Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Đề án tốt nghiệp nội dung ba khâu đột phá chiến lược – thực tiễn ở tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.67 KB, 51 trang )

MỤC LỤC
Phần 1. MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ ÁN.................................................................1
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN.......................................................................3
1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN......................................................................3
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN........................................................................3
Phần 2. NỘI DUNG..........................................................................................4
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN..............................................................4
2.1.1. Căn cứ lý luận...................................................................................4
2.1.2. Căn cứ chính trị, pháp lý ...............................................................13
2.1.3. Căn cứ thực tiễn..............................................................................16
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN....................................................21
2.2.1. Thực tiễn thực hiện ba khâu đột phá của tỉnh Quảng Ninh............21
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế...................................................36
2.2.3. Nhóm những giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả thực hiện ba
khâu đột phá ở tỉnh Quảng Ninh..............................................................36
2.3. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN.........................................................43
2.3.1. Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đề án..........................43
2.3.2. Các nguồn lực để thực hiện đề án..................................................43
2.3.3. Kế hoạch, tiến độ thực hiện đề án..................................................43
2.3.4. Phân công trách nhiệm thực hiện đề án..........................................43
2.4. DỰ KIẾN HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN................................................43
2.4.1. Sản phẩm của đề án.......................................................................43
2.4.2. Tác động và ý nghĩa của đề án.......................................................43
Phần 3. KẾT LUẬN........................................................................................44
Phần 3. KẾT LUẬN........................................................................................44
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................45


Phần 1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ ÁN


Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, từng bước đưa đất
nước thốt khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm các quốc gia đang
với triển với nhiều cơ hội, nhiều tiềm năng và lợi thế.
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tuyên bố tiến hành công cuộc
đổi mới tồn diện đất nước, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đổi mới tư duy
kinh tế, cho đến nay, trải qua nhiều kỳ Đại hội, tư duy của Đảng về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một q trình trải nghiệm, đã có
những bước phát triển từ thấp đến cao, từ chưa đầy đủ, hoàn thiện đến ngày
càng đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, xét sâu xa, Việt Nam chưa thực sự có nền kinh tế thị trường
theo đúng nghĩa. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn rất mới mẻ, chỉ mới
đang hình thành và phát triển. Cơ cấu thị trường chưa đầy đủ, dung lượng thị
trường nhỏ hẹp; các yếu tố kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ; cịn
chịu nhiều ảnh hưởng của mơ hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp…Vì vậy, xác định những nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát
triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam để vận hành đúng hướng là rất quan
trọng và vô cùng cần thiết.
Hơn nữa, trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam cũng tích cực, chủ động tham gia các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực
như BTA, AFTA, APEC, ASEAN, WTO…, bước vào sân chơi lớn trong nền
kinh tế toàn cầu, tạo cơ hội để đất nước đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,
bắt kịp với sự phát triển của các quốc gia trong và ngồi khu vực. Tuy thế,
tồn cầu hố và hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang đến những hệ lụy nhất
định như gia tăng sự phân hoá giàu nghèo cũng như sự chênh lệch về thu
nhập; vấn đề ơ nhiễm mơi trường, thiên tai, dịch bệnh… có xu hướng gia
tăng.
Chính vì những lý do trên, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề
ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu



tổng quát là "Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương,
đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt;
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để
phát triển cao hơn trong giai đoạn sau".
Để tạo tiền đề thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ này, Chiến
lược xác định ba khâu đột phá, hiện đang là những điểm nghẽn, cản trở sự
phát triển kinh tế - xã hội như sau: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình
đẳng và cải cách hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo
dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ,
với một số cơng trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng
đô thị lớn.”
Chính phủ cũng đã yêu cầu các bộ, ban, ngành và các địa phương chỉ
đạo, điều hành tập trung, quyết liệt thực hiện giải quyết 3 khâu đột phá chiến
lược, kết hợp giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Sau 5 năm triển khai thực hiện ba khâu đột phá chiến lược, nhìn trên
bình diện cả nước, hiệu quả vẫn chưa rõ nét, chưa chuyển động mạnh, thể chế
vẫn chậm được thay đổi, kết cấu hạ tầng vẫn còn nhiều bất cập, giáo dục đào
tạo nguồn nhân lực chưa tìm được giải pháp hữu hiệu. Có thể nói, ba khâu đột
phá chiến lược chưa đạt được kỳ vọng như mong đợi và nền kinh tế nước ta
vẫn đang trong tình trạng phải khắc phục nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, các địa phương ít nhiều đã được những thành tựu tích cực.
Trong đó, phải kể đến một điểm sáng là tỉnh Quảng Ninh. Mặc dù đạt được
nhiều thành cơng, nhưng trong q trình thực hiện ba khâu đột phá, Quảng
Ninh cũng gặp khơng ít những khó khăn, thách thức. Những khó khăn, thách

