LUẬN VĂN
NGHỆ THUẬT VIẾT TẠP
VĂN QUA MỘT SỐ CÂY BÚT
TIÊU BIỂU
MỤC LỤC
DẪN LUẬN 1
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 2
III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 5
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
V. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 8
VI. KẾT CẤU LUẬN VĂN 8
CHƯƠNG 1: TẠP VĂN – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
VỀ THỂ LOẠI 10
1.1 Về khái niệm và vấn đề phân loại tạp văn trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện
đại 10
1.1.1 Về khái niệm tạp văn 10
1.1.1.1 Tạp văn - theo cách hiểu thông thường 11
1.1.1.2 Quan niệm về tạp văn trong hệ thống lý luận văn học 12
1.1.2 Về vấn đề phân loại tạp văn trong hệ thống thể loại văn học Việt Nam hiện đại. 23
1.2 Sơ lược về cơ sở xuất hiện và lịch sử phát triển của thể loại tạp văn 27
1.2.1 Trong văn học phương Tây 27
1.2.2 Trong văn học Trung Quốc 29
1.2.3 Trong văn học Việt Nam 32
Tiểu kết 42
CHƯƠNG 2: TẠP VĂN ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM: TỔNG QUAN 43
2.1 Những nhân tố tác động đến sự phát triển mạnh mẽ của tạp văn
đương đại 43
2.1.1 Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân trong văn học sau công cuộc
Đổi mới 43
2.1.2 Những thay đổi về tư duy, thị hiếu tiếp nhận trong thời đại mới 46
2.2 Những đặc trưng cơ bản của tạp văn 48
2.2.1 Tính chất nhập cuộc và yếu tố nghị luận trong tạp văn 49
2.2.2 Linh hoạt trong kết cấu, cô đọng, súc tích trong diễn đạt 51
2.2.3 Cái “tôi” trong tạp văn 54
2.3 Những chủ đề chính của tạp văn đương đại 57
2.3.1 Tạp văn viết về những kỷ niệm đã qua (tạp văn hồi ức) 57
2.3.2 Tạp văn viết về những vấn đề xã hội 66
2.3.3 Tạp văn viết về vấn đề văn hóa – lịch sử 77
2.3.4 Tạp văn chân dung nhân vật và miêu tả thiên nhiên 82
Tiểu kết 95
HƯƠNG 3: NGH
Ệ THUẬT VIẾT TẠP VĂN QUA MỘT SỐ CÂY BÚT TIÊU BIỂU 97
3.1 Tạp văn Nguyên Ngọc – một giọng điệu thâm trầm, sâu sắc 98
3.2 Hoàng Phủ Ngọc Tường: cây bút tạp văn tài hoa, uyên bác 103
3.3 Cái nhìn sắc lẻm và sức mạnh biện giải trong tạp văn Nhân trường hợp chị thỏ bông của Phan
Thị Vàng Anh 109
3.4 Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư: mộc mạc, tự nhiên mà sâu lắng 118
Tiểu kết 126
KẾT LUẬN 128
THƯ MỤC THAM KHẢO 132
Có thể nói, do sự đòi hỏi phải nắm bắt nhanh nhạy, kịp thời trước những
biến đổi không ngừng của hiện thực cuộc sống và sự phát triển mạnh mẽ của
báo chí cũng như nhu cầu thưởng thức của độc giả, cùng với thể loại ký nói
chung, tạp văn ngày nay không chỉ là một thể loại phong phú về nội dung,
chứa đựng nhiều thông tin, gắn liền với cuộc sống, mà còn hiện đại hơn về
hình thức thể hiện. Như đã đề cập đến trong chương 2, ngoài đặc trưng kết
hợp chặt chẽ giữa tư duy logic với tư duy hình tượng, có một kết cấu linh hoạt
và cách diễn đạt cô đọng, súc tích, tạp văn còn đòi hỏi người viết phải thể hiện
được phong cách, lối viết của mình qua từng trang viết. Lối viết riêng ấy có thể
được thể hiện qua cách nhìn mới mẻ về một vấn đề nào đó, qua cách nêu và dẫn
dắt vấn đề, hoặc qua cách diễn đạt của từng tác giả. Nhưng dù có là thế nào đi
chăng nữa, tạp văn vẫn đòi hỏi ở người viết một tầm hiểu biết sâu rộng, một tư
duy nhạy bén, và một nguồn cảm hứng dồi dào.
Nhìn một cách khách quan và bao quát, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một
điều: mỗi tác giả đến với tạp văn theo một cách riêng, và dấu ấn mỗi người
để lại trong lòng người đọc cũng đậm nhạt khác nhau, tùy thuộc vào vấn đề
tác giả quan tâm, và cách họ thể hiện vấn đề ấy ra sao. Vậy nên cũng thật khó
để nói về một nghệ thuật viết tạp văn chung chung, những kỹ thuật viết
chung chung, bởi sẽ dễ rơi vào lý thuyết suông và không đúng với bản chất
linh hoạt trong lối viết của thể loại này. Và chúng tôi cũng nhận ra một điều,
dường như có tồn tại một sự thật rất khắt khe, rằng viết được tạp văn là điều
có thể gặp, nhưng thành công với tạp văn lại là điều chẳng thể cầu! Nói chẳng
thể cầu là bởi một lẽ, đôi khi có đề tài hay rồi đấy, có ý kiến độc đáo, sâu sắc
rồi đấy nhưng cũng chưa chắc đã tạo ra được một bài viết hay, dù bài viết ấy
người ta chỉ cần khoảng một hai ngàn chữ. Dường như việc tạo được phong
cách riêng với thể loại này không chỉ phụ thuộc vào “tay nghề” của nhà văn,
cách quan sát của nhà văn, mà phần nhiều còn phụ thuộc vào tố chất thiên
bẩm, vào cái “duyên” đưa đẩy, cái “tạng” của từng người – hay nói cách
khác, tạp văn ra đời từ những khoảnh khắc thăng hoa của cảm xúc, là phút
xuất thần và người ta đôi khi chỉ vô tình đạt được sự thăng hoa đó chứ không
phải cứ có ý tưởng rồi buộc mình ngồi vào bàn là viết ra được. Thế mới nói,
cảm hứng là điều rất quan trọng trong những bài viết kiểu như thế này. Đó
cũng là lý do vì sao chúng tôi lại muốn chọn ra một số gương mặt tiêu biểu
để thông qua chính cách viết cụ thể của họ, phần nào sẽ giúp ta hiểu hơn về
nghệ thuật viết tạp văn nói chung hiện nay. Hơn nữa, mỗi tác giả ở đây đều
đến với tạp văn và chiếm lĩnh nó theo một cách riêng, bằng một nét độc đáo
riêng, tạo nên một lăng kính đa diện về tạp văn đương đại. Đó là một Nguyên
Ngọc với giọng điệu thâm trầm, sâu sắc; một Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa tài
hoa, vừa uyên bác; một Phan Thị Vàng Anh với cái nhìn sắc lẻm và khả năng
biện giải tài tình; một Nguyễn Ngọc Tư với giọng văn mộc mạc, tự nhiên mà
thấm đẫm cảm xúc.
