượng NLNN là một vấn đề rộng lớn, phải được xem xét,
đánh giá trên nhiều nội dung, phương diện, song nhất thiết phải đạt được một
số tiêu chí cơ bản sau:

Luan van


21

Một là, trình độ học vấn của NLNN
Trước đây, trình độ SXNN của các nước nói chung và đặc biệt ở Việt
Nam nói riêng cịn tương đối lạc hậu. Lực lượng LĐNN đa số là những người

không biết chữ. Hoạt động sản xuất của người nông dân tiếp diễn từ đời nọ
sang đời kia chủ yếu thông qua việc truyền thụ kinh nghiệm của những thế hệ
đi trước, năng suất lao động rất thấp và kết quả nông vụ dường như hồn tồn
phụ thuộc vào thời tiết, thiên nhiên.
Q trình phát triển của sản xuất xã hội đã tạo dựng những điều kiện,
thời cơ, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu NLNN phải có trình độ học vấn nhất
định để đáp ứng địi hỏi của một nền SXNN mới: nơng nghiệp hàng hóa. Đến
lượt nó, trình độ học vấn của NLNN chính là cơ sở, điều kiện để người nơng
dân tiếp cận với công nghệ mới, kỹ thuật mới, học tập và tự học tập để nâng
cao trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, nâng cao năng suất lao động
nông nghiệp và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực của những
yếu tố tự nhiên, thời tiết...
Hiện nay, có nhiều cách để đánh giá trình độ học vấn của NLNN: người
ta có thể thống kê số lao động biết tiếng, biết chữ phổ thông (tiếng Việt) trở
lên trên tổng số LĐNN, hoặc trên tổng số NLNN của từng vùng, từng địa
phương. Thực tế cho thấy, ở các địa phương vùng sâu, vùng xa, biên giới,
vùng đặc biệt khó khăn, vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống...
tỷ lệ người khơng biết chữ cịn chiếm tỷ lệ tương đối cao trên tổng số NLNN;
ngược lại, ở vùng đồng bằng, vùng nông thôn gần các thành phố, đơ thị lớn...
tỷ lệ NLNN có trình độ học vấn nhất định thường chiếm tỷ lệ cao.
Thông thường, để đánh giá trình độ học vấn của NLNN, có thể thống
kê tỷ lệ tốt nghiệp bậc tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông... trên
tổng số NLNN. Những năm vừa qua, các địa phương trên cả nước đã và đang
thực hiện Chương trình Phổ cập giáo dục, nên trình độ học vấn của người lao
động nói chung và của NLNN nói riêng đã có bước cải thiện, tiến bộ đáng kể.
Vấn đề đặt ra hiện nay là: việc nâng cao trình độ học vấn cho đội ngũ NLNN

Luan van



22

khơng chỉ phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế, của ngành GDĐT mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự cố gắng, tích cực, chủ động của mỗi
người lao động trong đội ngũ NLNN.
Hai là, trình độ chuyên môn kỹ thuật của NLNN
Trên cơ sở của một trình độ học vấn nhất định, LĐNN có điều kiện tham
gia các lớp đào tạo, đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng... để tiếp thu và nâng cao trình
độ chun mơn, kỹ thuật phục vụ SXNN. Theo đó, một bộ phận NLNN có trình
độ đại học, sau đại học, cao đẳng, trung cấp...với những chuyên ngành trực tiếp
phục vụ hoạt động sản xuất - kinh doanh nông nghiệp như: chăn nuôi, trồng trọt,
thủy lợi, bảo vệ thực vật, thú y... Trong số đó, lại có một bộ phận có trình độ, năng
lực hoạt động ở các lĩnh vực chuyên sâu như: quản lý hoạt động SXNN; cán bộ kỹ
thuật nông nghiệp nghiên cứu lai tạo, sản xuất giống, cây trồng vật nuôi; cán bộ,
công nhân kỹ thuật nông nghiệp chuyên sửa chữa, bảo hành máy nông nghiệp,
vận hành hệ thống thủy nông... Bộ phận này thường chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số
NLNN của địa phương.
Trình độ chun mơn kỹ thuật của đại bộ phận NLNN còn lại - những
người trực tiếp sản xuất trên đồng ruộng và cũng là những người quyết định
năng suất, chất lượng SXNN - được phản ánh thông qua kết quả của việc thực
hiện các chương trình, kế hoạch của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa
phương các cấp như: chương trình khuyến nơng, khuyến lâm, khuyến ngư;
chương trình huấn luyện, chuyển giao cơng nghệ sản xuất mới cho nông dân.
Thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27
tháng 11 năm 2009), thời gian vừa qua các địa phương trên cả nước đã và
đang có sự chuyển mạnh đào tạo nghề cho lao động nơng thơn từ đào tạo theo
năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào tạo theo nhu cầu học nghề của lao
động nông thôn, LĐNN và yêu cầu của thị trường sức lao động; gắn đào tạo
nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của cả nước,
từng vùng, từng ngành, từng địa phương. Đặc biệt, những kết quả bước đầu