thức này bao gồm chủ quan và khách quan, ít nhiều cản trở đến sự thành cơng
của việc thực hiện ba khâu đột phá. Chính vì vậy, tác giả chọn đề án: “Nội
dung ba khâu đột phá chiến lược – Thực tiễn ở tỉnh Quảng Ninh” để


nghiên cứu, góp phần chỉ ra những bài học giúp Quảng Ninh thực hiện tốt hơn
nữa ba khâu đột phá chiến lược này và là gợi ý tham khảo với các địa phương
trên cả nước.
1.2.
MỤC
TIÊU
CỦA
ĐỀ
ÁN
Trên cơ sở phân tích lý luận; căn cứ chính trị, pháp lý; căn cứ thực tiễn
của ba khâu đột phá chiến lược và phân tích thực tiễn thực hiện ba khâu đột
phá chiến lược ở tỉnh Quảng Ninh cũng như chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân của nó, tác giả sẽ đưa ra những nhóm giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu
quả thực hiện ba khâu đột phá hơn nữa ở tỉnh Quảng Ninh.
1.3.
NHIỆM
VỤ
CỦA
ĐỀ
ÁN
- Phân tích căn cứ lý luận; căn cứ chính trị, pháp lý; căn cứ thực tiễn của ba
khâu
đột
phá
chiến

lược;
- Phân tích thực tiễn thực hiện ba khâu đột phá chiến lược ở tỉnh Quảng Ninh
cũng như chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của nó;
- Gợi ý những nhóm giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả thực hiện ba khâu
đột phá ở tỉnh Quảng Ninh
1.4.
GIỚI
HẠN
CỦA
ĐỀ
ÁN
- Về phạm vi đối tượng: Những nội dung cốt lõi nhất của ba khâu đột phá
được nêu trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là:
+ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh và cải cách hành chính;
+ Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với ứng dung khoa học –
công nghệ;
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung
vào hệ thống giao thơng và hạ tầng đô thị lớn.
- Về không gian: tỉnh Quảng Ninh
- Về thời gian: Năm 2011- 2015


Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Căn cứ lý luận
Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã xác định ba khâu đột phá chiến lược
giai đoạn 2011 – 2020 là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và cải
cách hành chính; Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực

chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân,
gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ; Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.”
Như vậy, ba khâu đột phá chiến lược tập trung vào ba nội dung trọng
tâm của nền kinh tế, hiện đang là ba điểm nghẽn, là “nút thắt” cản trở sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả ba khâu đột phá này sẽ kiến tạo một thị
trường đúng nghĩa, giải phóng sức sản suất, đồng thời cũng hướng tới một
nền kinh tế phát triển bền vững, hướng tới mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2.1.1.1. Vai trị của việc hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính
Trong ba khâu đột phá chiến lược, khâu đột phá về thể chế là khâu cần
tập trung làm nhất dù đây là một q trình khó khăn, lâu dài. Đổi mới thể chế
ở đây, trọng tâm là đổi mới, tạo lập một mơi trường cạnh tranh bình đẳng và
cải cách hành chính.
Thứ nhất, vai trị hàng đầu của thể chế là định hướng, hướng dẫn và tạo
khung khổ pháp lý cho việc tổ chức hoạt động của nền kinh tế: Mọi doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường; xóa bỏ
tình trạng độc quyền và những cơ chế chính sách tạo ra bất bình đẳng trong
kinh doanh, nhất là trong việc tiếp cận các nguồn lực; bảo đảm thúc đẩy sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, sự phân công lao động xã hội ngày càng sâu
sắc.


Hai là, tạo ra nền tảng kinh tế xã hội của một nền kinh tế như: chế độ sở
hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế.

Ba là, đóng vai trị chủ thể quản lý kinh tế, với các cơng cụ quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tác động đến điều tiết, định
hướng nền kinh tế.
Đây là khâu trọng yếu quyết định sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh
tế và thực hiện các chức năng thiết yếu: định hướng sự phát triển kinh tế, tạo
môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế; khuyến khích, giúp đỡ, tạo lập
mơi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế; điều tiết kinh tế, phân phối
và phân phối lại thu nhập quốc dân; khắc phục, ngăn ngừa những yếu tố tiêu
cực của thị trường.
Trong đó, Cải cách hành chính có vai trị đặc biệt quan trọng. Cải cách
hành chính có hiệu quả cao sẽ thiết định được hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước có thẩm quyền kinh tế trong sạch, vững mạnh, thơng suốt, hiện đại,
gần dân, sát dân. Các quan hệ kinh tế luôn phát sinh, thay đổi, chấm dứt liên
tục. Điều này đòi hỏi hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là các cơ
quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về kinh tế phải không ngừng trau dồi
kỹ năng phản ứng nhanh, đổi mới cơ cấu, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn để thích ứng trong thực thi nhiệm vụ quản lý kinh tế. Cải cách
hành chính sẽ kịp thời rà sốt, chấn chỉnh, loại bỏ, phát hiện vướng mắc, bổ
sung, thay đổi, hệ thống hóa nhằm tạo bộ thủ tục trong kinh doanh chỉn chu,
thuận tiện, kịp thời, hiện đại để các chủ thể kinh doanh đón bắt kịp thời cơ
kinh doanh và kích thích, thu hút, tạo sự hấp dẫn cho quá trình đầu tư.
Cải cách hành chính có hiệu quả cao sẽ tạo ra một bộ khung thể chế thống
nhất, hoàn chỉnh ngày càng phù hợp cho nền kinh tế.
Bốn là, hình thành góp phần đồng bộ hố hệ thống thị trường, từng
bước hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền kinh tế thị trường
nước ta
Tính đồng bộ của hệ thống thị trường có vai trị hết sức to lớn đối với
quá trình phát triển hệ thống thị trường và nền kinh tế. Nếu thiếu một trong
các loại thị trường thì một mặt, các chủ thể sản xuất kinh doanh khó có được



