Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận đàn tranh đàn tranh có nguồn từ trung quốc, du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ ixxi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 22 trang )

FPT UNIVERSITY- CAMPUS CAN THO

TIỂU LUẬN ĐÀN TRANH

Student Name:Nguyễễn Trâm Anh
Code: CS170640
Class: ĐTR102.B1.9
Phone: 0899496626
Email:


Câần Thơ , …./2022

MỤC LỤC
1 Đàn Tranh..............................................................................
2 Sáo Trúc..................................................................................

3 Đàn Bâầu................................................................................
4 Đàn Guzheng..........................................................................
5 Đàn Koto................................................................................
6 Dân ca quan h ọBắắc Ninh.......................................................
7 Cả i Lươ ng..............................................................................

8 Nễu cả m nghĩ........................................................................
9 Trích dâễn nguồần.....................................................................

3-4
5-6
7-9
9-10
11-13


13-15
16-20
21-22
22


Nguyễn Trâm Anh
MSSV: CS170640

TIỂU LUẬN MÔN ĐÀN TRANH
Họ và tên: Nguyễn Trâm Anh
MSSV: CS170640
Mã môn học: ĐTR102.9.B1
Giảng viên môn học: Phạm Duy Phương
CÂU 1:
Đàn Tranh:
1. Nguồn gốc:
Đàn Tranh có nguồn từ Trung Quốc, du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ IXXI. Được đưa
vào phục vụ nhạc lễ trong cung đình từ thời nhà Trần (khoảng thế kỷ XIII).

Thành đàn, cầu đàn, trục đàn, con nhạn được làm bằng gỗ cứng như: trắc, cẩm lai, giáng
hương,..
Mặt đàn, đáy đàn được làm bằng gỗ nhẹ, xốp như: ngô đồng, gỗ tung, gỗ thông,..
Dây đàn ngày xưa được dùng bằng dây tơ, dây đồng, dây thép. Sau này thường được sử
dụng bằng dây inox.

2. Cách sử dụng nhạc cụ:

1.
2.


Có 4 tư thế đánh đàn:
Ngồi thấp, xếp chân trên chiếu
Ngồi thẳng hoặc vắt chéo chân trên ghế, một đầu đàn đặt trên đùi, một đầu đàn gác
trên giá hoặc đôn.
3


3.
Đàn được đặt trên giá cao ngang tầm tay Người chơi đàn ngồi trên ghế.
4.
Đứng đánh: đàn được đặt trên giá cao. - Các tư thế ngồi đều phải tự nhiên, thoải mái, đàn
đặt gần sát người, mặt đáy đàn tì lên đùi phải, đầu đàn được lên đơn hoặc giá đàn (có chiều cao
bằng ghế ngồi đàn). Hai cánh tay nâng mềm mại trên mặt đàn. - Để đánh đàn, người ta phải đeo
dụng cụ gọi là móng đàn, hình dáng như một cái khoen để đeo vào đầu ngón tay. Hiện nay
người chơi đàn thường đeo 3 móng đàn vào 3 ngón cái, trỏ và giữa của bàn tay phải. Móng đàn
có thể được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau như: đồng, inox, nhựa, sừng, đồi mồi. - Trục
chỉnh dây dùng để tra vào trục đàn nhằm điều chỉnh căng chùn dây đàn theo cao độ mong muốn.
Trục chỉnh dây thường được làm bằng gỗ cứng.

3 Kỹỹ Thuật
Ngón rung: Sử dụng 1, 2 hoặc 3 ngón tay trái rung nhẹ lên sợi
dây đàn mà tay phải mới gảy.
Ngón nhấn: Dùng để đánh thêm được các âm khác. Chẳng hạn
như 1/2 âm, 1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống của dây đàn tranh
khơng có.
Sử dụng 3 đầu ngón tay
trái nhấn xuống nhẹ 1/2
cung, nặng hơn nếu là 1
cung. Cách nhấn nặng hay

nhẹ phụ thuộc vào yêu cầu của bài. Người nghệ nhân
phải dùng tai nghe để cảm âm rồi điều chỉnh tay
nhấn.
Ngón nhấn luyến: Dùng những ngón nhấn để luyến 2
– 3 âm có độ cao khác nhau. Âm thanh khi sử dụng
kỹ thuật này nghe mềm mại, mượt mà và uyển
chuyển gần với thanh điệu của tiếng nói. Ngón nhấn
luyến có hai loại, gồm:
4