3.1 Tạp văn Nguyên Ngọc – một giọng điệu thâm trầm, sâu sắc
Nhắc đến Nguyên Ngọc, người ta thường nghĩ ngay đến những Đất nước
đứng lên, Rừng xà nu, Rẻo cao, Đất Quảng… những tác phẩm đã làm nên tên
tuổi ông một thời. Thế nhưng, trong những năm gần đây, mặc dù đã về hưu,
Nguyên Ngọc vẫn thường xuyên xuất hiện trên báo với những bài viết ngắn
gọn, súc tích, đầy tâm huyết về những vấn đề nóng hổi đang diễn ra trong
cuộc sống, mà đặc biệt nhất là các vấn đề về văn hóa, giáo dục và phát triển
bền vững ở Tây Nguyên – những vấn đề bức xúc mà ông cho là không thể
làm thinh được. Và đấy cũng là lý do vì sao, thời gian qua, thỉnh thoảng ta lại
thấy báo chí gọi ông là nhà văn hóa, nhà giáo dục.
Trong số bốn tập sách đã được xuất bản gần đây, gồm: Tản mạn nhớ và
quên (2005), Nghĩ dọc đường (2006), Lắng nghe cuộc sống (2006), và Bằng
đôi chân trần (2008), nhiều bài là những nghiên cứu công phu, đầy đặn,
nhiều bài là những bút ký tác giả ghi lại nhân dịp những chuyến đi, nhưng
nhiều bài, theo chúng tôi có thể được xếp vào thể loại tạp văn, tập trung chủ
yếu vào một khía cạnh nào đó và trình bày ý kiến cá nhân của tác giả, chứ
không đơn thuần là nhằm ghi chép, thông tin sự kiện,…
Nhìn một cách tổng quát, có thể nhận thấy sức mạnh trong những bài báo
của Nguyên Ngọc thể hiện ở nhiều điểm, trước hết là ở sự dũng cảm và tinh
thần trách nhiệm của một người có tâm huyết, muốn cống hiến và góp phần
làm cho đất nước giàu mạnh hơn, thông qua chính những đề tài cấp bách mà
ông lựa chọn; kế đến là ở sự am hiểu tường tận, một trí tuệ mẫn tiệp, hiện đại
trong lối nghĩ, và đặc biệt là hơi thở thâm trầm, sâu sắc mà ông đã phả vào
từng trang viết của mình – đó là hơi thở của một con người giàu kinh nghiệm
sống, dám nói lên tiếng nói của mình và cũng dám chịu trách nhiệm trước
tiếng nói ấy. Những bài viết của ông, dù ngắn hay dài, dù là về vấn đề gì đi
chăng nữa, cũng luôn ấp ủ một nhiệt huyết tràn đầy, tha thiết dành cho cuộc
sống những tiếng nói tích cực. Tiếng nói ấy vừa toát lên sự gần gũi, hiền
lành, mà cũng vừa nghiêm nghị, cương trực.
Trong bài viết “Công trình nghiên cứu khoa học… để làm gì?”, Nguyên
Ngọc đã không ngần ngại chỉ ra cho người đọc thấy được hai nghịch lý đáng
buồn trong việc thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học. Thứ nhất là
việc lãng phí khi các cơ quan đoàn thể đua nhau làm công trình nghiên cứu
khoa học, mà rồi những công trình ấy lại chẳng biết dùng vào việc gì, chẳng
giúp ích được gì cho khoa học, cho xã hội. Và nghịch lý thứ hai lại còn đáng
buồn hơn nữa, đó là việc lãng phí chất xám khi những công trình khoa học
thực sự có giá trị thì lại bị bỏ xó, chẳng người nào có trách nhiệm thèm quan
tâm tới:
Tình hình đáng buồn, phổ biến và kéo dài đó, chắc ai ít nhiều có quan
tâm đến lĩnh vực này đều biết, biết đã lâu rồi, đến mức… ngán ngẩm, gần
như bất lực, “biết rồi, khổ lắm…”, chẳng buồn nói nữa.
Tuy nhiên, cũng còn một tình hình khác, ngược lại, có lẽ cũng không ít
người biết, nhưng hình như lại ít người nói đến: vẫn còn nhiều cơ quan
nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc, còn nhiều nhà khoa học có tài năng, có
lương tâm, và có dũng khí, họ đã làm được những công trình nghiên cứu
khoa học sâu sắc, hết sức thiết thực, thật sự có ích, mang tính phát hiện cao,
không ít khi có thể có tác dụng vừa cơ bản vừa bức thiết… nhưng rồi chẳng
ai nghe họ cả. Thậm chí có khi họ như người gào lên giữa sa mạc, mà chẳng
ai, chẳng người nào có trách nhiệm trong chính cái lĩnh vực liên quan đó
thèm đoái hoài đến [53, 60-61].
Tạp văn Nguyên Ngọc luôn hiển hiện một nỗi day dứt, trăn trở khôn
nguôi, và như thế, những câu chữ ông viết ra cũng trở nên có hồn và sâu sắc
vô cùng:
Để rất hiện đại cùng lúc lại rất “nếp nhà” thì điều quan trọng nhất là
con người hãy đi đến với nhau trong tận cõi tâm linh “chỉ bằng đôi chân
trần”. Vì sao người đạp xích lô Hà Nội mấy năm trước kính cẩn bước xuống
xe, ngả mũ chào khi linh cữu một người không quen biết đi qua? Vì “bằng
đôi chân trần” của tâm hồn một con người ông biết rằng một con người như
ông đang đi vào cõi vĩnh hằng, đang đi qua cái bí ẩn và thiêng liêng nhất của
cõi người, cái sống chết, sự tử sinh đang diễn qua đấy, trước mắt ông. Trên
đời này không còn gì bí ẩn hơn, thiêng liêng hơn, trọng đại hơn. Con người
hiểu được như vậy là con người rất hiện đại và rất “nếp nhà”.