những cơ hội và điều kiện thuận lợi, bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng
các nguồn lực cho sự phát triển; mặt khác, tính đồng hộ, tính ràng buộc và
tính cân đối giữa chúng bị vi phạm sẽ cản trở, thậm chí làm phá vỡ các chiến
lược kinh doanh đã định.
Năm là, góp phần tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những
khuyết tật của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường bên cạnh mặt tích cực là
tạo ra cơ chế năng động, sáng tạo và hiệu quả thì cũng thường xuyên xảy ra
tiêu cực cần hạn như cạnh tranh và chính phủ, chạy theo lợi nhuận mà quên đi
mục tiêu xã hội, phân hoá giàu nghèo... thơng qua hệ thống pháp luật, hệ
thống các chính sách mà tác động điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực trên
đây.
Sáu là, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cạnh tranh thúc
đẩy sự đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, kích
thích nhu cầu phát triển, làm nảy sinh những nhu cầu mới, góp phần nâng cao
chất lượng đời sống xã hội và phát triển nền kinh tế; làm nền kinh tế quốc dân
vững mạnh, tạo khả năng cho doanh nghiệp vươn ra thị trường nước ngoài.
Đặc biệt, trong bối cảnh so với các nước trên thế giới, năng lực cạnh
tranh quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh sản phẩm của Việt Nam đều ở
trình độ thấp hơn. Có thể thấy chất lượng của thể chế, cụ thể là mơi trường
kinh doanh có tầm quan trọng hàng đầu, ảnh hưởng và có tính quyết định đến
năng lực cạnh tranh, khơng thể có năng lực cạnh tranh cao nếu khơng có một
thể chế chất lượng cao và một nền quản trị quốc gia hiện đại. Chất lượng thể
chế không chỉ tác động như một yếu tố tự thân mà cịn ảnh hưởng có tính
quyết định đến mơi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của cả nền kinh
tế, của từng doanh nghiệp và là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả
lợi thế quốc gia. Thực tế đã cho thấy, chỉ có sự thay đổi về thể chế thì mơi
trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế mới có sự thay đổi,
chúng ta đã nhận được rất nhiều thành tựu từ những sự thay đổi thể chế từ
trước tới nay (như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngồi, Luật Đất

đai…).
Trong cơng cuộc đổi mới, với mục đích lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, Việt Nam cần tiến hành song song việc tạo lập một môi trường cạnh


tranh bình đẳng với cải cách hành chính và khơng ngừng phát huy vai trị của
cải cách hành chính đối với kinh tế, xem cải cách hành chính là khâu mấu
chốt đảm bảo sự thành công trong phát triển kinh tế.
2.1.1.2. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực (NNL) chất lượng cao là vấn đề được bàn tới rất nhiều
trong các kỳ Đại hội, đóng vai trị là động lực trực tiếp để thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Biểu 2.1: Tầm quan trọng của Nguồn Nhân Lực

Thứ nhất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng
cách phát triển giữa miền núi và miền xi
Vai trị quyết định của NNL trong tăng trưởng kinh tế thể hiện ở chỗ,
NNL là nguồn cung cấp lao động sống cho nền kinh tế, do đó là yếu tố quyết
định hiệu quả sử dụng của các yếu tố khác. Đối với việc áp dụng khoa học
cơng nghệ, dù có hiện đại, tiên tiến đến mấy thì cũng khơng thể vận hành mà
khơng có bàn tay con người.
Việc phát huy vai trị động lực của khoa học - cơng nghệ phụ thuộc chủ yếu
vào số lượng và chất lượng của NNL hiện có, do đó thực tiễn phát triển kinh
tế thế giới cho thấy, các quốc gia phát triển đều quan tâm tới phát triển NNL,