Luan van


23

về đổi mới và phát triển đào tạo nghề cho LĐNN, nông thôn theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và tạo điều kiện thuận lợi để LĐNN, nơng
thơn tham gia học nghề phù hợp với trình độ học vấn, điều kiện kinh tế và nhu
cầu học nghề của mình... góp phần tích cực nâng cao trình độ chun mơn kỹ
thuật của lao động nơng thơn nói chung và NLNN nói riêng. Chính vì vậy,
một trong những thước đo quan trọng nhất về trình độ chun mơn kỹ thuật
của NLNN chính là tỷ lệ NLNN được đào tạo nghề trên tổng số NLNN của cả
nước nói chung và của từng địa phương, tỉnh thành nói riêng.
Ba là, kỷ luật lao động, phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc của
nhân lực nơng nghiệp
Sản xuất nơng nghiệp hàng hóa lớn và quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH,
mở cửa, hội nhập quốc tế địi hỏi NLNN khơng chỉ có trình độ học vấn, trình
độ chun mơn kỹ thuật ngày càng cao mà còn đòi hỏi bộ phận nhân lực này
phải có kỷ luật lao động, phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc cơng nghiệp.
Theo đó, kỷ luật, đạo đức và tác phong của NLNN được thể hiện ở mức độ
nhận thức, ý thức trách nhiệm, tinh thần chủ động, tự giác, cần cù, chịu khó
trong cơng việc được giao của từng người, từng bộ phận; sự gắn bó với nghề
nghiệp, với công việc, ý thức chấp hành kỷ luật lao động, chấp hành chính
sách, pháp luật nhà nước; tinh thần tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao năng
lực, trình độ và tác phong làm việc của từng người lao động.
Bốn là, thể lực và tầm vóc của NLNN
Sản xuất nơng nghiệp là một hoạt động thường địi hỏi sự chi phí lớn về
thể lực, đặc biệt là trong giai đoạn khi CNH, HĐH nông nghiệp chưa được tổ
chức thực hiện một cách sâu rộng và có hiệu quả. Cùng với trình độ học vấn,

trình độ chun mơn kỹ thuật, yếu tố thể lực và tầm vóc cũng là một tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng NLNN trong q trình phát triển nói chung
và phát triển nơng nghiệp nói riêng. Đặc biệt, trong q trình CNH, HĐH
nơng nghiệp, nông thôn, trước yêu cầu của mở cửa, hội nhập quốc tế, thể lực
và tầm vóc của NLNN có vai trị, vị trí hết sức quan trọng trong q trình áp