Anh bạn trẻ đang đi tung tăng trên phố kia, anh sẽ là người rất hiện đại
nếu gặp một đám tang anh văn minh như người đạp xích lô nghèo nọ, dừng
lại một chút và cúi đầu im lặng ngả mũ chào, lòng bỗng trầm lắng xốn xang
vì câu hỏi muôn đời của lẽ tử sinh. Và đấy cũng là nếp nhà thanh khiết cố
chớ để mất của người Tràng An (Bằng đôi chân trần) [54, 224-225].
Một trong những điều làm nên hơi thở riêng cho tạp văn Nguyên Ngọc là
ở việc ông dám dấn thân vào những đề tài mà nhiều người phải kiêng dè, bởi
ngay từ đầu ông đã quan niệm, viết báo hay viết văn thì cần phải có sự mạnh
mẽ, đi sát cuộc sống, dám đối mặt với cuộc sống. Tạp văn của ông là một cái
nhìn thẳng thắn, nhưng không phải cái nhìn kiểu soi mói “vạch lá tìm sâu”,
chỉ ra cái dở, cái chưa hay rồi để đấy, mà trên hết là tinh thần trách nhiệm của
một công dân tích cực đã từng nhiều năm lăn lộn trên chiến trường ác liệt của
tổ quốc, đã thấu hiểu được những hy sinh mất mát, thấu hiểu được cả ranh
giới mong manh giữa sự sống và cái chết, muốn đưa ra những giải pháp có
khả năng thực thi để cải tạo hiện thực, cũng như để tránh những hậu quả đáng
tiếc và khó lường trong tương lai. Nhiều người đã gọi đó là tinh thần “canh
tân” ở Nguyên Ngọc - cái tinh thần đã làm nên tên tuổi học giả Phan Châu
Trinh trong lịch sử dân tộc trước đây. Người đọc có thể lấy làm lạ lùng khi
thấy một nhà văn đã về hưu như Nguyên Ngọc lại vẫn đang sở hữu một lối
suy nghĩ trẻ trung và đầy sáng tạo đến như vậy. Thậm chí, những suy nghĩ
của ông cũng đã từng bước được hiện thực hóa, đơn cử như việc ông đứng ra
vận động thành lập Trường Đại học Tư thục Phan Châu Trinh – ngôi trường
mà theo ông sẽ “rèn luyện cho giới trẻ sức phản kháng!” [55, 7], sẽ đào tạo ra
những con người dám và biết độc lập suy nghĩ, giàu sáng tạo.
Bên cạnh đó, sức thuyết phục trong những bài tạp văn của Nguyên Ngọc
cũng tỏa ra từ chính những chuyến đi không biết mệt mỏi của ông. Từ những
hiện thực phả vào trang viết ấy, người ta có thể cảm nhận được sự trôi chảy
của thời gian, cảm nhận được những bước chuyển của lịch sử, của đất nước.
Đấy là những ngày ông trở lại Tây Nguyên để sống lại những năm tháng
oanh liệt xưa cũ của nơi này, và cũng để nhìn ra một sự thật về cuộc sống Tây
Nguyên hôm nay sao còn quá ngổn ngang bề bộn; là những ngày ông về miền
Tây để thăm cái không gian đã làm nên những sáng tác hồn hậu của nhà văn
trẻ Nguyễn Ngọc Tư; hay những ngày lặn lội ở vùng rừng núi miền Trung để
tìm hiểu về cái kho văn hóa vô tận của người dân nơi đây,… Chẳng thế mà
ông đã từng bộc bạch trên báo chí rằng: “Con người mà không còn ham tìm
hiểu thì sẽ chết về mặt trí tuệ, rồi tâm hồn cũng khô cằn đi” [123]. Và chính
vì tâm hồn không bị khô cằn đi theo tuổi tác, nên những bài viết của ông vẫn
luôn cháy bỏng những khát vọng được dấn thân và cả những niềm tin đặt lên
vai thế hệ trẻ của đất nước:
Hàng vạn người trẻ đã kết nối với nhau bằng blog, trao đổi, thảo luận,
tranh luận, hỗ trợ tư duy cho nhau bằng blog, tổ chức nhau lại bằng blog,
liên kết hành động qua blog. Và tôi đồng tình với một người bạn tôi là chuyên
gia tin học đồng thời cũng là một nhà hoạt động xã hội lâu năm khi anh nói
rằng, qua hiện tượng trên anh lạc quan về lớp trẻ hiện nay của đất nước: đấy
là một lớp trẻ trưởng thành về ý thức xã hội chính trị, giàu lòng yêu nước, rất
dũng cảm, và đầy đủ cả sự khôn ngoan nữa. Chẳng hề thua gì các thế hệ cha
anh, nếu không hơn. Chính sự phẳng ra của thế giới, ngay ở ta, đã tác động
tích cực cho sự trưởng thành đó. Và nó sẽ nhanh chóng lan rộng, bỏ qua tất
cả những cười giễu, chê bai, hoài nghi, cả lo lắng và bi quan, hoảng hốt, và
cả chống đối nữa, của nhiều người, nhiều thế lực. Nó đang hướng tới tương
lai. Một tương lai mà ta có thể hoàn toàn tin (Thế giới đang phẳng ra, cả ở
nơi đây) [54, 284].