đặc biệt thơng qua các chính sách tổng thể về phát triển con người, trong đó
giáo dục đào tạo thường được coi là quốc sách.
Việc phát triển NNL đồng đều giữa các vùng miền cũng là động lực trực tiếp

tác động đến các yếu tố khác phát triển, góp phần rút ngắn sự chênh lệch giữa
các vùng, miền.
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn
nhân lực chất lượng cao còn thấp so với nhu cầu của thực tế. Trong 5 năm
(2011-2015), lao động qua đào tạo nghề ở tất cả các trình độ như cao đẳng
nghề, trung cấp nghề, sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng đạt 38,5%. Tổng
cục dạy nghề đặt mục tiêu nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo nghề là 63%
vào năm 2020.
Trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thơng, thì lại thiếu hụt nghiêm
trọng lao động có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công
nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Đây là tình trạng đáng báo
động, khơng phù hợp với quy luật tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có
trình độ chun mơn kỹ thuật bao giờ cũng phải cao hơn tốc độ tăng GDP để
đảm bảo tăng GDP một cách vững chắc.
Thứ hai, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động
xã hội theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
Sự phát triển nguồn nhân lực làm cho chất lượng nguồn nhân lực được
tăng lên, cơ cấu lao động qua đào tạo, có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng
lên, người lao động sẽ được nâng lên về mọi mặt: thể lực, tay nghề, chuyên
môn, kỹ thuật…, hơn nữa cũng tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học, kỹ sư có
thể phát triển cơng nghệ từ các khâu nghiên cứu, triển khai và ứng dụng làm
thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển theo hướng tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông, lâm - ngư nghiệp.
Giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có mối quan hệ biện chứng với
nhau, cơ cấu kinh tế luôn ở trạng thái động, hình thành khách quan theo yêu
cầu của thị trường chịu sự tác động của yếu tố khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hơn cơ cấu lao động, quyết định
và chi phối cơ cấu lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ không thể nhanh



và bền vững theo hướng CNH, HĐH một khi cơ cấu lao động quá lạc hậu,
không phù hợp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao
động, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực. Ngược lại PTNNL sẽ
tạo điều kiện và tiền để để chuyển dịch cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sau rộng, thị trường
lao động Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức mà chỉ có một
nguồn nhân lực chất lượng cao mới nắm bắt được cơ hội, vượt qua được thách
thức, đảm bảo sự phát triển bền vững và chủ động hội nhập vào thị trường
tồn cầu, mới quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư FDI này, đồng
thời mới có khả năng tiếp nhận và làm chủ những cơng nghệ tiên tiến do nguồn
đầu tư nước ngoài mang vào Việt Nam.
Thứ ba, nâng cao khả năng tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức
Bước sang thời đại bùng nổ của cách mạng khoa học- cơng nghệ, tình
hình đã thay đổi: nước giàu tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào
chưa hẳn đã có lợi thế trong phát triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc
khan hiếm lao động giản đơn. Trên thực tế, chẳng hạn, Singapore, với dân số
5,54 triệu người (tính đến tháng 6/2015), tài ngun khơng có gì đặc biệt, đã
nổi lên như một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới. Để có
được kết quả như vậy, một trong hướng đi của họ là đào tạo một nguồn nhân
lực tốt. Ngay từ cuối năm 1998, Uỷ ban cạnh tranh của Singapore (CSC) đã
công bố chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong một thập kỷ với mục tiêu
là “trí thức hoá” lực lượng lao động. Chỉ số cạnh tranh nhân tài GTCI của
Singaporre luôn ở mức cao, xếp thứ 2/109 quốc gia tham gia đánh giá (20152016). Trong khi Việt Nam chỉ xếp thứ 82. Các quốc gia như Nhật Bản, Hồng
Kông, Singapore, Hàn Quốc là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng họ lại
là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ,
nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc gia
có nền kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trị quyết định cho sự thành công
trong phát triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất

lượng cao. Ở các nước phát triển cao người ta đã tính tốn được rằng trong


giá trị của những sản phẩm cao cấp thì hàm lượng chất xám chiếm 70%, năng
lượng 10%, nguyên liệu 10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%.
Trong nền kinh tế tồn cầu cạnh tranh quyết liệt thì ưu thế cạnh tranh ln
nghiêng về các quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, hiện nay
trong chiến lược phát triển của mình, nhiều quốc gia đã xác định phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố cạnh tranh cơ bản nhất.
Quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam coi trọng phát triển tri thức được
xem là rất cần thiết ở nước ta “Coi kinh tế tri thức yếu tố quan trọng của của
nền kinh tế và CNH, HDH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có
giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri
thức của con người việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”. Như vậy,
sự phát triển kinh tế tri thức của một quốc gia chỉ có thể đạt được khi NNL
của quốc gia đó là nguồn nhân lực có chất lượng cao, có kiến thức, kỹ năng,
năng lực tiếp thu tri thức mới, có khả năng hội nhập và thích ứng nhanh với
mơi trường tồn cầu hóa về kinh tế.
Tóm lại: Động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát
triển tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều
đó lý giải tại sao con người, mà trước hết là NNL chất lượng cao, được coi là
nhân tố năng động nhất, quyết định nhất của sự phát triển kinh tế-xã hội. Vì
vậy, để phát triển, mỗi ngành, lĩnh vực nói riêng, quốc gia, dân tộc nói chung
cần coi trọng chiến lược xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt là phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
2.1.1.3. Vai trò của việc xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số cơng
trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thơng và hạ tầng đơ thị lớn
Nhiều cơng trình nghiên cứu ở các nước công nghiệp phát triển đã chỉ
ra, nếu không phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ thì khơng thể phát triển kinh
tế - xã hội, khơng thể xây dựng được một nền kinh tế thị trường hiện đại. Kết