Nhấn luyến lên: Gảy vào 1 dây để vang lên. Tay trái nhấn dần lên dây đó để âm
thanh được cao hơn hoặc tiếp tục nhấn để cao hơn nữa.
Nhấn luyến xuống: Kỹ thuật này cần phải mượn nốt. Chẳng hạn như nếu bạn
muốn có âm Fa luyến xuống âm Rê thì cần phải mượn dây Rê nhấn mạnh trước
rồi mới gảy. Âm Fa ngân lên, ngón tay trái nới dần để âm Rê của dây đó vang
theo luyến tiếng cùng với âm Fa.
Đẩ đánh âm nhấn luyến xuống hay lên thì chỉ cần gảy một lần. Độ ngân của các âm nhấn
luyến được ghi như những nốt nhạc bình thường.

Sáo Trúc
1. Nguồồn gồốc

Cho đến nay, vẫn chưa có tài liệu lịch sử cụ thể nào ghi nhận thời gian và nguồn gốc
hình thành của Sáo trúc Việt Nam. Trong đó, một vài nguồn thơng tin cho rằng nó bắt
nguồn từ Ấn Độ - Quốc gia sở hữu nhiều câu chuyện liên quan tới Sáo trúc từ thời xa
xưa. Ở Việt Nam, Sáo trúc là biểu tượng gắn liền với những hình ảnh quen thuộc của
người chăn trâu. Nó xuất hiện trong nhiều sân
khấu biểu diễn ca nhạc nghệ thuật khác nhau và
cũng được xem là hình ảnh biểu tượng cho sự

giản dị, mộc mạc mang đậm chất hồn quê.
Người ta kể: Cách đây hàng nghìn năm, một sơn
nhân ở trong rừng trúc chơi thấy một con ong
đục thủng một lỗ trên giơng trúc. Gió thổi qua lỗ
đó phát ra những âm thanh vi vu nghe rất êm tai.
Sơn nhân bèn nảy ra ý định chế tạo cây sáo. Vì
thế mà tiêu sáo làm say đắm lòng người.

2 Cấốu ạt o
Sáo trúc là nhạc cụ dân tộc được làm bằng ống trúc, ống nứa, trên thân sáo được khoét lỗ
để khi thổi tạo ra âm thanh, bấm nốt và có cấu tạo khá đơn giản, gồm: 1 lỗ thổi hơi tạo âm
thanh nằm ở trên đầu sáo, 6 lỗ phát ra âm thanh nằm gần nhau, dùng tay để bấm. Các lỗ
này tạo thành một hàng thẳng. Ở cuối ống, bên dưới có lỗ định âm, nó giúp sáo phát ra
được thanh chuẩn. Sáo được làm bằng một đoạn ống trúc, hoặc nứa có chiều dài 40 –
55cm, đường kính 1,5 – 2cm. Ở phía đầu ống có một lỗ hình bầu dục đó là lỗ thổi. Trong
5


lòng ngay gần lỗ thổi được chặn bằng một mẩu nút bấc hoặc gỗ mềm để điều chỉnh độ
cao thấp khi cần thết. Thẳng hàng với lỗ thổi có khoét 6 lỗ bấm, lỗ bấm thứ nhất cách lỗ
thổi 12cm, các lỗ bấm còn lại cách đều nhau (1cm). Mở dần các ngón ở 6 lỗ bấm ta sẽ có
các âm Do1, Rê1, Mi1, Fa1, Sol1, La1, Si1, Do2. Phía sau cuối ống sáo có một lỗ khơng
bấm là lỗ định âm.

c.
Cách chơi

Khi thổi sáo, thân sáo đặt ngang sang bên phải, miệng đặt lên lỗ thổi. Người thổi sáo có
thể điều chỉnh luồng hơi (rót hơi yếu đường hơi đi từ từ và yếu, rót hơi mạnh đường hơi đi
nhanh và mạnh). Sáo thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu trong các dàn nhạc chèo, hát văn,

tiểu nhạc.
Sáo được gọi là ống hơi, thổi đầu này và bịt hoặc mở ở đầu kia sẽ phát ra âm thanh theo
ngun tắc: Bịt đầu về phía tay mặt thì tiếng kêu thấp xuống. Mở về phía tay trái thì tiếng kêu
cao hơn.
Thứ tự ngón được tính bắt đầu từ lỗ thổi (hiểu ngầm 0).
+
Sáu ngón tay bịt kín sáu lỗ, thổi nhẹ ra nốt Đơ.
+
Mở ngón thứ sáu, thổi nhẹ ra nốt Rê.
+
Mở ngón thứ năm, thổi nhẹ ra nốt Mi.
+
Mở ngón thứ tư, thổi nhẹ ra nốt Fa.
+
Mở ngón thứ ba, thổi nhẹ ra nốt Sol.
+
Mở ngón thứ hai, thổi nhẹ ra nốt La.

