Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tuân thủ điều trị ARV và các yếu tố ảnh hưởng trên đối tượng AIDS tiêm chích ma túy pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.05 KB, 8 trang )

50 Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tuân thủ điều trò ARV và các yếu tố
ảnh hưởng trên đối tượng AIDS
tiêm chích ma túy
Hồ Thò Hiền(*), Hoàng Văn Thuyết (**)
Đặt vấn đề: Dòch HIV ở Việt Nam hiện vẫn đang trong giai đoạn tập trung trên nhóm nguy cơ cao,
trong đó nhóm tiêm chích ma túy (TCMT) có nguy cơ cao nhất. Thực trạng tuân thủ điều trò (TTĐT)
của bệnh nhân AIDS có TCMT đặc biệt là ở vùng sâu vùng xa còn thấp. Nghiên cứu được thực hiện
tại bệnh viện đa khoa huyện Quang Bình - Hà Giang. Mục tiêu 1/ Mô tả thực trạng TTĐT ARV và 2/
Xác đònh các yếu tố ảnh hưởng đến TTĐT của bệnh nhân AIDS có TCMT đang điều trò tại khoa truyền
nhiễm, bệnh viện đa khoa huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang năm 2011. Kết quả: Bệnh nhân có TCMT
thực hiện TTĐT kém hơn so với bệnh nhân không TCMT. Tỷ lệ tái khám đúng hẹn của bệnh nhân
TCMT cao hơn 20% so với bệnh nhân không TCMT. Một số hành vi không TTĐT như tự ý ngừng
thuốc khi khỏe, nhai thuốc, uống thuốc muộn, quên, không tái khám đúng hẹn được báo cáo trong
nghiên cứu này. Các yếu tố cản trở TTĐT trong nghiên cứu là phụ thuộc ma túy, chi phí đi lại tại
vùng sâu vùng xa còn khó khăn, quan niệm sai về sử dụng ARV khi TCMT. Gia đình và thầy thuốc
đóng vai trò quan trọng trong hỗ trợ bệnh nhân TTĐT. Kết luận: Cần nhanh chóng thực hiện tốt hơn
nữa trong việc tư vấn, hỗ trợ các bệnh nhân TCMT thực hiện TTĐT ARV, tăng cường tư vấn và tập
huấn cho người nhà về TTĐT.
Từ khóa: Tuân thủ điều trò, ARV, yếu tố ảnh hưởng, tiêm chích ma túy
ARV adherence and influencing factors
among patients who are injecting drugs
Ho Thi Hien(*), Hoang Van Thuyet(**)
Background: The HIV epidemic in Vietnam is at a concentrated stage, mainly driven by high risk
groups, of which injection drug users (IDUs) are the most at risk group. The ARV adherence among
IDU patients remains low, especially in remote areas. This study was conducted in Quang Binh
general district hospital, Ha Giang provinces. Objectives: 1/ Describe the current situation of ARV
treatment and 2/ Identify some influencing factors of ARV adherence among AIDS patients who are
IDUs in the department of infectious diseases in the district hospital in 2011. Results: ARV adherence
among IDU patients was worse than those who were non-IDUs. The percentage of on-time