cấu hạ tầng có vai trị quan trọng trong phát triển kin tế - xã hội của mọi quốc
gia, thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, KCHT phục vụ trực tiếp quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội


KCHT cung cấp các sản phẩm và dịch vụ đầu vào cũng như dịch vụ
đầu ra đối với mỗi hoạt động của của các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, tạo
ra những mối liên hệ giữa các bộ phận trong trong vùng và giữa các vùng
khác nhau trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Nhờ đó mà mọi tiềm năng kinh
tế của vùng có cơ hội được khai thác, sử dụng và phát huy hiệu quả; hoạt
động sản xuất kinh doanh được đẩy mạnh, nâng cáo năng suất, chất lượng và
hạ giá thành sản phẩm…đó cũng là cơ hội để kinh tế địa phương, kinh tế vùng
có điều kiện tăng trưởng phát triển cao, bền vững cả bề rộng lẫn chiều sâu, tạo
việc làm và nâng cao thu nhập, đồng thời tạo điều kiện để nâng cao đời sống
vật chất tinh thần cho nhân dân, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
ngày càng cao.
Sự phát triển của hệ thống giao thông đảm bảo sẽ là cầu nối giữa sản
xuất và tiêu dùng, tạo ra cơ hội lớn cho việc mở rộng thị trường và thực hiện
chun mơn hóa sản xuất cho mọi vùng miền trong một quốc gia và phạm vi
quốc tế; đồng thời là cầu nối giữa các trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội các
vùng miền khác nhau, cùng tạo đà cho nhau tăng trưởng và phát triển bền
vững kinh tế của địa phương.
Sự phát triển của mạng lưới điện quốc gia tạo điều kiện mở rộng và
nâng cao năng suất, chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh; nhờ có
điện nhiều ngành nghề đã áp dụng, chuyển giao khoa học cơng nghệ một cách
nhanh chóng vào ngành sản xuất của mình; nhiều ngành nghề tiểu thủ cơng
nghiệp và dịch vụ có bước phát triển mới cả về chất lẫn về lượng; đời sống
vật chất tinh thần, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thanh, truyền hình

được cải thiện rõ rệt.
Sự phát triển của hệ thống thông tin liên lạc góp phần tạo ra sự thuận
lợi giao lưu giảm bớt chi phí đi lại giữa các vùng miền trong nước và trong
phạm vi quốc tế. Đây cũng là yếu tố tạo điều kiện thông tin nhanh về thị
trường hàng hóa - một yêu cầu cấp thiết để gắn sản xuất với thị trường tiêu
thụ, đảm bảo nắm bắt sản xuất và thay đổi nhanh nhạy với điều kiện của thị
trường, do đó đã tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển sản xuất làm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cao và bền vững.


Cùng với sự phát triển của hệ thống KCHT nêu trên, việc phát triển hệ
thống nước sạch và hệ thống thốt nước cũng có một ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, là một trong những tiêu chí để
đánh giá sự tiến bộ của xã hội, góp phần ổn định và phát triển chất lượng cuộc
sống ngày càng cao.
Thứ hai, KCHT góp phần tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư thúc đẩy q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy, sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một q trình lâu dài, khó khăn và phức
tạp. Để thực hiện được việc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, địi hỏi phải có
nhiều vốn, mà KCHT là một tiền đề khơng thể thiếu được cho q trình đơ thị
hóa và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi vậy, đầu tư phát triển
KCHT có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, nó là tiền đề mang tính chất “xương
cốt” của cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngồi, kích thích tăng đầu tư trong nước, thúc đẩy nhanh chóng q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, KCHT, tác động tích cực đến việc bảo vệ mơi trường, nâng
cao chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí
Tại các khu đô thị, hệ thống KCHT là một trong những điều kiện cơ
bản góp phần bảo vệ mơi trường, một KCHT theo đúng tiêu chuẩn, phù hợp

