MỤC LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................3
Phần mở đầu.......................................................................................................4
Phần nội dung.....................................................................................................5
I. Một số vấn đề lý luận về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)...................................................................................5
1. Khái niệm tuổi chịu TNHS......................................................................5
2. Một số đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS..........................................5
3. Mối quan hệ giữa tuổi chịu TNHS với năng lực TNHS..........................6
II. Quy định về tuổi chịu TNHS trong BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)...................................................................................7
1. Quy định về năng lực chịu TNHS của người từ đủ 16 tuổi trở lên..........8
2. Quy định về năng lực chịu TNHS của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi................................................................................................................9
3. Quy định về căn cứ xác định tuổi chịu TNHS...................................10
III. Thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu TNHS ở Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................11
1. Thuận lợi................................................................................................11
2. Khó khăn................................................................................................12
IV. Một số giải pháp hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS trong pháp
luật Việt Nam................................................................................................13
Phần kết luận.....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
2. Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao, Bộ Cơng an,
Bộ Quốc phịng và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2018). Thông tư
liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH về
phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về
thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, ban hành ngày 21/12/2018.
3. GS. TS. Nguyễn Ngọc Hịa (2017). Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 – Phần chung, NXB Tư Pháp
4. Trần Thị Hoàng Lan (2012). Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật – ĐH Quốc gia Hà Nội.
5. ThS. Lê Thị Hồng Xuân (2019). Xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
/>
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ Luật Hình sự
Người CTN
Người chưa thành niên
NPT
Người phạm tội
LHS
Luật Hình sự
TAND
Tịa án Nhân dân
TNHS
Trách nhiệm hình sự
Phần mở đầu
Cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm đã, đang và luôn luôn được
quan tâm chú trọng trên mọi quốc gia, khu vực và vùng lãnh thổ. Việt Nam tuy
đang trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế một cách sâu rộng, toàn
diện nhưng cũng không thể bỏ qua nhiệm vụ quan trọng ấy. Theo các kết quả
nghiên cứu và thống kê mới nhất của các cơ quan bảo vệ pháp luật cho thấy,
tình hình tội phạm ở nước ta trong những năm gần đây đang có sự gia tăng
khơng những về số lượng, số vụ mà cịn gia tăng cả về tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội, cũng như sự xuất hiện nhiều loại tội phạm với phương thức,
thủ đoạn mới trong giai đoạn hiện nay. Đáng lo ngại hơn, tình trạng người CTN
phạm tội cũng đang có sự gia tăng về cả số lượng và tính chất, mức độ nguy
hiểm. Hành vi phạm tội của người CTN ngày càng táo tợn, manh động gây
hoang mang, lo lắng cho dư luận xã hội. Đặc biệt cũng cần chú ý đến hiện
tượng phạm tội ở những người cao tuổi đang tăng dần.
Nguyên nhân của những hiện tượng nêu trên bắt nguồn từ tính chất và
đặc điểm của sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội và kèm theo đó là các
điều kiện văn hóa, giáo dục, đạo đức, lối sống tương ứng. Vấn đề trẻ hóa độ tuổi
phạm tội cũng như hiện tượng phạm tội ở những người cao tuổi đặt ra cho nhiều
ngành khoa học, đặc biệt là LHS những yêu cầu nhất định về việc xây dựng và
điều chỉnh quy định của pháp luật sao cho phù hợp với thực tế.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, tơi quyết định lựa chọn chủ đề
“Phân tích tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo BLHS 2015” làm đề tài nghiên
cứu. Trong quá trình tìm hiểu đề tài chắc chắn khơng thể tránh khỏi sai sót, rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy/cơ để đề tài có thể được hồn thiện
hơn!
Phần nội dung
I.
Một số vấn đề lý luận về tuổi chịu TNHS trong BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017)
1. Khái niệm tuổi chịu TNHS
Tuổi là đơn vị tính thời gian sống của một người, là khoảng thời gian từ
khi người đó sinh ra đến một thời điểm xác định nào đó và được tính theo năm.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học - Nxb. Cơng an Nhân dân
1999 tr.21 thì TNHS là “trách nhiệm của NPT phải chịu những hậu quả pháp lí
bất lợi về hành vi phạm tội của mình”.
Nguyên tắc cơ bản của LHS Việt Nam là người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được quy đinh trong
BLHS thì phải chịu TNHS. Đối với chủ thể - một trong 04 yếu tố cấu thành tội
phạm thì tuổi và năng lực TNHS là hai điều kiện bắt buộc phải được xác định ở
mọi chủ thể. Tuổi chịu TNHS là độ tuổi được xác định trong pháp LHS của mỗi
quốc gia mà chỉ đến độ tuổi đó trở về sau, người thực hiện hành vi phạm tội mới
có thể bị truy cứu TNHS.