Luan van


24

dụng công nghệ, kỹ thuật mới phục vụ SXNN, nâng cao năng suất lao động
nơng nghiệp. Lao động có học vấn, có trình độ chun mơn cao nhưng hạn
chế về thể lực và tầm vóc sẽ tác động tiêu cực đến chất lượng NLNN.
Hiện nay, việc đánh giá thể lực, tầm vóc của nguồn nhân lực nói chung
và NLNN nói riêng dựa trên cơ sở Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28 tháng
04 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Đề án tổng thể
phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011 - 2030”. Theo đó,
q trình cải thiện, nâng cao thể lực, tầm vóc thân thể của thanh niên Việt
Nam đạt nhịp độ tăng trưởng ổn định theo các tiêu chí sau: Đối với nam 18
tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 167 cm; năm 2030 chiều cao trung bình
168,5 cm; đối với nữ 18 tuổi: Năm 2020 chiều cao trung bình 156 cm; năm
2030 chiều cao trung bình 157,5 cm; cải thiện thể lực, đặc biệt là sức bền và
sức mạnh của đa số thanh niên có bước phát triển rõ rệt, thu hẹp khoảng cách
so với các nước phát triển ở châu Á
Để nâng cao và cải thiện thể lực, tầm vóc nhân lực nói chung và
NLNN nói riêng địi hởi phải quan tâm từ những hoạt động chung như:
chính sách kế hoạch hóa gia đình; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em;
chống suy dinh dưỡng...
Năm là, số lượng và cơ cấu nhân lực nông nghiệp hợp lý

Giữa chất lượng và số lượng, cơ cấu NLNN ln có mối quan hệ
chặt chẽ thống nhất với nhau. Một chất lượng cụ thể của NLNN cần có
một số lượng và cơ cấu hợp lý, tương ứng. NLNN có chất lượng nhưng số
lượng quá lớn (hoặc quá thiếu hụt), cơ cấu bất hợp lý sẽ cản trở SXNN,
gây khó khăn cho việc tăng năng suất lao động và cây trồng vật nuôi, đưa
SXNN lên sản xuất lớn.
Cùng với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, số lượng
NLNN đã và đang chuyển dịch theo hướng giảm dần. Nói một cách khác, tỷ
lệ lao động trong nông nghiệp giảm nhanh, trong khi tỷ lệ lao động trong công
nghiệp và dịch vụ tăng lên. Về cơ cấu, số lượng NLNN trực tiếp SXNN cũng

Luan van


25

sẽ giảm trong khi số NLNN gián tiếp tăng lên; tương tự như vậy: lao động
nơng nghiệp có kỹ thuật sẽ ngày càng có tỷ lệ áp đảo so với lực lượng lao
động phổ thơng. Cũng theo đó, bộ phận NLNN thực hiện chức năng, nhiệm
vụ tham mưu, kỹ thuật, quản lý sản xuất và hoạt động nông nghiệp cũng dần
được hồn thiện về cơ cấu
1.2. Quan niệm, vai trị, đặc điểm nâng cao chất lƣợng nhân lực
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh
1.2.1. Quan niệm về nâng cao chất lượng nhân lực nơng nghiệp tỉnh

Bắc Ninh
Để phát triển KT-XH cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực
có vai trị quyết định sự phát triển, vì con người vừa là một nguồn lực của
phát triển, vừa là chủ thể của các nguồn lực khác. Con người bằng lao động
sáng tạo đã phát hiện ra ngày càng nhiều nguồn lực trong tự nhiên và đã khơi

dậy tác dụng của các nguồn lực đó tạo thành những nguồn lực mới, làm tăng
lên những khả năng cho sự phát triển. Mặt khác, do đặc tính lao động sáng tạo
của con người mà NLLĐ trở nên sinh động và không cạn kiệt, hơn nữa nhân
lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội. Vì vậy, để
đảm bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm tới việc nâng cao
CLNL cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, để xây dựng CNXH và
chủ nghĩa cộng sản cần phải có một nguồn nhân lực chất lượng, nguồn nhân
lực đó chính là những con người mới xã hội chủ nghĩa. V,I. Lênin cũng nói
đến con người mới khá cụ thể, đó là những con người có tinh thần làm chủ tập
thể, có năng lực trình độ, hăng say lao động, coi trọng SX, có kỷ luật tự giác
cao, có tri thức khoa học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của
nền văn minh hiện đại, vì người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi
làm giàu trí tuệ của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng thành cơng
CNXH thì phải có những con người mới xã hội chủ nghĩa, đó là những con