appointments among IDU patients was 20 percent higher than those were non-IDUs. Others practices
that influenced adherence included: stopping medications when feeling healthy, not using
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25) 51
1. Đặt vấn đề
Tại Việt Nam, dòch HIV/AIDS vẫn đang tập
trung ở đối tượng nguy cơ cao, trong đó đối tượng
TCMT chiếm tỷ lệ cao nhất [3]. Điều trò ARV cho
bệnh nhân AIDS đã góp phần cải thiện rõ rệt tỷ lệ
mắc nhiễm trùng cơ hội, gia tăng chất lượng cuộc
sống và quan trọng hơn cả là kéo dài sự sống, giảm
nguy cơ tử vong cho người bệnh.
Số lượng bệnh nhân AIDS được điều trò ARV
trong những năm qua đã tăng lên đáng kể, từ 50
trường hợp năm 2003 đến năm 2009 đã lên đến
37.995 trường hợp. Tính đến 2009, Việt Nam đã
thành lập 288 phòng khám điều trò ARV [9]. Tuy
nhiên, bằng chứng gần đây cho thấy hiện tượng
kháng thuốc tăng lên [2].
Sự tuân thủ trong điều trò ARV của người bệnh
là yếu tố quyết đònh sự thành công. TTĐT ARV
nghóa là sử dụng thuốc đúng liều đúng thời gian,
đúng cách hướng dẫn của thầy thuốc. Việc uống
đúng thời gian, đúng cách, đủ số thuốc qui đònh
(trên 95%) là rất cần thiết để đạt được liều ức chế
vi rút tối đa, đạt hiệu quả điều trò cao [8][1]. TTĐT
là nguyên tắc căn bản bảo đảm hiệu quả điều trò,
kéo dài tuổi thọ bệnh nhân, nâng cao chất lượng
cuộc sống và đặc biệt là tránh kháng thuốc. TTĐT
còn ảnh hưởng đến nhiều yếu tố quan trọng khác

như chuyển hóa thuốc, đáp ứng miễn dòch, nhiễm
trùng cơ hội. Ngược lại, không TTĐT có thể gây
ra các triệu chứng về lâm sàng và xét nghiệm.
Trong bối cảnh đại dòch HIV tập trung trên đối
tượng TCMT, và TTĐT ARV trên đối tượng này
thường thấp.
Cho đến nay, không có phương pháp chuẩn mực
trong đánh giá TTĐT. Để đánh giá đúng TTĐT
ARV, chúng ta phải tiến hành quan sát trực tiếp
bệnh nhân uống thuốc. Tuy nhiên, phương pháp này
rất khó thực hiện vì hầu hết bệnh nhân điều trò ARV
ngoại trú, bắt buộc phải điều trò suốt đời, và thông
thường bệnh nhân uống thuốc 2 lần trong ngày. Vì
vậy, các biện pháp như theo dõi sổ ghi chép sử dụng
thuốc, tự báo cáo của bệnh nhân… được coi là biện
pháp khả thi và phù hợp đánh giá TTĐT.
Hà Giang là một tỉnh miền núi thuộc cực Bắc
của Việt Nam, có tiềm năng về khoáng sản và nhiều
lâm, thổ sản, có những điều kiện thuận lợi phát triển
kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển
đó là việc nảy sinh các tệ nạn như TCMT, mại dâm,
dẫn đến tăng tỷ lệ lây nhiễm HIV. Tính đến hết
2010, lũy tích số người nhiễm HIV được phát hiện
tại Hà Giang là 1.262 người. Ước tính số người
nhiễm HIV thực tế trong cộng đồng còn lớn hơn rất
nhiều. Tại Hà Giang, tính đến nay luỹ tích số bệnh
nhân AIDS được sử dụng thuốc ARV là 533 người.
Các bệnh nhân điều trò ARV được tư vấn, theo dõi
medications as directed, and forgetting to take medications. Drug dependence was the key barrier to
adherence. Transportation and related fees were other barriers for participants. Some wrong beliefs