Nói như thế để thấy được rằng, cái thâm trầm, sâu sắc của một người
từng trải quả thực có sức mạnh ghê gớm, nhất là khi sức mạnh ấy lại tác động
trực tiếp đến những vấn đề sống còn của tương lai đất nước: vấn đề văn hóa
và giáo dục. Chọn cho mình một con đường riêng đầy khó khăn, dù biết có
thể sẽ vấp phải những “hàng rào” tư tưởng của những người có chức quyền,
Nguyên Ngọc vẫn đang từng ngày cho ra đời những cách quan sát độc đáo và
những kiến giải mới mẻ để chúng ta cùng suy ngẫm, cùng chung tay hành
động. Bằng một giọng văn thâm trầm, không lên gân, không phản ứng gay
gắt, ông đã tìm được cách riêng để đi vào lòng người đọc bằng những bài báo
rất “nóng” về tương lai đất nước, về số phận dân tộc, về hôm qua và hôm
nay. Cuộc chiến tranh giành lại độc lập dân tộc thống nhất đất nước quả thực
là một trang vàng chói lọi trong lịch sử Việt Nam, nhưng Nguyên Ngọc đã
chỉ ra cho chúng ta thấy rằng, cuộc kháng chiến vĩ đại ấy cũng chỉ làm được
một việc là giành lại non sông để bắt đầu làm lại. Vấn đề “chiến thắng” cần
phải được nhìn nhận trong cái thế vững vàng, kiên định của ý chí, trong cái
thế bình tâm của lòng người, để đừng mãi nhìn về quá khứ và ngủ quên trên
chiến thắng, để biết rằng, phía trước chúng ta còn biết bao khó khăn, thử
thách cần phải vượt qua của giai đoạn “hậu chiến thắng”:
Hình như vừa qua chúng ta đã nhiều lúc không minh triết được đến như
vậy. Chúng ta không cao lớn được như Bác, chúng ta đã mất đến ba mươi
năm để dần dần bình tâm lại, mà có lẽ cũng mới ở trong một số không nhiều
người, bình tâm lại, và từ đó khiêm nhường, thật khiêm nhường, biết rằng
mình thật sự đang ở đâu, mình đã nhích lên được bao nhiêu khỏi điểm xuất
phát ban đầu của phát triển (…) Ba mươi năm. Những ngày tháng Tư này.
Mừng vui và tự hào về chiến thắng vĩ đại, và biết bình tâm để suy nghĩ nhiều
hơn, kỹ hơn, sâu hơn, về hậu chiến thắng (Chiến thắng và hậu chiến thắng)
[54, 205].
Có lẽ, chính vì cái chất thâm trầm, luôn biết lắng mình để tự vấn, để
chiệm nghiệm mọi điều ở Nguyên Ngọc đó đã khiến Nguyễn Khải nhận xét
về ông rằng: “Anh là nhà tư tưởng của thế hệ chúng tôi”. Và tôi thì cho rằng,
câu nói ấy vẫn còn đúng với Nguyên Ngọc trong cả thời đại ngày nay – một
thời đại mà khoa học kỹ thuật đang phát triển nhanh đến chóng mặt, nền kinh
tế thị trường đang từng ngày cuốn con người ta vào một quỹ đạo khắc nghiệt,
và thật cần thiết làm sao những “cái phanh”, “cái thắng” để không làm cho
con tàu đất nước đi chệch khỏi đường ray trên bước đường tiến về tương lai.
Trong hành trình còn nhiều gian khó ấy, một con người mẫn tiệp, với cái nhìn
công tâm và suy nghĩ cẩn trọng như Nguyên Ngọc chính là một trong những
cái phanh như thế.
3.2 Hoàng Phủ Ngọc Tường: cây bút tạp văn tài hoa, uyên bác
Bên cạnh rất nhiều tập bút ký đặc sắc đã được xuất bản, bao gồm: Ngôi
sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Rất nhiều ánh lửa, Ai đã đặt tên cho dòng sông,
Bản di chúc của cỏ lau, Hoa trái quanh tôi, Miền cỏ thơm,… và hai tập thơ:
Những dấu chân qua thành phố, Người hái phù dung, Hoàng Phủ Ngọc
Tường cũng đã xuất bản ba tập nhàn đàm: Nhàn đàm (1997), Người ham chơi
(1998), Miền gái đẹp (2001), tập hợp những bài viết nhỏ trên chuyên mục
Nhàn đàm của báo Thanh niên do ông phụ trách, mà chúng tôi gọi đó là
những bài tạp văn. Những bài viết trong ba tập tạp văn này đã được tuyển
chọn và tập hợp lại trong Hoàng Phủ Ngọc Tường tuyển tập 1, do nhà xuất
bản Trẻ xuất bản vào năm 2002.
Cũng như trong hầu hết các bút ký của mình, nét đặc sắc trong tạp văn
của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp. Hơn
nữa, vì là những bài tạp văn đăng báo nên những bài viết này lại hết sức cô
đọng, có chiều sâu về nội dung tư tưởng. Tất cả đã góp phần tạo nên một ngòi
bút vừa tài hoa, vừa uyên bác, với một lối hành văn mượt mà làm mê đắm
lòng người.
Tạp văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường là những cái nhìn xuyên thấu về
cuộc sống thực tại, về những vấn đề xã hội và thế thái nhân tình, được chắt
lọc qua lăng kính nhân văn sâu sắc của một con người từng trải, giàu chất suy
tưởng và đầy tinh thần trách nhiệm. Có thể bắt gặp trong tạp văn của ông
những vấn đề thời sự thế giới nóng bỏng như chuyện về lòng nhân ái giữa
con người với con người trong “Bài học vỡ lòng của tôi”, vấn đề bảo vệ môi
trường, bảo vệ trái đất trong “Để bảo vệ trái đất”, hay chuyện về vấn đề giải
trừ vũ khí hạt nhân được ông lồng kể qua bài “Có một con tàu nhỏ”, trong đó
nổi bật lên là hình ảnh một nhà văn của nước Tân Tây Lan mang đến Cung
Các Nhà Văn những quả chuông nhỏ kêu leng keng để phát cho các nhà văn
tham dự cuộc Gặp gỡ các Nhà văn lần thứ V tại đất nước Bungari, và Hoàng
Phủ đã có một câu bình luận vô cùng xúc động thế này: “Đúng như thế,
những nhà nước siêu cường có vũ khí hạt nhân trong tay, và đối với họ, các
nhà văn chỉ có quả chuông nhỏ của lương tâm để xin cho nhân loại mẩu bánh
mì của sự sống” [91, 73] Bên cạnh đó, ông cũng luôn trăn trở với vấn đề
văn hóa dân tộc thời mở cửa, với nền giáo dục nước nhà, cũng như nhiều vấn
đề thời sự nóng hổi khác… Sự uyên bác trong các bài viết của Hoàng Phủ
Ngọc Tường được thể hiện rất rõ ở vốn hiểu biết vô cùng phong phú về nhiều
lĩnh vực như triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… khiến cho các bài viết của
ông luôn hàm chứa một lượng thông tin đầy đặn, những kiến giải sâu sắc, và
thường toát lên những triết lý sâu xa về cuộc đời, về số phận con người. Đơn
giản như khi ông viết cảm nghĩ về một trận đá bóng, thì đằng sau đó cũng ẩn
chứa những suy tư về cuộc đời, về cõi nhân sinh:
(…) nếu cuộc tiệc trên đời này có thể chơi thêm một lần theo kiểu “đá
lại”, thì thế giới sẽ khác, lịch sử nhân loại sẽ khác, mà bạn trăm năm của đời
người… cũng khác (…) Nhưng Euro 96 đã khép lại sau lưng đội Ý, và cuộc
chơi không bao giờ tái diễn để cho phép anh làm lại từ đầu. Chỉ một lần thôi
là bàn chân lơ đãng của con người dẫm lên những đổ vỡ của chính linh hồn
mình. Và chính vì thế, tôi cảm nhận Bóng Đá không chỉ như một môn thể
thao hào hoa mã thượng, mà còn là một Trò Chơi Lớn của cuộc đời (Nước Ý
nếu được “đá lại”) [91, 128-129].