Luan van


26

người vừa hồng vừa chuyên, vừa có đức vừa có tài, những con người phát
triển toàn diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí.
Với vị trí, vai trị nâng cao CLNL, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao... Coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
giỏi, đội ngũ chuyên gia, cán bộ lành nghề;... Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu đa dạng, đa tầng của cơng nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh
vực, ngành nghề” [24, tr.130]

Các nhà nghiên cứu của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) cho rằng, nâng cao CLNL chịu sự tác động, chi phối của 5 nhân tố:
GD-ĐT, sức khỏe và dinh dưỡng, môi trường, việc làm và sự giải phóng con
người; trong đó, GD-ĐT là nền tảng, còn những yếu tố khác là thiết yếu để
duy trì và đáp ứng sự phát triển bền vững của nhân lực.
Trong tác phẩm “Vấn đề con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”, Giáo sư
Phạm Minh Hạc cho rằng: Nâng cao CLNL được hiểu về cơ bản là tăng giá trị
cho con người, trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực… làm cho
con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới, đáp
ứng yêu cầu phát triển KT-XH và sự nghiệp CNH, HĐH của đất nước.
Từ những quan điểm trên có thể quan niệm: Nâng cao chất lượng
NLNN tỉnh Bắc Ninh là tổng thể các hình thức, phương pháp, biện pháp của
quá trình tổ chức tiến hành nâng cao chất lượng NLNN, nhằm biến đổi NLNN
theo hướng hợp lý về số lượng, nâng cao chất lượng về thể lực (sức khỏe,
điều kiện chăm sóc sức khỏe), trí lực (trình độ văn hóa, năng lực, trình độ
chun mơn kỹ thuật), nâng cao về chất lượng phẩm chất, đạo đức, tác
phong, kỷ luật làm việc của người lao động với việc hoàn thiện về cơ cấu
nhân lực, đáp ứng với tiến trình CNH, HĐH nơng nghiệp của Tỉnh, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Luan van


27

Quan niệm nâng cao chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh chỉ ra:
- Mục đích của nâng cao chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh là tạo ra một
đội ngũ NLNN có sức khỏe tốt, có trình độ, năng lực chun mơn, đáp ứng
yêu cầu SXNN hàng hóa chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh ở thị trường trong
nước, quốc tế và thích ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng nghiệp

(CCKTNN) theo hướng tăng nhanh dịch vụ và công nghiệp chế biến sản
phẩm nông nghiệp của Tỉnh.
- Chủ thể tổ chức nâng cao chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh là cấp ủy,
chính quyền các cấp, lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, các đơn vị sản xuất
thuộc các địa phương trong Tỉnh; đặc biệt, giai cấp nông dân vừa là đối tượng
vừa là chủ thể quan trọng, quyết định quá trình nâng cao chất lượng NLNN
trên địa bàn.
- Đối tượng để nâng cao là toàn bộ NLNN của Tỉnh, trong đó chú trọng
nâng cao chất lượng cho những nhân lực trực tiếp quản lý và lao động sản
xuất nông nghiệp.
- Nội dung nâng cao chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh là nâng cao chất
lượng bảo đảm vật chất, tinh thần, trình độ, năng lực, tay nghề cho NLNN của
Tỉnh; nâng cao khả năng hợp tác SX, khả năng tham gia vào CNH, HĐH
nơng nghiệp; khả năng phân tích, đánh giá để tham gia cạnh tranh có hiệu quả
trong SXNN; nâng cao khả năng tổ chức SX, tái cơ cấu nông nghiệp, khả
năng duy trì và phát huy sản phẩm làng nghề truyền thống trong Tỉnh.
- Hình thức, phương pháp tiến hành nâng cao chất lượng NLNN là tập
hợp các hình thức hoạt động nhằm thực hiện mục đích, nội dung nâng cao
chất lượng NLNN đã xác định. Nâng cao chất lượng NLNN là sự thống nhất
giữa bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại... của tổ chức, của các cấp, các ngành, kết
hợp với sự tự học, tự bồi dưỡng của mỗi NLNN.
- Giải pháp nâng cao chất lượng NLNN tỉnh Bắc Ninh là tập trung vào
việc bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp; tổ chức xây dựng qui

Luan van


×