với quy hoạch phát triển đơ thị sẽ góp phần xử lý được vấn đề ơ nhiễm mơi
trường.
Mặt khác, đầu tư cho KCHT, cịn góp phần đẩy lùi nghèo đói. Các dịch
vụ KCHT có ích đối với người nghèo trong việc bảo vệ môi trường như việc
cung cấp nước sạch, những thiết bị làm sạch, những nguồn điện không gây ô
nhiễm, những phương tiện thông tin liên lạc tiện ích, hệ thống giao thơng
thuận lợi, khu vui chơi giải trí, cơng trình thể dục thể thao, cơ sở y tế, giáo
dục… người nghèo thường được hưởng một cách trực tiếp nhất những dịch
vụ này mang lại, vì phần lớn họ sống tập trung trong những khu dân sinh
không sạch, bị ô nhiễm, nguy hại đến sức khỏe. Chính vì vậy, phát triển
KCHT làm cho đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư được
cải thiện, tạo điều kiện cho mọi người mở rộng và nâng cao kiến thức ở các


mức độ khác nhau, giảm bớt sự chênh lệch về chất lượng cuộc sống giữa
thành thị và nông thôn, từng bước đảm bảo sự công bằng về mặt phúc lợi cho
người nghèo.
Thứ tư, kết cấu hạ tầng góp phần củng cố an ninh, quốc phịng
KCHT khơng những có chức năng trực tiếp phục vụ sản xuất mà đồng
thời nó cịn phục vụ cả quốc phòng, an ninh quốc gia. Để phục vụ tốt các
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đòi hỏi phải có một hệ thống KCHT tốt, phù
hợp và hiện đại. Làm được điều này sẽ góp phần quan trọng đảm bảo trật tự
an toàn xã hội, cung cấp hậu cần cho các lực lượng an ninh, phòng chống tội
phạm và tham gia chống bn lậu. Bên cạnh đó, KCHT cũng góp phần bảo vệ
các cơng trình dân sinh, phòng chống, giảm bớt và khắc phục sự phá hoại của
thiên tai như hệ thống đê điều, kè cống; tham gia vào phịng chống lũ lụt, hạn
hán, góp phần làm nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đảm bảo cho cuộc sống
con người.
Tóm lại, KCHT đồng bộ, là điều kiện vơ cùng cần thiết và có ảnh
hưởng đối với tăng trưởng kinh tế, góp phần khắc phục tình trạng đói nghèo,

lạc hậu. KCHT là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn
dài, luân chuyển chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp nên không hấp dẫn đối với khu
vực kinh tế tư nhân, do đó cần sự quan tâm hỗ trợ tích cực của Nhà nước.
2.1.2.
Căn
cứ
chính
trị,
pháp

2.1.2.1. Của Trung ương
- Nội dung của ba khâu đột phát chiến lược được thể hiện đầy đủ, trọng vẹn
trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011);
- Chương trình lập pháp của Quốc hội khóa XIII, giai đoạn 2011-2015, với
chủ trương sửa đổi và ban hành khoảng 85 đạo luật, trong đó sửa đổi Hiến
pháp năm 1992, sửa đổi Luật Ngân sách Nhà nước, sửa đổi hàng loạt đạo luật
về tổ chức bộ máy Nhà nước như: Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân,
Viện Kiểm sát nhân dân, ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân các cấp, sửa
đổi Luật Giám sát Quốc hội, sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005, Luật Đất đai năm
2003, ban hành Luật Thủ đô và xây dựng hàng chục đạo luật khác tạo điều
kiện cho người dân tham gia tích cực hơn vào việc quản trị quốc gia có thể
thấy thời cơ cho những cải cách thể chế chính trị đang xuất hiện;


- Luật Giáo dục Đại học được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 3
ngày 18/6/2012;
- Các Nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa nhiệm vụ thực hiện
ba khâu đột phá chiến lược:
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã giành nhiều kỳ họp để
thảo luận các đề án khác nhau cụ thể hóa nhiệm vụ thực hiện ba khâu đột phá

chiến lược, đã ban hành nhiều nghị quyết và kết luận như:
+ Nghị quyết số 13NQ/TƯ ngày 16/1/2012 tại Hội nghị lần thứ 4 về “Xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”;
+ Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 đã ban hành Nghị quyết về “Phát triển
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”. ???. Hội nghị đưa ra những kết luận về “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”;
- Chương trình tổng thể Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020
ban hành theo Quyết định số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ;
- Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 19/4/2011;
- Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012;
- Chiến lược phát triển giao thơng vận tải đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 (điều chỉnh) và Chiến lược phát triển giao thông đường bộ đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 (điều chỉnh) được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại các Quyết định số 355/QĐ-TTg và số 356/QĐ-TTg ngày 25/2/2013.
2.1.2.2. Của địa phương
Đảng bộ, chính quyền các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương đều
có nghị quyết, kết luận, chương trình hành động riêng để cụ thể hóa nghị
quyết, chỉ thị, kết luận, chương trình của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về thực