+
+
+
+

Mở ngón cuối cùng, thổi nhẹ ra nốt Si.
Mở ngón ở nốt Si và che các lỗ còn lại thổi ra nốt Do (2)
Che 4 lỗ bấm ở giữa mở 2 lỗ đầu vào cuối thổi sẽ ra Si giáng
Các nốt từ Do (2) thổi giống từ Do (1) đến Si (1) chỉ có luồng hơi mạnh hơ.

6



Đàn Bầu

a. Nguồồn gồốc
Sự hình thành Đàn Bầu được đề cập trong nhiều tài liệu có giá trị mang tính lịch sử. Cụ
thể, trong các tài liệu như “An Nam chí lược”, “Đại Việt sử ký tồn thư”, “Chỉ Nam Ngọc
âm giải nghĩa”, “Đại Nam thực lục tiền biên”, Đàn Bầu được biết đến đầu tiên ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ. Nó được lấy cảm hứng từ trị chơi dân gian “trống đất” của trẻ nhỏ là
đào hố và căng dây qua lỗ đất, khi đập nghe tiếng bung bung. Các cụ ngày xưa đã có sự
quan sát tinh tế và cảm thụ thanh âm nhanh nhạy nên từ những âm thanh này, ý tưởng cây
đàn làm từ ống tre và quả bầu khô với một dây duy nhất được ra đời.

b. Cấốu ạt o

7


Đàn Bầu thường có cấu tạo một ống trịn được làm từ tre, bương, luồng. Nó có hình hộp
dài, đầu đàn hơi cao và thuôn hẹp dần về cuối đàn. Đàn bầu gồm các bộ phận chính:
Thành đàn, mặt đàn, đáy đàn, cần đàn (vòi đàn), bầu đàn, trục lên dây, dây đàn và cầu âm
(cầu dây)
Thân đàn: Phần mặt đàn thường được thiết kế hơi cong. Đáy kín nhưng có kht lỗ ở
cuối đàn để thốt âm và cũng là chỗ để mắc dây đàn. Thành đàn cũng được thiết kế bằng gỗ
cứng như cấm lai hoặc gỗ mun.
Trên mặt to của đàn thường có 1 miếng xương kim loại nhỏ gọi là ngựa gảy. Dây đàn sẽ
được luồn từ đây và cột vào trục lên dây xuyên qua phần thành đàn. (Với những cây đàn
bầu hiện đại, người ta đã sử dụng khóa dây bằng kim loại để phần dây được chắc chắn và
không bị tuột).
Cuối cùng là que gảy đàn, chúng được vót bằng tre, giang, thân dừa hoặc gỗ mềm. Que
gảy thời xưa thường dài khoảng 10cm, nhưng ngày nay với những kỹ thuật diễn tấu nhanh nên

que gảy chỉ dài khoảng 4 – 4,5cm.

c. Cách chơi
Định âm chuẩn

Mô tả xác định điểm chia nốt trên dây đàn bầu
Người ta thường định âm cho đàn bầu theo dây bng có âm tự nhiên, nhưng có khi
chỉnh theo từng bài bản. Nếu bài nhạc cung đô (do) là chủ âm thì định âm dây bng tự nhiên là
đơ. Ngồi ra cịn vài cách định âm khác. Vì dây buông chỉ cho một nối nên phải chia dây từ cần
đàn đến ngựa đàn để xác định các nốt khác:
+
1/2 dây có nốt Do (1) cao hơn dây bng một quãng 8.
+
1/3 dây sẽ là nốt Sol (1).
+
1/4 ta sẽ có nốt Do (2). + 1/5 dây sẽ có Mi (2).
+
1/6 dây sẽ có nốt Sol (2).
+
1/7 dây sẽ là nốt Si giáng (nốt này ít được sử dụng).
+ 1/8 sẽ có nốt Do (3).
Ngồi 6 điểm định âm thông dụng là Do 1, Sol 1, Do 2, Mi 2, Sol 2 và Do 3 cịn có thể
tạo âm thực bằng cách gảy dây buông và thường gảy gần ngựa đàn chứ không gảy vào các điểm
định âm bồi.
Trên 7 âm thanh này, với kỹ thuật tay trái như căng dây
hoặc chùng dây thích hợp, người chơi đàn có thể tạo được rất nhiều âm thanh khác nữa.