Hay câu chuyện thâm thúy qua bài học vỡ lòng của ông về lòng nhân ái
cũng khiến người ta phải suy ngẫm về mối quan hệ giữa con người với con
người ngày nay:
Bài học đầu tiên của chúng tôi không bắt đầu bằng mấy chữ cái abc như
thường lệ, mà là một bài thơ thầy đã chép sẵn lên bảng, và bảo chúng tôi đọc
theo thầy từng câu một (…) Cuối buổi học tôi đã thuộc làu, và cũng tạm gọi
là “thông suốt” nghĩa lý của bài thơ bằng trực giác mộc mạc của tuổi thơ.
Trong kỷ niệm ngày tựu trường, Thanh Tịnh có viết rằng: “Con đường này
tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi bỗng nhiên thấy lạ. Cảnh vật
chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi: hôm nay
tôi đi học”. Quả đúng với tâm trạng của tôi ngày hôm đó. Tôi cảm thấy thằng
bé trong tôi đã khác ngày hôm qua, vì trên trang giấy trắng của tâm hồn tôi,
thầy tôi đã viết lên bài học về lòng Nhân Ái (Bài học vỡ lòng của tôi) [91, 86-
87].
Bên cạnh đó, sự uyên thâm của Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thể hiện
trong việc ông hay dùng những chuyện cổ, tích cổ để nói về cái hôm nay,
khiến cho các bài viết của ông có một sự cô đọng cần thiết và mang một
không khí vừa trầm mặc vừa hiện đại. Đó là việc ông mượn câu chuyện về
nhân vật Đường Tăng (trong Tây Du ký của Ngô Thừa Ân) đạo cao đức trọng
làm vậy mà cũng quên lời hứa với con rùa đã “lặn lội một kiếp trầm luân, đã
độ thầy trò ông tới bờ bến cuối cùng của cuộc hành trình thiên nan vạn khổ”
để nói về đạo lý đền ơn đáp nghĩa các Bà Mẹ Việt Nam anh hùng thời nay.
Đó là việc ông mượn tích Trang Tử kể chuyện mổ rồng để nói về chuyện đào
tạo đại học tràn lan ở ta: đào tạo ra rất nhiều cử nhân, bác sĩ, kỹ sư,… nhưng
rốt cuộc lại không có việc làm để phân bổ, cũng như chuyện xưa kể về việc
Chu Bình Man luyện được tuyệt kỹ mổ rồng vô cùng điêu luyện, nhưng khi
trở về thì hỡi ơi, làm gì có rồng đâu mà mổ! Đó còn là việc Hoàng Phủ mượn
những câu chuyện cổ về địa ngục qua chuyện Phạm Công Cúc Hoa, Bồ Tát
Mục Kiền Liên, cảnh giới Thập Điện Diêm Vương, sự tích Thủ Huồng để răn
mình và răn người sống sao cho phải đạo:
Tôi không biết mẹ tôi có tin như vậy không, nhưng chính bà đã xây dựng
được cho tôi niềm tin rằng địa ngục có thật, và tôi rất sợ địa ngục. Lớn lên,
những ý tưởng về địa ngục dần dần chuyển biến trong tôi thành niềm tin vào
thiên lý, giúp tôi tránh được những điều ác; mà nếu chỉ sợ tòa án hoặc công
an thì có thể tôi vẫn cứ làm, bởi chắc chắn rằng ngoài tôi ra không ai bắt
quả tang được việc làm kín nhẹm của tôi (như ăn hối lộ chẳng hạn). Thế
nghĩa là nỗi sợ địa ngục đã ẩn sâu vào bản ngã, sẽ tạo được điều kỳ diệu gọi
là “lương tâm” (Nỗi sợ địa ngục) [91, 44].
Có thể nói, những trang viết chiêm nghiệm về thế thái nhân tình của
Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những trang viết lôi cuốn nhất, đọng lại
trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm nhất. “Quẻ Vị Tế” là một trong số
những bài viết như thế. Từ việc cắt nghĩa quẻ cuối cùng trong 64 thời kỳ của
Dịch trong Ngũ Hành, ông đã có một bài viết thật sâu sắc, như một thông
điệp vĩnh hằng về số phận con người, gắn liền với hành trình vượt sông định
mệnh của mỗi kiếp người. Bài viết không rơi vào cái khuôn diễn giải chữ
nghĩa sách vở, mà chỉ nhẹ nhàng như một lời bộc bạch, “một bài thơ cuộc
đời” ông ngẫm cho riêng phận mình: “Hỡi người, người sinh ra không phải
để yên nghỉ mà lên đường, lên đường bằng tất cả lo âu của kẻ vượt sông”.