Từ những cơ sở trên có thể rút ra định nghĩa tuổi chịu TNHS như sau:
“Tuổi chịu TNHS là độ tuổi được LHS quy định nhằm xác định khi một người
phát triển đến độ tuổi đó mới có thể phải chịu TNHS hoặc loại trách nhiệm,
mức TNHS về hành vi phạm tội do mình gây ra”1.
2. Một số đặc điểm cơ bản của tuổi chịu TNHS
Thứ nhất, tuổi chịu TNHS do LHS quy định. Vấn đề độ tuổi để xác định
tư cách chủ thể là một nội dung có tính chun biệt, được xác định theo từng
ngành luật. Chính vì vậy, về nguyên tắc, khi xác định tuổi chịu TNHS, chúng ta
cần căn cứ vào những quy định của LHS mà không viện dẫn các quy định của
Trần Thị Hoàng Lan (2012). Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt
Nam, Sđd, tr.10
1
các ngành luật khác. Chỉ trong những trường hợp LHS dẫn chiếu sang quy định
của các ngành luật khác thì chúng ta mới sử dụng cách tính tuổi của ngành luật
đó để xác định tuổi chịu TNHS.
Thứ hai, tuổi chịu TNHS là tuổi tròn. Tuổi tròn ở đây là ngưỡng để tính
tuổi tối thiểu của NPT và tuổi tối đa của người bị hại trong trường hợp tuổi của
người bị hại ảnh hưởng tới việc xác định TNHS của NPT. Cách tính tuổi trịn
được xác định bằng cách lấy ngày sinh nhật gần nhất của người đó để tính.
Thứ ba, tuổi chịu TNHS tính từ thời điểm người đó sinh ra đến thời điểm
người đó thực hiện hành vi phạm tội. Thời điểm sinh được xác định dựa và các
loại giấy tờ có giá trị pháp lý gắn liền với nhân thân của người đó như giấy
chứng sinh, giấy khai sinh, chứng minh thư nhân dân, cá loại văn bằng, chứng
chỉ... Thời điểm sau để xác định độ tuổi đó là thời điểm hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện, có nghĩa là hành vi được thực hiện ngày nào thì ngày đó
được sử dụng để tính tuổi của đương sự.
3. Mối quan hệ giữa tuổi chịu TNHS với năng lực TNHS
Độ tuổi chịu TNHS và năng lực TNHS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trước hết người có năng lực TNHS phải là người đã đạt đến một độ tuổi nhất
định và năng lực đó sẽ tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong thời gian nhất định
tiếp theo của cuộc sống cá nhân đó. Độ tuổi chịu TNHS tùy thuộc vào tình hình
kinh tế, chính trị văn hóa xã hội của từng quốc gia cũng như phụ thuộc vào từng
vùng miền trong một quốc gia hay phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của quốc gia
đó ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngược lại nếu một người chưa đạt đến
một độ tuổi nhất định thì khơng thể coi là người đó có năng lực TNHS, năng lực
TNHS gắn liền với đặc điểm tâm sinh lý của người thực hiện hành vi, và người
thực hiện hành vi đó chỉ có thể có khả năng nhận thức cũng như điều khiển
hành vi khi đã trải qua quá trình hoạt động và giáo dục nhất định, hay là phải
đạt đến một độ tuổi cụ thể theo quy định của Pháp luật2.
II.
Quy định về tuổi chịu TNHS trong BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017)
Việc quy định độ tuổi chịu TNHS ở nước ta tùy theo mỗi giai đoạn mà
các nhà làm luật thường căn cứ vào những tiêu chí sau: đặc điểm tâm sinh lý,
thể chất và khả năng nhận thức của lứa tuổi CTN; điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội và chính sách, đường lối xử lý tội phạm do người CTN thực
hiện; tổng kết thực tiễn đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và phòng,
chống tội phạm do người CTN thực hiện ở nước ta nói riêng; các quy định về
độ tuổi chịu TNHS của các nước trên thế giới.