d. Sử dụng que gảy đàn

8



Cách gảy đàn đòi hỏi kỹ thuật đặc biệt. Người diễn cầm que bằng tay phải, đặt que trong
lòng bàn tay phải, sao cho que hơi chếch so với chiều ngang dây đàn.
Que đàn được đặt trên 2 đốt ngón tay trỏ và giữa của bàn tay phải, còn đốt thứ nhất của
ngón cái thì giữ que đàn, đầu nhỏ của que thường nhơ ra khoảng 1,5 cm.
Hai ngón cịn lại thì hơi cong theo ngón trỏ và giữa. Khi gảy dây ta đặt cạnh bàn tay vào
điểm phát ra bội âm, hất nhẹ que đàn cùng lúc nhấc bàn tay lên, ta sẽ có được âm bội.
Những điểm cạnh bàn tay chạm vào gọi là điểm nút, những điểm trên dây đàn được que
gảy vào gọi là điểm gảy. Do Đàn Bầu khơng có phím nên những điểm nút được coi là cung
phím của đàn bầu.

Câu 2. Trình bày về các loại đàn có cùng họ hàng với đàn Tranh Việt Nam
Đàn Guzheng:
1.

Nguồồn gồốc:

Đàn tranh Trung Quốc Guzheng được ra đời ở thành phố Dương Châu, một thành phố
văn hóa lớn coi trọng văn hóa có truyền thống “thiên gia hữu nữ tiên giáo khúc” giải thích có
nghĩa là nhà nào có con gái đều sẽ cho học đàn nhạc đầu tiên. Đàn Cổ Tranh còn được biết đến
là một nhạc cụ dân tộc cổ đại, có nguồn gốc từ nền văn hóa lâu đời Trung Hoa và có lịch sử từ
hơn 2.500 năm.

9


2. Cấốu ạt o:

Guzheng hiện đại có chiều dài là 1m63 với 21 dây đàn được sắp xếp từ cao dần “ dây 1”

lên thấp dần “ dây 21”. Dây đàn là dây sắt, nhưng phù
hợp cho các dòng nhạc sau này, đàn tranh Trung Quốc đã
được cải biên, bọc nylon các sợi dây đàn cốt để âm thanh
trầm ấm và đanh hơn.
Đàn Guzheng tiêu chuẩn dài 1,63m, có 21 dây. Mặt đàn
tranh thường được chế tác từ gỗ cây ngô đồng. Giá đàn
làm bằng gỗ tùng trắng, thành đàn, đáy đàn và thùng đàn
làm bằng gỗ lim đỏ, gỗ lim già, gỗ lim vàng hoặc gỗ tử
đàn. Mặt đàn và dây đàn ảnh 10 hưởng rất nhiều đến âm
thanh của đàn tranh, ngoài ra nếu chọn được gỗ lim đỏ già,
gỗ tử đàn hoặc gỗ lim vàng tốt làm thành đàn, cầu đàn và
đáy đàn cũng khiến cho âm thanh của đàn hay hơn.
Người đàn dùng ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón áp út của bàn tay mặt để khảy và ba
ngón trỏ, giữa và áp út của
bàn tay trái để nhấn. Họ chỉ dùng móng tay để khảy và rất ít khi dùng móng sắt, hay đồi
mồi như người Việt. Cây đàn thường để trên bàn trước mặt người đàn hoặc để trên đùi.