about taking ARV drugs were reported among IDU participants. Support on ARV adherence for
patients from family and health staff is important. Recommendations: Counseling and support for
ARV adherence for IDUs patients and their family members are urgently needed.
Key words: adherence, ARV, influencing factors, injecting drug users
Tác giả:
(*) Ts. Hồ Thò Hiền, Trường Đại học Y tế Công cộng
(**) CN. Hoàng Văn Thuyết, Trung tâm Y tế Quang Bình, tỉnh Hà Giang
52 Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
và quản lý tại 11 điểm điều trò (chủ yếu là tại các
phòng khám bệnh viện đa khoa tỉnh, huyện) [5].
Một trong số đó là khoa truyền nhiễm thuộc bệnh
viện đa khoa huyện Quang Bình, tại đây hoạt động
điều trò đã diễn ra từ năm 2006, và hiện tại đang
điều trò 27 bệnh nhân, trong đó có 15 bệnh nhân
tiêm chích ma túy.
Nghiên cứu "Thực trạng và các yếu tố ảnh
hưởng đến việc tuân thủ điều trò ARV cuả bệnh
nhân AIDS có tiêm chích ma túy tại bệnh viện đa
khoa huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang năm 2011"
được thực hiện để từ đó đưa ra những đề xuất phù
hợp nhằm tăng cường TTĐT của đối tượng này trên
đòa bàn huyện. Hai mục tiêu của nghiên cứu là:
1. Mô tả thực trạng tuân thủ điều trò ARV của
bệnh nhân AIDS có tiêm chích ma túy đang điều trò
tại khoa truyền nhiễm, bệnh viện đa khoa huyện
Quang Bình, tỉnh Hà Giang năm 2011.
2. Xác đònh một số yếu tố ảnh hưởng đến tuân
thủ điều trò ARV của bệnh nhân AIDS có tiêm chích
ma túy đang điều trò tại khoa truyền nhiễm, bệnh

viện đa khoa huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang
năm 2011.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu đònh tính, thu thập số liệu
được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu toàn bộ 15
đối tượng nghiên cứu là bệnh nhân hiện đang điều
trò ARV có TCMT và các bên liên quan bao gồm 2
đồng đẳng viên, 1 bác só điều trò, 1 người phụ trách
khoa truyền nhiễm, 1 cán bộ lãnh đạo huyện (phó
chủ tòch thò trấn), 4 người nhà bệnh nhân có TCMT.
Thông tin về tái khám đúng hẹn được thu thập qua
sổ sách theo dõi điều trò của phòng khám.
Đòa điểm và thời gian nghiên cứu: Tại BVĐK
huyện Quang Bình từ tháng 5 đến tháng 10 năm
2011.
Tất cả các phỏng vấn được ghi âm và gỡ băng
toàn bộ dưới dạng văn bản MS Word. Số liệu được
phân tích theo chủ đề.
3. Kết quả
Hiện nay tỉnh Hà Giang chỉ có Trung tâm phòng
chống AIDS và bệnh viện đa khoa tỉnh là có phòng
khám ngoại trú dành riêng cho bệnh nhân AIDS,
các huyện còn lại thì chưa có phòng khám ngoại trú,
tất cả các bệnh nhân AIDS được điều trò tại khoa
truyền nhiễm của các bệnh viện tuyến huyện. Hiện
nay tổng số bệnh nhân AIDS đang được điều trò
ARV tại khoa truyền nhiễm bệnh viện đa khoa
huyện Quang Bình là 27 bệnh nhân trong đó có 15
bệnh nhân AIDS có TCMT. Tuy nhiên, đến thời
điểm hiện tại, bệnh viện vẫn chưa có trang thiết bò,