BLHS 2015 quy định nội dung liên quan đến tuổi chịu TNHS tại Điều 12:
“Điều 12. Tuổi chịu TNHS
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều
123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249,
250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Điều 12 đã xác định 2 độ tuổi chịu TNHS, trong đó tuổi bắt đầu phải chịu
TNHS là đủ 14 tuổi và tuổi chịu TNHS đầy đủ là từ đủ 16 tuổi trở lên. Người
dưới 14 tuổi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì trong mọi trường
hợp sẽ không phải chịu TNHS. Những đối tượng này được coi là người chưa đủ
tuổi chịu TNHS hoặc chưa có năng lực TNHS và khơng phải chịu TNHS bởi vì
xét về mặt sinh lý trí tuệ của đối tượng này chưa phát triển đầy đủ nên chưa thể
Trần Thị Hồng Lan (2012). Những vấn đề lí luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt
Nam, Sđd, tr.21
2
nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả
năng tự chủ khi hành động. Tuy nhiên trong một số trường hợp NPT sẽ phải đưa
vào trường giáo dưỡng để giáo dục.Thêm nữa, LHS Việt Nam chỉ quy định về
giới hạn độ tuổi thấp nhất mà một người khi thực hiện tội phạm phải chịu
TNHS mà không quy định về giới hạn tối đa. Điều luật này có ý nghĩa quan
trọng, quyết định trong việc xác định năng lực chịu TNHS của chủ thể.
1. Quy định về năng lực chịu TNHS của người từ đủ 16 tuổi trở lên
Khoản 1 của điều luật xác định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
Điều 12 BLHS 2015 khắc phục thiếu sót của BLHS 1999 và đã bổ sung cụm từ
“trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Quy định này cần được
hiểu, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tất cả các tội phạm được
BLHS quy định, trừ một số tội mà Bộ luật đòi hỏi phải là người từ đủ 18 tuổi
trở lên.
Ví dụ, tại bản án 64/2018/HS-PT ngày 24/08/2018 TAND thành phố Hải
Phòng xét xử phúc thẩm cơng khai về tội cố ý gây thương tích đối với bị cáo
Đàm Duy K. Ngày 25/7/2017, Đàm Duy K, sinh ngày 19/4/2001 (khi thực hiện
hành vi phạm tội mới 16 tuổi 3 tháng 06 ngày), do có mâu thuẫn từ trước nên đã
cùng hai đối tượng khác có hành vi đấm, đá và dùng dao gọt hoa quả dài khoảng
23 cm giấu sẵn trong người đâm 01 nhát vào cẳng tay phải của N, đâm 03 nhát
vào người M làm M tổn thương 33% cơ thể. Bị cáo Đàm Duy K phạm tội cố ý
gây thương tích theo khoản 3 Điều 134 – tội phạm rất nghiêm trọng theo Điều 9
BLHS 2015 và không thuộc một số tội mà Bộ luật đòi hỏi phải là người từ đủ
18 tuổi trở lên. Chính vì thế trong trường hợp này, căn cứ khoản 1 Điều 12
BLHS 2015, Đàm Duy K (16 tuổi 3 tháng 06 ngày) phải chịu TNHS về tội mà
mình đã phạm.
Về các trường hợp người từ đủ 16 tuổi phạm tội khác được quy định tại
khoản 1 Điều 12 BLHS 2015, tất cả các tội phạm này đều là tội phạm mà NPT
phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên; nạn nhân được quy định là người dưới 16
tuổi hoặc dưới 18 tuổi. Việc quy định này là cần thiết, thể hiện rõ ràng ranh giới
giữa NPT và nạn nhân, trong đó NPT có sự lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ
của nạn nhân về một số hành vi. Cụ thể, đối với các tội phạm quy định tại Điều
145 (Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 tuổi đến dưới 16 tuổi) và Điều 146 (Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi)
thì NPT phải là người đủ 18 tuổi trở lên. Ngồi ra, BLHS 2015 cịn quy định 02
tội danh mà NPT phải đủ 18 tuổi trở lên mới chịu TNHS (Điều 325 - Tội dụ dỗ,
ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp; Điều 329 - Tội mua
dâm người dưới 18 tuổi), trong khi đó luật cũ khơng giới hạn độ tuổi; đồng thời
bổ sung thêm 1 tội danh mà chỉ có người đủ 18 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS
- Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147).
2. Quy định về năng lực chịu TNHS của người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi
Khoản 2 của Điều 12 xác định: Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
được quy định tại 1 trong 28 điều luật đã được liệt kê. Theo đó, khi đã xác định
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm một trong 28 tội phạm này, cần phải
xác định tiếp, tội mà họ đã phạm thuộc khoản nào và khung hình phạt của
khoản đó tương ứng với loại tội phạm nào theo quy định tại Điều 9 BLHS. Chỉ
khi tội phạm được thực hiện thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì họ mới phải chịu TNHS3.