10


Đàn Koto
1 Nguồần gồắc
Cây đàn tranh Koto nguyên lai vốn có từ
thời cổ ở Nhật gọi là Wagon (和琴- Hịa
cầm) hoặc Yamato-goto (Đại Hịa cầm) là
loại đàn tranh gồm có 6 dây (hiếm khi là 5
dây) và được tìm thấy trong những di tích
khai quật từ thời Yayoi đến thời Nara, hiện
tại được sử dụng trong biểu diễn Nhã nhạc,
cách chơi khác với koto là một tay cầm

miếng gảy dẹt chữ nhật đầu góc thn trịn
để chơi lướt dây, tay cịn lại nhấn và giật nhẹ
dây. Đến thời Heian thì nó được dùng như
một nhạc khí biểu diễn phụ trợ trong một
loại nhạc khúc Nhã nhạc gọi là Saibara (催
馬楽) (loại ca khúc biểu diễn có kèm nhạc
cụ thổi và nhạc cụ dây, kết hợp giữa điệu
dân ca truyền thống ở địa phương với Nhã
nhạc, thứ âm nhạc du nhập từ Trung Hoa đại
lục sang). Tuy nhiên, trong thời hiện tại thì
Wagon khơng được sử dụng trong Saibara.

2 Cấu tạo

Để làm ra đàn koto, trước tiên người thợ xẻ đốn gỗ từ cây Hơng. Quy trình đó dùng để
làm mặt đàn. Kích thước gần đúng của một cây koto là:
Chiều dài 164,5cm (64 3/4 in.)
Chiều rộng 32,4 cm (12 3/4 in.)
Chiều cao 24,1 cm (9,5 in. Bao gồm cả cầu đàn)
Gỗ được chuẩn bị để sản xuất đàn koto thường là những khối lớn và cần được
xẻ ra thành các tấm gỗ có kích thước khác nhau dựa theo u cầu thiết kế và
uốn cong tấm gỗ thành mặt đàn. Người thợ tiến hành bước này phải có sự tính
tốn tỉ mỉ để lượng gỗ đã được chuẩn bị từ trước được xẻ ra không bị thiếu hay
thừa, đảm bảo sản phẩm được hoàn thiện tốt. Sau khi xẻ gỗ xong, thành phẩm
sẽ được ngâm qua các hóa chất chống mối mọt và mặt sau của ván gỗ uốn cong
thành mặt đàn người thợ khắc hình zigzag đều nhau thẳng hàng; kế tiếp, người
thợ nung nóng một thanh sắt để đốt cháy mặt đàn (hoặc dùng đèn khò). Biện
pháp này giúp cho đàn làm ra bền hơn, khó bị các loại cơn trùng mối mọt tấn
cơng.
Sau đó, lấy một tấm gỗ nhẵn khác ốp lên mặt sau của mặt đàn. Tiếp theo, lấy

nẹp gỗ và dây thừng để cố định đàn và dùng giấy ráp để làm nhẵn mặt đàn và
11


phết nước sơn làm bóng mặt đàn. Cuối cùng, đàn sẽ được đục lỗ xỏ dây, gắn
cầu đàn, làm nhạn đàn,...
Người Nhật ngày trước quỳ gối và đặt koto nằm ngang trên đùi khi chơi. Ngày
nay có thể đặt đàn trên giá đỡ và nghệ sĩ có thể ngồi trên ghế. Thùng đàn dài
hẹp, bên trong rỗng. Dây đàn gồm khoảng 13 sợi có thể điều chỉnh độ căng để
chỉnh âm. Koto 80 dây, được gọi là hachijugen (kanji: 八十絃; hiragana: はちじゅげ
ん) trong tiếng Nhật, là một phát minh của nhà soạn nhạc Nhật
Bản Michio Miyagi, xuất hiện vào năm 1923. Ông đã thêm 67 dây vào thiết kế
13 dây truyền thống, âm sắc koto 80 dây trong trẻo giống như đàn hạc phương
tây. Cùng với koto thông thường, 80 dây cung cấp một phạm vi cao hơn nhiều
so với koto tiêu chuẩn. Nó được xem rộng rãi như một cơng cụ thử nghiệm
ngắn.