Đấy cũng là bài học lớn cho những ai đang sống và đang ngộ nhận về một
cuộc dừng chân ngơi nghỉ giữa cuộc đời này:
Nên chi, trong cuộc dấn thân giữa cõi đời, dù đường dài chỉ còn một
bước nữa thôi, con người không được quên lời dạy minh triết của quẻ Vị Tế,
rằng đời người vẫn còn đầy những bất trắc khôn lường, phải biết nghiêm cẩn
giữ mình, đừng bao giờ tự buông thả trong một ảo tưởng về một cuộc “hạ
cánh an toàn”. Sự thâm thúy của Kinh Dịch hàm chứa trong chính ký hiệu
sau cùng của nó là trên lửa – dưới nước (quẻ Ly/quẻ Khảm). Hèn chi, đến
bậc Thánh đã san định Kinh Dịch như Khổng Tử mà vẫn hằng run sợ: “Cho
ta sống thêm ít năm nữa, để học Kinh Dịch, hầu không mắc lầm lỗi lớn” [91,
141].
Và tất cả những sự uyên thâm, minh triết ấy của Hoàng Phủ Ngọc Tường
lại được thể hiện qua một lối hành văn đầy tài hoa, mê đắm – kết quả của một
cái tôi trữ tình nồng nàn và đầy chất nghệ sĩ. Lật giở từng trang sách, thấy
Hoàng Phủ Ngọc Tường bao giờ cũng như trải hết lòng mình với câu chữ,
cộng thêm chất Huế nên thơ, chất triết luận huyền hoặc, những câu chữ ấy
của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở nên quyến rũ lạ thường. Hãy lắng nghe
ông miêu tả những hạt bụi vũ trụ đã tạo nên cảnh sắc của cõi vô cùng – cõi
Cát Bụi này, từ những kiến thức vật lý khô cứng, dưới bàn tay tài hoa, ông đã
nhào nặn chúng thành một cảnh tượng quá đỗi diệu kỳ:
Có bao giờ bạn nghĩ rằng bầu trời thu xanh ngắt đến nao lòng của thi sĩ
Yên Đổ kia lại được tạo nên bởi toàn là… bụi?
Sự thực lại đúng như vậy. Vâng, chỉ toàn là bụi thôi; thậm chí nếu không
có bụi thì bầu trời trên đầu ta chỉ còn là một khoảng trống đen ngòm. Không
phải là những nguyên tử và phân tử khí, bụi vũ trụ là những hạt “rắn” nhìn
thấy được bằng kính hiển vi, tràn ngập không gian do từ trăm nghìn dạng ô
nhiễm trên trái đất hoặc giữa các ngôi sao. Tùy theo đặc tính của từng loại,
và tùy theo độ nghiêng của từng hạt bụi so với phương chiếu của tia sáng
mặt trời, bụi vũ trụ sẽ dâng tặng cho chúng ta những màu sắc đẹp mê hồn
của bầu trời. Từ cổ sơ của nền văn minh, sự minh triết của người Ấn Độ đã
gọi tên toàn bộ cảnh sắc huyền ảo ấy của thế giới là Trò Chơi Maya, tức là
Ảo Hóa (Cát bụi lộng lẫy) [91, 32].
Cái chất nghệ sĩ tài hoa trong con người Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ
cũng giống như chất “ngẫu hứng” ông nhìn thấy trong con người nhà văn
Phùng Quán – một người bạn vong niên của ông. Nó khiến cho những bước
chân của ông trên cõi đời này trở thành một cuộc ngao du bất tận, nhưng lại
tiềm ẩn trong đó những ý tưởng, những sáng tạo bất ngờ. Trên trang giấy,
những phút ngẫu hứng, những phút thăng hoa của cảm xúc như thế sẽ cho ra
đời những trang viết đầy ma lực, bởi: “đó là khả năng phát kiến thế giới bằng
sự trinh bạch của ý thức, giống như hoa perce-neige chọc thủng giá lạnh để
nở trong màu trắng của tuyết” (Ngẫu hứng) [91, 58]. Những bài viết của ông
về những người bạn, về tình bạn và tình người cũng là những trang viết để lại
những dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc. Đấy là những cảm xúc chân
thành, không cần điểm xuyết, tô vẽ, chỉ mộc mạc, “trinh bạch” thôi mà sâu
sắc biết nhường nào:
Năm ngoái tôi trải qua một mùa đông xứ Huế rất dài, suốt ngày lặng lẽ
trước bàn viết, với vầng sáng đèn vàng trên trang giấy, bên ngoài triền miên
mưa dầm gió bấc. Mùa đông ở Huế, tôi thấy dường như mình không còn
tương quan gì với thế giới.
Tám giờ tối… bỗng nhiên chuông điện thoại reo, và tôi nhận được thông
báo của đại ca Phan Đắc Lập: - Tất cả nhóm Lồ Ồ mười lăm người đang có
mặt sẽ lần lượt nói chuyện với Hoàng Phủ.
(…) Bạn bè lần lượt nói với tôi, mỗi người một chuyện (…) Toàn những
chuyện trên đời này chẳng ai thèm quan tâm, nhưng giữa chúng tôi, lại chính
là chất liệu cố kết con người trong nỗi buồn vui cuộc sống. Riêng với tôi,
buổi tối ấm áp ấy của tình bạn đã tạo ra cho tôi nội lực đủ sống ung dung cả
một năm (Điện thoại) [91, 165-166].
Thậm chí, tình bạn chân thành giữa những người bạn còn được ông đúc
kết trong một câu nói hệt như một châm ngôn: “Bạn của ta! Ta cần ngươi như
Giêsu cần thập tự. Nếu Giêsu vứt bỏ cây thập tự thì nhẹ nhàng biết bao,
nhưng nhân loại sẽ không nhận ra Người được nữa” (Cám ơn tình bạn) [91,
52]. Tạp văn của ông, như một nét đặc trưng riêng, đều ít nhiều hàm chứa
những ý hướng triết luận sâu sắc như thế.
Có thể nói, những bài tạp văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực là
những bài “bút ký cực ngắn” như có lần ông bộc bạch. Với ông, bút ký là một
thể loại vừa để viết về những điều mắt thấy tai nghe, về những sự thực,
nhưng không chỉ đơn giản là biên chép lại mà ông muốn viết cho thật sâu,
thật kỹ càng qua những trải nghiệm mình có được. Tạp văn của ông, nhờ
chứa đựng chất trí tuệ uyên bác và một giọng văn tài hoa đã chuyển tải đến
người đọc những bài học nhân sinh sâu sắc, những chiêm nghiệm về cuộc đời
qua những câu chuyện ngụ ý thâm thúy. Đó là những bài viết đã góp phần
làm nên phong cách của tờ Thanh niên có uy tín trong lòng bạn đọc.