Ví dụ, vụ án Đinh Anh Hào (14 tuổi, ngụ ấp 2, xã Tà Lài, Tân Phú, Đồng
Nai) có mâu thuẫn từ trước và nghi ngờ em TTT (11 tuổi, ngụ cùng ấp) nói xấu
mình. Tối 6/4/2020, Hào đã đấm đá, kẹp cổ, lấy đá đập vào đầu em T. cho đến
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hịa (2017). Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 – Phần
chung, tr. 81
3
khi nạn nhân chết. Hành vi giết bạn của Hào thuộc trường hợp giết người dưới
16 tuổi, quy định tại điểm b khoản 1 và tình tiết có tính chất côn đồ, quy định tại
điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS, thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Căn cứ khoản 2 Điều 12 BLHS 2015, trong trường hợp này Hào sẽ phải chịu
TNHS về hành vi của mình.
Có thể thấy BLHS 2015 đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ trong chính sách
hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo hướng bảo đảm lợi ích
tốt nhất cho người ở độ tuổi này trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên. Cụ thể, so với BLHS
1999, quy định của BLHS 2015 giới hạn phạm vi phải chịu TNHS của người
trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi hẹp hơn. BLHS 1999 chỉ giới hạn theo
loại tội phạm cịn BLHS 2015 khơng chỉ giới hạn theo loại tội phạm mà còn
giới hạn trong phạm vi 28 tội phạm thuộc 04 nhóm sau: Tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người (Điều 123, 134, 141, 142, 143,
144, 150, 151); Tội xâm phạm sở hữu (Điều 168, 169, 170, 171, 173, 178); Tội
phạm về ma túy (từ Điều 248 đến Điều 252); Tội xâm phạm an tồn cơng cộng,
trật tự cơng cộng (Điều 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303, 304).
Như vậy, có thể thấy, trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nghiêm trọng
và tính phổ biến của hành vi phạm tội do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
gây ra trong thời gian qua cũng như dự báo trong thời gian tới, BLHS năm 2015
đã xác định nhóm các tội danh mà người ở độ tuổi này phải chịu trách nhiệm
hình chủ yếu tập trung vào các tội gây hậu quả cho tính mạng, sức khỏe con
người và an tồn cơng cộng. Những quy định này nhìn chung phần nào đã đáp
ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở phân hóa TNHS xử lý người CTN phạm
tội, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm người CTN; đồng thời bảo đảm
minh bạch và thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo mà BLHS 2015 hướng tới.
3. Quy định về căn cứ xác định tuổi chịu TNHS
Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã
hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử,
các cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định rõ tuổi của họ. Việc xác định độ
tuổi của chủ thể của tội phạm phải dựa trên những giấy tờ, tài liệu có ý nghĩa về
mặt pháp lý xác thực. Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTCTANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
TAND tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng và Bộ Lao động Thương binh và
Xã hội ban hành ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi đã
quy định một cách khá chi tiết về nội dung này. Theo đó các cơ quan có thẩm
quyền thường dựa vào các căn cứ sau đây để xác định ngày sinh làm căn cứ tính
tuổi của NPT cũng như tuổi của người bị hại trong quá trình giải quyết các vụ
án: Giấy chứng minh nhân dân; giấy khai sinh gốc; bản sao giấy khai sinh, giấy
chứng sinh, sổ hộ tịch; sổ hộ khẩu, học bạ; các loại văn bằng, chứng chỉ, lí lịch
cá nhân do công an cơ sở cấp, lời khai của đương sự...
III.
Thực tiễn áp dụng các quy định về tuổi chịu TNHS ở Việt Nam hiện nay
Qua nghiên cứu thực trạng áp dụng chế định tuổi chịu TNHS trong thời
gian qua cho thấy, vấn đề này có những thuận lợi, khó khăn nhất định và sự tác
động tới xã hội của vấn đề này đang ngày càng đặt ra nhiều yêu cầu cấp thiết
trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật.
1. Thuận lợi
Những năm qua, Nhà nước ta đã chú trọng rất nhiều đến công tác xây
dựng pháp luật, các nội dung liên quan đến tuổi chịu TNHS đang dần được hoàn
thiện. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ khẩu, hộ tịch đã từng bước chuẩn
hóa trình tự, thủ tục và căn cứ áp dụng, tạo điều kiện rất lớn trong việc xác định
độ tuổi khi cần thiết. Các cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng được hoàn thiện,
các yêu cầu về mặt pháp lý của hồ sơ các vụ án ngày các chặt chẽ; công tác
kiểm tra giám sát ngày quá trình tố tụng ngày càng sát sao, vì vậy các căn cứ
pháp lý để xác định tuổi của các đương sự trong vụ án ngày các được thể hiện rõ
ràng, đầy đủ. Khoa học công nghệ tiên tiến được áp dụng nhiều vào lĩnh vực
khoa học hình sự, tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính
xác độ tuổi như máy giám định chữ viết để xác định giấy tờ giả mạo, giám định
xương, răng, tế bào... để xác định tuổi.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi có được trong quá trình xây dựng và áp dụng
quy định của pháp LHS về tuổi chịu TNHS, các nhà làm luật và những người áp
dụng pháp luật còn gặp phải những hạn chế nhất định trong thực tiễn. Hệ thống
pháp luật cịn thiếu tính đồng bộ, tính phù hợp cũng như kỹ thuật lập pháp.
Trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, một số người tiến hành tố tụng
chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của việc xác định tuổi với TNHS họ phải gánh
chịu nên xem nhẹ vấn đề xác định tuổi. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hộ
tịch, hộ khẩu nhiều nơi, đặc biệt là những vùng nông thôn vẫn chưa nhận thức
đầy đủ về giá trị của các loại giấy tờ mà mình có trách nhiệm cấp cho công dân,
dẫn đến việc cấp tùy tiện khơng theo đúng trình tự thủ tục, khơng có căn cứ.
Thêm vào đó, hiện nay vẫn tồn tại ở nhiều nơi là người dân không đăng ký khai
sinh, không đăng ký cư trú, không làm chứng minh nhân dân nên họ hầu như
khơng có bất kỳ loại giấy tờ gì để chứng minh tuổi của họ. Những vướng mắc
này có thể bị lợi dụng để trốn tránh TNHS hoặc gây khó khăn trong việc xác
định độ tuổi của đương sự.
IV.
Một số giải pháp hoàn thiện chế định tuổi chịu TNHS trong pháp luật
Việt Nam
Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay cịn nhiều thiếu sót, hiệu lực
pháp lí chưa cao, tạo ra nhiều kẽ hở để các đối tượng lợi dụng vấn đề độ tuổi để
phạm tội. Tình trạng “lách luật” cịn xảy ra nhiều do thiếu tính đồng bộ, nhiều
quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng dẫn đễn việc áp dụng khó khăn, thiếu
tính thống nhất. trên cơ sở đó cần tiến hành sửa đổi, bổ sung BLHS 2015 trong
việc thống nhất giữa phần chung và phần các tội phạm về tuổi chịu TNHS; giải
thích cụ thể các thuật ngữ liên quan đến việc xác định độ tuổi như “trẻ em”,
“người CTN”, “người già”. Bên cạnh đó cần xây dựng cơ sở pháp lí phục vụ
công tác xác định tuổi chịu TNHS chẳng hạn như ban hành văn bản quy định cụ
thể giá trị pháp lí của các loại giấy tờ được sử dụng để xác định tuổi… Ngoài ra
cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người trực tiếp áp dụng pháp
luật trong truy cứu TNHS để họ nhận thức đúng đắn, và nắm chắc trình tự thủ
tục và những yêu cầu cần phải làm sáng tỏ để chứng minh độ tuổi của các
đương sự trong quá trình truy cứu TNHS.
Phần kết luận
Ở Việt Nam, từ xưa đến nay, trong pháp luật của Nhà nước đều có những
quy định liên quan đến tuổi chịu TNHS. Sự thể hiện của vấn đề này ngày càng
hoàn thiện. Song, do nhiều lý do khác nhau, trong quy định của pháp luật hiện
hành vẫn có những vấn đề chưa bảo đảm tính thống nhất, phù hợp dẫn tới q
trình áp dụng cịn gặp nhiều khó khăn. Thực tiễn giải quyết vấn đề độ tuổi trong
truy cứu TNHS cịn bộc lộ nhiều thiếu sót dẫn tới không xử lý đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật…
Tuổi chịu TNHS là một vấn đề không thể thiếu trong pháp LHS của mỗi
quốc gia, thể hiện quan điểm của Nhà nước về cách thức xử lý NPT, vừa đảm
bảo trật tự an toàn cho xã hội nhưng phải vừa đạt được mục đích bảo vệ quyền
con người, đặc biệt là quyền của người CTN, kể cả khi họ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Qua nghiên cứu, bài viết đã chỉ ra những vấn đề cơ bản
về tuổi chịu TNHS và phân tích quy định về vấn đề này trong BLHS năm 2015;
đồng thời có sự đánh giá về những thuận lợi và bất cập của pháp luật hiện hành
về tuổi chịu TNHS. Với kết quả thu được, tác giả hy vọng sẽ góp phần tích cực
vào hồn thiện hệ thống lí luận về tuổi chịu TNHS cũng như quy định của
BLHS trong thời gian tới.