Kích thước của đàn tranh koto tiêu chuẩn (13 dây) gồm: chiều dài 180 cm
(71inch), đầu nhỏ rộng 15 cm và đầu lớn rộng 40 cm. Chiều dài của loại đàn
cao cấp được gọi là "Hongen" của phái Yamada-ryū là 6 xích 3 thốn (chừng
190 cm), cịn của phái Ikuta-ryū là 6 xích (chừng 182 cm). Ngồi ra thì cịn có
nhiều loại khác có chiều dài lớn, nhỏ hơn hai cỡ này, nhưng ngoại trừ loại đàn
Koto dùng để dạy ở trường thì phần lớn là kiểu đàn của phái Yamada-ryū.
Trong Shōsō-in (Chánh Thương viện), bảo khố chứa các món đồ báu ở Nara
cịn lưu giữ mảnh khuyết của cây đàn Koto các thời đại trước, nhưng cấu tạo
12


khác với loại đàn hiện nay, gồm 4 miếng ván khá mỏng ráp thành hình hộp.
Cây đàn Koto hiện đại được chế tạo bằng cách khoét từ một loại gỗ để làm

thành mặt trên của đàn và hai mặt bên, riêng mặt dưới được làm từ loại gỗ khác,
sau đó ráp vào. Cách làm này được cho là xuất hiện từ thời Heian, sau đó được
Yamada Kengyō cải tiến thành loại đàn Yamada-goto chủ lưu hiện nay. Phần
thân đàn làm từ gỗ cây Kiri (một giống cây vông), cách chế tạo thì có hai loại là
"Beta" và "Kiri-kō", loại sau cao cấp hơn. Ngày xưa thân đàn được trang trí
nhiều tranh khảm như một thứ thể hiện địa vị của tầng lớp giàu có, nhưng đến
thời Yamada Kengyō thì việc trang sức được hạn chế đến mức tối thiểu, tập
trung vào âm sắc và dần dà càng có nhiều cây đàn đơn giản ra đời. Tuy nhiên
chất lượng âm sắc của cây đàn có quan hệ mật thiết đến vẻ đẹp của vân gỗ làm
đàn.

Câu 3. Thể loại âm nhạc truyền thống:
Dân ca quan họ Bắc Ninh

Du lịch Bắc Ninh nổi tiếng không chỉ bởi những danh lam thắng cảnh đẹp nổi tiếng, đặc
sản nổi tiếng dân dã mà còn ở những điệu quan họ Bắc Ninh có sức mạnh “đi xa là nhớ”
của những liền anh, liền chị.

a.Nguồn gốc quan họ Bắc Ninh
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về và khi mùa thu tới, người dân 49 làng Quan họ gốc thuộc xứ
Kinh Bắc (bao gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay), dù ở bất cứ nơi đâu cũng trở về
quê hương để trẩy hội đình, hội chùa, những lễ hội hết sức độc đáo bởi đã gắn liền với
trình diễn Quan họ tự bao đời nay.
Vì ra đời từ rất lâu về trước nên Quan họ Bắc Ninh có rất nhiều câu chuyện kể về thời
điểm ra đời, có ý kiến cho là Quan họ có từ thế kỷ 11, số khác cho là từ thế kỷ 17, nhưng
tất cả, các cơng trình khảo sát, nghiên cứu từ trước tới nay tuy có khác nhau nhưng đều đã
khẳng định giá trị to lớn của di sản văn hóa phi vật thể Quan họ, đặc biệt là dân ca Quan
họ, loại hình nghệ thuật được coi là cốt lõi của văn hóa xứ Kinh Bắc ngàn năm văn hiến.

13



Theo điều tra của Sở văn hóa Hà Bắc (thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay)
thì trước cách mạng tháng Tám năm 1945 có 49 làng quan họ rải rác ở các huyện Tiên
Sơn, Yên Phong, Quế Võ, Việt Yên và thị xã Bắc Ninh. Mỗi làng quan họ ở Bắc Ninh lại
có nét độc đáo riêng.

b.Cách hát

Nhìn chung trong Quan họ người ta bao giờ cũng hát đơi. Khi một đơi trong Quan họ bạn hát
thì bên kia cũng chuẩn bị một đôi để hát đối lại. Chính vì vậy hát Quan họ là loại hát đối đáp,
hát giao duyên. Những người hát Quan họ thường được gọi là liền anh, liền chị.
Kết cấu của mỗi điệu hát lại được hình thành từ những lễ kết nghĩa. Lễ kết nghĩa được bắt
đầu bằng những lời thăm hỏi tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau đó, họ lại có buổi gặp
nhau ở bên nam. Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm.
Căn cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: anh Cả – chị Cả, anh Hai – chị
Hai, anh Ba – chị Ba, anh Tư – chị Tư… Lời ca trong quan họ chủ yếu nói về tình yêu nam nữ, sự gắn
bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không hề nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở
bình đẳng tơn trọng lẫn nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng em hoặc tơi. Thời gian kết nghĩa của
người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi chỉ một vài
14


năm.