hiện ba khâu đột phá chiến lược ở địa phương. Đối với Quảng Ninh, các chỉ
đạo cụ thể như sau:
- Ba khâu đột phá nằm là hai trong sáu nguyên tắc phát triển quan trọng của

tỉnh. Đó là: Lấy phát triển hạ tầng, cải cách hành chính đồng bộ, hiện đại
làm nền tảng; Lấy giáo dục đào tạo, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao,
sáng tạo và ứng dụng khoa học – công nghệ làm động lực;
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị Quyết số 15-NQ/TU ngày
9/6/2014 và chỉ thị số 28-CT/TU ngày 11/6/2014 về đẩy mạnh cải cách hành
chính trong đó tập trung triển khai các giải pháp xây dựng một nền hành
chính hiện đại;
- Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững; bảo đảm vững chắc
quốc phòng – an ninh và thí điểm xây dựng hai đơn vị hành chính – kinh tế
đặc biệt Vân Đồn, Móng Cái” được Bộ Chính trị cho chủ trương tại Thơng
báo 108 – TB/TW ngày 01/10/2012 với 07 nhóm cơ chế, chính sách;
- Đề án “Xây dựng khu dịch vụ du lịch phức hợp cao cấp có casino tại khu
kinh tế Vân Đồn” được Bộ Chính trị cho chủ trương tại thơng báo 138 –
TB/TW ngày 24/6/2013 đồng ý các đề xuất đột phá;
- Quyết định số 2428/QĐ-TTg ngày 31/12/2014 được Chính phủ ban hành về
một số cơ chế, chính sách đặc thù đối với tỉnh Quảng Ninh và Khu kinh tế
Vân Đồn;
- Chỉ thị số 25 –CT/TU ngày 28/02/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc
triển khai thực hiện kết luận 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI, Nghị quyết số 10 NQ/TU ngày 05/12/2013 và
Nghị quyết số 19-NQ/TU ngày 3/3/2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh về
“ Đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng; thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế”;
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010 2015) chỉ rõ: “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào sản xuất, dịch vụ, phát
triển mạnh những ngành có lợi thế, gắn với thu hút đầu tư phát triển những
lĩnh vực có hàm lượng cơng nghệ cao. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
chú trọng thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao, cơng nhân kỹ thuật lành
nghề”;.



+ Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và phát triển toàn diện
nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020” với phạm vi, quy mơ tồn
tỉnh, bao phủ toàn diện về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng;
+ Đề án “ Đào tạo nghề cho lao động nông thôn”.
2.1.3. Căn cứ thực tiễn
2.1.3.1. Kết quả thực hiện đường lối đổi mới ĐH VI
Trải qua một thời gian dài, Việt Nam theo đuổi cơ chế kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Điều này đã cản trở không nhỏ đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,
phần lớn dân số sống bằng nghề nơng, thu nhập bình quân đầu người rất thấp
và nhiều hộ gia đình trong diện nghèo đói, nhiều ngành sản xuất ngày càng trì
trệ. Việt Nam bị đánh giá là một nước nơng nghiệp nghèo nàn và lạc hậu.
Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã tuyên bố tiến hành cơng
cuộc đổi mới tồn diện đất nước, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến đổi mới tư
duy kinh tế, nắm vững các quy luật kinh tế khách quan.
Đại hội đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với
những hình thức kinh doanh phù hợp và nêu rõ: “Nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”.
Sự thay đổi đột phá có tính chất chiến lược và mở đường này đã đưa
nền kinh tế Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường, xóa bỏ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp; giải quyết được những mâu thuẫn
trong sự phát triển đất nước, dần dần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng,
tạo động lực cho những bước phát triển mới cao hơn.
2.1.3.2. Kết quả thực hiện các đột phá của ĐH IX
Kế thừa và phát triển đường lối của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam
chính thức khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội. Mục đích của nền kinh tế này là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn
2001 - 2010 với ba khâu đột phá: (i) Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị


trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính
sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và
ngoài nước; (ii) Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng
tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; (iii) Đổi mới tổ chức bộ
máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách
hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Sau 10 năm triển khai thực hiện ba khâu đột phá mà Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX đề ra, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Đất
nước thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn, kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được cải thiện
rõ rệt, GDP bình quân đầu người không ngừng gia tăng từ mức 289 USD năm
1995 lên mức 1.168 USD năm 2010. Tỷ lệ hộ nghèo được giảm đáng kể.
Bảng 2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và vốn đầu tư/GDP (1986-2010)
Giai đoạn

Tăng trưởng GDP (%)