3.3 Cái nhìn sắc lẻm và sức mạnh biện giải trong tạp văn Nhân trường hợp
chị thỏ bông của Phan Thị Vàng Anh
Không chỉ được biết đến như một cây bút truyện ngắn đặc sắc, với các
tập Khi người ta trẻ (1993) và Hội chợ (1995), Phan Thị Vàng Anh còn là tác
giả gây được tiếng vang ở nhiều lĩnh vực khác như thơ (Gửi VB, 2006), tạp
văn (Nhân trường hợp chị thỏ bông), và thậm chí còn “lấn sân” sang cả lĩnh
vực phim tài liệu (với bộ phim Trong phường Thành Công, có làng Thành
Công).
Nhân trường hợp chị thỏ bông là cuốn tạp văn nhỏ tập hợp 34 bài viết
chọn lọc trong số những bài viết của Phan Thị Vàng Anh, dưới bút danh
Thảo Hảo, trong khoảng thời gian tác giả phụ trách mục Tôi nghe đọc thấy
xem trên báo Thể thao - Văn hóa (từ năm 2002 đến 2004), do nhà xuất bản
Hội nhà văn xuất bản vào năm 2004. Và dù chỉ là tập hợp một số bài viết đã
đăng trên báo trước đó, song Nhân trường hợp chị thỏ bông ra đời vẫn thu
hút được sự chú ý của bạn đọc và trở thành cuốn sách rất “đắt hàng” lúc bấy
giờ.
Cũng như trong truyện ngắn, tạp văn của Phan Thị Vàng Anh luôn thể
hiện một cái nhìn sắc sảo, mới lạ, với giọng văn ngắn gọn, súc tích mà mạnh
mẽ, thâm thúy. Lê Thiếu Nhơn, nhà thơ, đồng thời cũng là người viết nhiều
tạp văn đã từng nhận xét về Nhân trường hợp chị thỏ bông của Phan Thị
Vàng Anh như sau: “Đến hôm nay tôi vẫn thấy tiếc là lĩnh vực báo chí - xuất
bản nước ta chưa có một giải thưởng nào cho thể loại tạp văn, để trao tặng
“Nhân trường hợp chị Thỏ Bông”. Tôi phục Phan Thị Vàng Anh viết tạp văn
rất khéo, biết cách đưa đẩy tình huống và biết chọn văn cảnh thích hợp để
tung ra những bình luận xác đáng” [116].
Khác với các tác giả tạp văn khác, tạp văn Phan Thị Vàng Anh không có
những bài nhớ cảnh cũ người xưa, những tâm tình lan man, hay những ưu tư
nặng trĩu chất trữ tình. Đúng như tên gọi chuyên mục mình phụ trách, 34 bài
viết của Phan Thị Vàng Anh là 34 cách quan sát, 34 câu chuyện nhỏ về
những vấn đề thời sự đang diễn ra trong cuộc sống quanh mình, nhưng lại ẩn
chứa một sức nặng ghê gớm. Và theo chúng tôi, điểm thành công lớn nhất
của Nhân trường hợp chị thỏ bông nằm ở sức mạnh biện giải vấn đề một cách
sắc bén của tác giả. Sức mạnh biện giải này được thể hiện qua hai yếu tố: thứ
nhất là con mắt quan sát tinh tường, khả năng lật lại vấn đề, thứ hai là khả
năng liên tưởng và dẫn dắt vấn đề của tác giả. Tất cả đã tạo nên sự logic
thuyết phục cho các bài viết. Mạch ngầm của những bài viết ấy thường cho
người đọc cảm giác như người viết đang chơi trò tung hứng, đưa đẩy câu chữ,
với một nụ cười hóm hỉnh luôn thấp thoáng đằng sau trang giấy.
Là một thể loại nằm giữa văn học vào báo chí, tạp văn nói chung và
Nhân trường hợp chị thỏ bông của Phan Thị Vàng Anh nói riêng đã góp phần
lia ống kính quan sát của mình tới những ngõ ngách, những mặt trái đang tồn
tại trong xã hội, mà nhiều khi những người bình thường chúng ta, với tâm lý
“sống chung với lũ”, đã cố tình lờ đi và buông xuôi. Trong hầu hết các câu
chuyện, Phan Thị Vàng Anh luôn cố soi rọi vấn đề từ nhiều góc độ, mà mục
đích sau nhất là đi đến tận cùng bản chất sự việc.
Trong bài viết “Tôi cũng muốn ăn cắp”, sau khi kể lại chuyện một nhân
viên thư viện tuồn sách quý bán ra cho các hiệu sách cũ, tác giả kết luận rằng:
“tôi thấy thế… cũng được”. Có lẽ đọc đến đây, ai cũng cảm thấy bất ngờ với
tuyên bố ấy, nhưng ngay lập tức vấn đề được tác giả lật qua: “ăn cắp đành
rằng là xấu, tôi biết chứ”, rồi lật lại: “Nhưng dẹp cái chuyện anh nhân viên bỏ
tiền bán sách vào túi riêng kia qua một bên, thì cái hành động của anh này tôi
lại nghĩ có thể là đáng khích lệ, nếu chỉ xét trên phương diện chuyển một
vật từ-vô-dụng-sang-hữu-dụng”. Là bởi vì theo tác giả, khi sách được sống
trong môi trường mới là các hiệu sách cũ, chúng sẽ có cơ hội được hít thở khí
trời, được tiếp xúc với nhiều người hơn, và do vậy sẽ giúp ích cho đời hơn;
còn sách để trong thư viện thì chẳng khác nào những mụ “gái già trong nhà
đá”, chẳng ai buồn xớ rớ đến. Không ai xớ rớ đến không phải là do họ không
muốn, mà là vì để cầm được một trong số những quyển sách ấy trên tay,
người đọc sẽ phải đi qua ba cửa ải vô cùng khó khăn. Ba cửa ải ấy được Phan
Thị Vàng Anh hình tượng hóa rất thú vị thế này: “Hệt như những truyện thần
thoại luôn luôn có ba cửa ải ngăn hiệp sĩ đi tìm công chúa, gần như thư viện
nào cũng có sự bất hợp lý của nội quy là con rồng phun lửa thứ nhất, thủ thư
khó tính là bầy rồng khạc lửa thứ hai, sự lề mề của thủ thư khi đi tìm sách là
cú quật đuôi của con rồng thứ ba” [108]. Từ một câu chuyện mà ai cũng biết
mười mươi là tay nhân viên kia đã sai, đã phạm pháp, Phan Thị Vàng Anh lại
lựa chọn một cách nhìn mới để chỉ ra những bất cập, những tồn tại cần phải
thay đổi trong cách làm việc của hầu hết các thư viện. Với cách nhìn ấy, quả
thực tác giả đã khiến người đọc phải thốt lên thán phục.