c.Môi trường diễn tấu
Địa điểm ca hát thường là ở sân nhà, trước cửa đình, cửa chùa, dưới gốc đa, bên sườn
đồi, trên thuyền, bến nước…

d.Các nhạc cụ được dùng trong dân ca quan họ Bắc Ninh

Quan họ mà bạn vẫn thường được nghe trên băng đĩa thì đều được nghệ thuật hóa theo lối
biểu diễn và sẽ hát trên nền của các nhac cụ bao gồm bộ hơi là sáo và bộ gõ là trống.
Ngồi ra cịn có đàn bầu, nhị, đàn tam thập lục, đàn nguyệt. ngoai ra cung có thể sử dụng
đàn organ nhưng khi sử dụng đàn organ nó sẽ làm mất đi yếu tố dân gian nghệ thuật của
quan họ…

e. Tên các bài bản

Tổng hợp một số bài hát quan họ hay như: Các làn điệu quan họ cổ bao gồm: La rằng,
Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, Ca bời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống
sơng, Cái hờn, Gió mát trăng thanh, Tứ quý…

Cải lương:
a.Nguồn gốc
15


Cải lương có nguồn từ miền Nam và đã manh nha từ năm 1918, nhưng đến ngày 16 tháng
11 năm 1918, khi tuông Gia Long tẩu quốc được công diễn tại Nhà hát Tây Sài Gịn thì
mới được lan truyền rộng rãi. Đây là hình thức nghệ thuật dựa trên dòng nhạc Đờn ca tài tử
và dân ca. Theo cố giáo Trần Văn Khuê, cải lương ra đời năm 1918 trong luận án tiến sĩ
của ông tại Văn Khoa của Đại học Sorbonne, Pháp. Và chúng ta có những giải thưởng của
ngành Cải lương thời đó, nổi tiếng và uy tín có Giải Thanh Tâm, do ơng ký giả Thanh Tâm
(tên thật là Trần Tấn Quốc) thành lập, hoạt động từ năm 1958 đến năm 1968, mà người
nhận giải đầu tiên là nữ nghệ sĩ Thanh Nga. Tuy nhiên, khi Chiến tranh Việt Nam chấm
dứt, cải lương miền Nam hoạt động mạnh 10 năm nữa, đến năm 1985, mới dần dần sa sút,
vì nhiều lý do, trong đó có thiếu kịch bản hay, thiếu rạp diễn mới thế hệ lão thành tàn lụi.
Dù vậy đến nay, vẫn còn nhiều thế hệ vẫn tiếp bước thế hệ trước với trọng trách duy trì cải
lương cho thế hệ mai sau.


b. Cách hát
Có nhiều người cho rằng, chỉ cần luyện cho thật mùi sáu câu Vọng cổ là có thể hát cải
lương. Và ngay cả những chủ đồn hát đơi khi cũng căn cứ vào ca Vọng cổ của mỗi diễn
viên để xếp hạng đào kép. Thật ra hát cải lương có đến sáu giọng: Bắc, Nam, Oán, Thán,
Lý, Bình, Ngâm; mỗi giọng đều có tiết điệu riêng, khác biệt nhau. Nhưng Vọng cổ là một
điệu rất quan trọng và độc đáo của bộ môn này. Đúng vậy, trong vở cải lương, bắt buộc
mỗi màn phải có ít nhất một bản Vọng cổ. Và mối tương quan nồng thắm, cải lương nhờ
Vọng cổ đã vươn lên đến tuyệt đỉnh, còn Vọng cổ cũng nhờ cải lương mà trở thành bất tử
trong lòng người dân Việt.

c.Môi trường diễn tấu

16


Cải lương thường được biểu diễn trên sân khấu hoặc các hoạt cảnh ngoài trời. Nếu biểu
diễn trên sâu khấu thì phải dựng các bối cảnh cho phù hợp với vở cải lương.

d. Các nhạc cụ được dùng trong cải lương

Đàn kìm (đàn nguyệt): có 2 dây tơ, 8 phím. Nghệ nhân đàn kìm thường ngồi trơng ngay
ra sân khấu, giữ nhịp song lang và là người điều khiển dàn nhạc. Đàn kìm hịa cùng đàn
tranh tạo âm hưởng rất hay. Tùy theo làn hơi cao hay thấp của người diễn viên, đàn kìm
có thể đàn 5 dây hị. ự thành công của tuồng diễn..