Vốn đầu tư/GDP

1986-1990

4,85

12,6

1991-1995


8,21

28,2

1996-2000

7,00

33,3

2001-2005

7,49

39,1

2006-2010

6,90

42,7

Nguồn: GSO
Thể chế kinh tế thị trường cơ bản được hình thành, các loại thị trường
từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn kết ngày càng tốt hơn với
thị trường thế giới. Trong đó: Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động dần chuyển đổi
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; cải cách hành chính mà trọng tâm
là cải cách thủ tục hành chính được triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết
quả tích cực, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong sản xuất kinh

doanh, thực hiện các giao dịch
Kết cấu hạ tầng đã có những cải thiện đáng kể, kết cấu hạ tầng kinh tế
được nâng cấp theo hướng hiện đại, cụ thể cho đến 2010, tổng chiều dài quốc
lộ đã đạt trên 17.300 km, tổng chiều dài đường sắt 3.400 km, tổng năng lực
thông qua cảng biển tăng thêm trong 10 năm 1996-2005 khoảng 880 triệu tấn,


tổng năng lực vận tải hàng không đạt trên 12 triệu lượt khách/năm. Nguồn và
hệ thống truyền tải điện phát triển đồng bộ với tổng công suất nguồn đạt
11.440MW, trong đó thủy điện chiếm 38%, nhiệt điện 62%, sản lượng điện
thương phẩm năm 2010 đạt 85,69 tỷ kWh. Hệ thống thủy lợi được đầu tư
nâng cấp trên các vùng, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng năng suất nông
nghiệp. Kết cấu hạ tầng nơng thơn có nhiều cải thiện, đến nay hầu như 100%
số xã đã có điện lưới, đường ôtô đến trung tâm, điện thoại, trạm y tế, nhà văn
hóa, hệ thống giáo dục từ mẫu giáo đến trung học. Cơ sở vật chất các ngành
dịch vụ như du lịch, bưu chính viễn thơng, vận tải, tài chính ngân hàng, bảo
hiểm, phân phối bán lẻ... phát triển nhanh.
Đầu tư nước ngồi ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Tính từ năm 1988 đến
năm 2010, đã có 13.544 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt
Nam với tổng vốn đăng ký 213 tỷ USD, vốn thực hiện 77,95 tỷ USD chiểm
khoảng 20% tổng vốn đầu tư xã hội hàng năm. Chứng tỏ môi trường cạnh
tranh của Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Quy mô giáo dục và đào tạo tăng nhanh, chất lượng nguồn nhân lực có
bước cải thiện đáng kể.; lao động chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động
trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ lao động trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng số lao động xã
hội đã giảm từ 65,1% năm 2000, 57,2% năm 2005 và 48,2%% năm 2010; lao
động công nghiệp tăng từ năm 2000, 18,2% năm 2005 và 22,4% năm 2010;
lao động trong các ngành dịch vụ từ 21,8% năm 2000, 24,6% năm 2005 và
29,4% năm 2010.

2.1.3.3. Kết quả thực hiện ba khâu đột phá của ĐH XI
Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 -2009, tình hình thế
giới có nhiều biến động. Chính vì vậy, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 – 2020 đã xác định ba khâu đột phá cụ thể hơn trên cơ sở ba khâu đột
phá của ĐH IX và đã đạt được kết quả tích cực:
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
hoàn thiện và được xác định cụ thể hơn, từng bước thực thi có hiệu quả và tạo
được sự đồng thuận trong xã hội. Triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013
và nhiều luật, pháp lệnh, nhất là các Luật liên quan trực tiếp đến thực hiện các


đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế. Quy hoạch phát
triển được rà soát, điều chỉnh phù hợp hơn với kinh tế thị trường. Các loại thị
trường được hình thành và vận hành khá đồng bộ. Thực hiện giá thị trường
theo lộ trình đối với xăng dầu, than, điện, nước, dịch vụ giáo dục, y tế… gắn
với hỗ trợ các đối tượng chính sách, hộ nghèo. Môi trường đầu tư kinh doanh
và năng lực cạnh tranh có bước tiến mới. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
của Việt Nam trong 5 năm tăng 19 bậc, lên vị trí thứ 56.
Phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ đạt được những kết
quả tích cực. Hồn thiện hệ thống giáo dục quốc dân; mạng lưới được mở
rộng; cơ cấu đào tạo hợp lý hơn, quy mô và chất lượng được nâng lên. Chú
trọng bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, nhất là vùng khó khăn và
đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện kiên cố hóa trường lớp học và nhà cơng
vụ cho giáo viên. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông
và thi tốt nghiệp trung học phổ thông, tuyển sinh cao đẳng, đại học. Tỉ lệ nhập
học mầm non đạt mức cao; hoàn thành trước hạn mục tiêu trẻ em đi học tiểu
học đúng độ tuổi. Xã hội hoá giáo dục đào tạo được đẩy mạnh; thí điểm cơ
chế tự chủ đối với một số trường đại học công lập. Chú trọng đào tạo nghề, tỉ
lệ lao động qua đào tạo đạt 51,6% vào năm 2015.
Ứng dụng khoa học và đổi mới cơng nghệ có bước tiến bộ, nhất là

trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây dựng. Thị
trường khoa học cơng nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng
13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp
gần 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu
của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.



×