Rồi đến bài viết “Giao trứng cho ác” hay “Sự nan giải của Tí”, “Cuối cùng là
lè lưỡi”, thoạt tiên, khi đọc qua những cái tựa, người đọc có thể không mấy
hứng thú, bởi tưởng rằng đó là chuyện con trẻ, nhưng ẩn sâu phía sau đó lại
là những vấn đề nhức nhối của cả hệ thống giáo dục nước nhà.
Trong “Giao trứng cho ác”, từ thông tin trên báo Tuổi trẻ cho biết Sở Giáo
dục Đào tạo Cần Thơ ngày 21/05/2002 đã ra đề thi tốt nghiệp Tiểu học, trong
đó có một câu yêu cầu học sinh tìm từ trái nghĩa với từ “bà ngoại”. Từ câu
chuyện “lẩn thẩn” ấy, Phan Thị Vàng Anh đã có những phân tích rất sát sao,
để cuối cùng chỉ ra một thực tế vô cùng phũ phàng rằng:
Cứ tưởng tượng chừng đó con người, hàng ngày sẽ là người đưa con cái
chúng ta vào khu vườn tri thức mênh mông và mới lạ, một hôm có thể tụ tập
lại (theo lệnh triệu tập), để bàn bạc một cách nghiêm túc, xem từ trái nghĩa
với bà ngoại là gì, mà kinh. Trong số những người dự cuộc họp như vậy, có
mấy người coi chuyện đó là điên rồ, là ngớ ngẩn? Để đến nỗi sau cả một
cuộc họp như thế, cái đề thi ấy vẫn giữ nguyên. Và hôm sau, thí sinh tiểu học
vào phòng, ngơ ngác khi lần đầu trong đời biết được (bằng văn bản) là bà
ngoại cũng có đối thủ [108].
Còn sau khi đọc bài báo đưa tin về việc một cô giáo bắt học trò liếm ghế của
mình, hầu hết mọi người đều lên án gay gắt hành vi của cô giáo nọ, còn Phan
Thị Vàng Anh trái lại: “Phần tôi, đọc xong, thấy giận cái “con” cô giáo kia 1,
thì giận đám học trò kia 47 (bởi có 47 trò mà !)”. Cái nhìn của tác giả lúc này
hướng vào 47 cô cậu học trò lớp 7, và từ đó, đi sâu vào vấn đề giáo dục và
xây dựng lòng tự trọng, lòng kiêu hãnh về những giá trị của bản thân cho trẻ.
Bởi theo tác giả: “cái nỗi xấu hổ có con mất dạy đánh thầy, làm sao bằng nỗi
nhục có con ngoan ngoãn liếm ghế cô!”. Vấn đề không chỉ được xem xét
trong trường hợp duy nhất ấy, mà còn được tác giả đi vào phân tích rất sâu
sắc qua cả một quá trình giáo dục của trẻ từ lúc nhỏ cho đến khi trưởng
thành. Và theo thời gian, lòng tự trọng của trẻ đã dần bị mai một - mà nguyên
nhân xuất phát từ chính sự giáo dục trong nhà trường đối với trẻ. “Rồi lòng
kiêu hãnh ấy mất dần. Chẳng ai khuyến khích nữa. Thế rồi một ngày kia, cái
đứa trẻ cách đây mới có bảy năm, bướng bỉnh nhưng đầy tự trọng khi bước
vào lớp 1, qua bao nhiêu lửa luyện của một lối giáo dục, đã sẵn sàng cúi đầu
liếm cái ghế sạch như lau” (Cuối cùng là lè lưỡi) [108].
Đặc biệt là trong “Nếu tao là nhà nước”, câu chuyện được tác giả xây dựng
hết sức thú vị. Dưới hình thức là một bức thư gửi cho người bạn, Phan Thị
Vàng Anh đã đặt ra một trường hợp giả định, rằng nếu mình là… nhà nước,
thì mình sẽ làm những gì để phát triển, thu hút khách du lịch tới Cúc Phương
mà vẫn bảo vệ được khu rừng quốc gia này. Từ thực tế quan sát, tác giả đã
đưa ra biết bao ý tưởng khả thi. Và nếu câu chuyện kết thúc ở đấy, thì bản
thân “Nếu tao là nhà nước” cũng đã có đủ sức nặng để cho thấy một thực tế
đáng buồn cho cách người ta quản lý và khai thác tiềm năng rừng Cúc
Phương rồi. Nhưng không, tác giả đã đẩy tiếp một cú đấm đầy uy lực khác,
bằng bức thư trả lời của người bạn nọ, cũng với ý tưởng nếu người bạn ấy là
nhà nước. Và cái kết thực sự của câu chuyện đã diễn ra bất ngờ như thế này:
Nếu tao là nhà nước, tao cho mày đấu thầu ngay cái khu dịch vụ trong
rừng Cúc Phương mà mày nói.
Nhưng xác suất xảy ra việc đó rất thấp, bởi vì, nếu tao là nhà nước, thì
giờ tao đã không trả lời thư cho mày. Hoặc là tao không đọc thư mày, hoặc
là cấp dưới của tao đã đọc trước và vứt đi.
Như vậy, không biết là may hay rủi cho mày, là tao chưa thành nhà
nước [108].
Sau biết bao viễn cảnh tốt đẹp được hình thành, cái kết về thực tế khi được
làm “nhà nước” ấy chẳng khác nào một gáo nước lạnh làm trôi tuột đi những
ý tưởng hay ho kia. Câu chuyện xảy ra như một màn kịch, một câu chuyện
tếu táo, nó vừa khiến người đọc bật cười, nhưng lại thấy ngậm ngùi và có
phần cay đắng.