17


Song loan: Song Loan hay còn gọi là Song Lang. Là một nhạc cụ gõ, có hình dáng đơn
giản và nhỏ bé nhất trong các loại nhạc cụ xưa. Song loan khi gõ lên tạo tiếng “Cách!”

hoặc “Cốp!” thanh thuý, vừa cao, vừa vang xa rõ ràng một cách tự nhiên, nên được dùng
để bắt nhịp, giữ nhịp và báo hiệu kết thúc giai điệu.

Đàn tranh (đàn thập lục): có 16 dây kim khí với 3 khoảng âm: thượng, trung, hạ và tiếng
song thinh (đánh hợp âm 2 nốt cách nhau một quãng tám) nghe êm dịu. Âm sắc Đàn Tranh
trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng. Đàn Tranh ít thích hợp
với những tính cách trầm hùng, khoẻ mạnh. Tầm âm Đàn Tranh rộng 3 qng 8, từ Đơ lên
Đơ 3.

Đàn cị (đàn nhị): loại đàn dây kéo, có 2 dây tơ và một vĩ kéo, thường được ví với violin
của phương Tây. Âm vực khoảng 3 quãng tám. Âm lượng có thể điều chỉnh bằng cách
dùng đầu gối bịt một phần ở miệng bát nhị (khi ngồi ghế cao) hay dùng ngón cái bàn chân
tác động lên đầu bịt da rắn của bát nhị (khi ngồi dưới chiếu). Âm sắc có tính linh hoạt để
lột tả nhiều tâm trạng, và mượt mà như một chất keo kết dính cho cả dàn nhạc.

18


Đàn sến: đàn gảy, có 2 dây tơ, ít nhấn; dùng riêng cho dàn nhạc Cải Lương. Âm thanh
trong trẻo, tươi sáng gần giống đàn Nguyệt nhưng ít vang hơn.

19


e. Tên các bài bản
Lan và Điệp (Tác giả: Trần Hữu Trang)
Tô Ánh Nguyệt (Tác giả: Trần Hữu Trang)
Người phu khiêng kiệu cưới (Tác giả: Yên
Lang, Nguyên Thảo)
Lá trầu xanh (Tác giả: NSND Viễn Châu)

Khi rừng mới sang thu (Sáng tác: Quy Sắc, Loan
Thảo)
Sầu vương biên ải (Sáng tác: Thái Thụy Phong)
Nhụy Kiều tướng quân (Tác giả: Hoàng Anh Chi)
Tuyệt tình ca (Tác giả: Hoa Phượng, Ngọc Diệp)
Dốc sương mù (Sáng tác: Nguyên Thảo)
Nạn con rơi (Sáng tác: Trần Hà)
Kiều Nguyệt Nga (Sáng tác: Ngọc Cung)
Kiếp chồng chung (Tác giả: Điêu Huyền)
Tình cơ gái Huế (Sáng tác: Quy Sắc)
Mưa rừng (Tác giả: Hà Triều – Hoa Phượng)

Tóm lại, cải lương là bộ mơn kịch nghệ vốn thích nghi với cái mới, dễ thanh lọc và cũng

dễ tiếp thu. Nói cách khác, cải lương có sự tiếp nhận, chọn lựa và đổi mới; đúng nghĩa với
tên gọi của nó. Thật vậy, cải lương mới ra đời vừa một thế kỷ mà cải tiến khơng ngừng.
Chỉ riêng có vọng cổ, cũng biến chuyển từ nhịp 2 đến nhịp 128. Nhạc cải lương cũng
không ngớt bổ sung đáp ứng với nhu cầu nghệ thuật, hai loại đàn Tây phương được đón
nhận vào dàn nhạc cổ điển, rồi mơ hình tân cổ giao dun, tiếp đến Hồ Quảng cũng được
Việt hóa để làm phong phú cho bộ môn này.
Vâng, tiếp thu mà không bị lai căn, vẫn giữ được bản chất Việt Nam, vẫn đi vào lịng dân
tộc từ Nam ra Bắc. Đó là đặc tính ưu việt, bộ mơn Cải lương sẽ mãi trường tồn và không
bị lỗi thời.

20



×