máy móc để kiểm tra tải lượng virus.
Kết quả phỏng vấn sâu các đối tượng nghiên
cứu cho thấy tất cả các bệnh nhân AIDS có TCMT
đều là nam giới trong độ tuổi từ 25 đến 45 tuổi. Hầu
hết các đối tường này đều đã có gia đình và không
có nghề nghiệp ổn đònh.
3.1. Thực trạng tuân thủ điều trò ARV
Tuân thủ điều trò ARV là sử dụng thuốc theo
đúng chỉ đònh của bác só, bao gồm đúng liều, đúng
thời gian và đúng cách [5]. Tái khám đúng hẹn là
một chỉ báo đảm bảo bệnh nhân có đủ thuốc sử dụng
và là yếu tố quan trọng đánh giá việc thực hiện các
xét nghiệm theo chỉ đònh của bác só điều trò. Nghiên
cứu này cho thấy nhiều bệnh nhân có TCMT không
sử dụng thuốc theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc.
Uống thuốc không theo chỉ dẫn của thầy thuốc
Uống thuốc không đúng giờ, tự ý ngừng thuốc
khi thấy người "khỏe lên", nhai thuốc "để hấp thu
cho nhanh" là những trường hợp dùng thuốc không
đúng cách được báo cáo trong nghiên cứu này.
Nhiều bệnh nhân cho biết họ thường xuyên quên
uống thuốc. Các bệnh nhân có TCMT thường uống
thuốc muộn hơn so với giờ qui đònh do có thói quen
ngủ dậy muộn.
"Em hay ngủ dậy muộn lắm, em chỉ hay uống
đúng giờ vào buổi tối thôi, còn buổi sáng hầu như là
quên hoặc quá giờ, những lúc như thế khi nhớ ra em
toàn nhai thuốc để hấp thu thuốc cho nhanh, cho có
tác dụng". (Bệnh nhân nam, 45 tuổi)
"Em uống thuốc vào 8 giờ sáng và 8 giờ tối.

Uống thuốc kéo dài và phải đúng giờ nhiều khi nghó
cũng thấy chán, quên uống, uống sai giờ nhiều đấy.
Tỉnh dậy rồi, ngủ thêm tý nữa lúc dậy cũng chẳng
nhớ". (Bệnh nhân nam, 35 tuổi)
Một số bệnh nhân lo lắng khi không uống thuốc,
và lo sợ họ sẽ bò kháng thuốc. Mặc dù vậy, việc
uống thuốc không được quan tâm thực hiện, đặc
biệt là khi họ "cảm thấy khỏe".
"Nhưng mà em cũng lo thấy bảo là không uống
đều kháng thuốc uống thuốc không có tác dụng phải
uống thuốc khác nhiều lúc thấy đỡ là dừng không
uống nữa, khi nào thấy mệt thì lại uống". (Bệnh nhân
nam, 28 tuổi)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25) 53
Có bệnh nhân do quá trình điều trò kéo dài và
vẫn dùng ma tuý nên khi thấy mình khỏe họ ngừng
uống thuốc hoặc giảm uống thuốc. Trạng thái phụ
thuộc ma túy ảnh hưởng lớn đến TTĐT của bệnh
nhân.
"Uống thuốc thì chẳng khó khăn gì nếu em không
bò nghiện ma túy. Khi nghiện mình phải đi kiếm
thuốc để chích nên nhiều khi cũng quên thuốc ARV.
Với lại uống thuốc dài quá nên nhiều khi nghó cũng
chán, thấy khỏe lên rồi thì giảm uống đi thôi" (Bệnh
nhân nam, 33 tuổi)
"Có lúc thấy người khỏe lên tôi lại không uống
nữa, sau đó thấy người mệt thì lại uống tiếp". (Bệnh
nhân nam, 34 tuổi)
3.2. Tái khám đúng hẹn

Tại đòa bàn nghiên cứu, các bệnh nhân được
cấp thuốc ARV vào ngày 25 hàng tháng. Bệnh nhân
AIDS đang điều trò ARV thường được đònh kỳ tái
khám sau 3 tháng điều trò, bao gồm kiểm tra các
triệu chứng lâm sàng, kiểm tra cân nặng, xét
nghiệm CD4. Việc bệnh nhân tái khám đúng hẹn là
một trong những chỉ báo đánh giá khả năng TTĐT
của bệnh nhân. Tái khám đúng hẹn bảo đảm bệnh
nhân có đủ thuốc uống trong tháng để theo dõi bệnh
nhân và có biện pháp tư vấn, hỗ trợ điều trò hiệu
quả. Tổng số bệnh nhân hiện có tại cơ sở điều trò
đến tái khám đúng hẹn là 24/27 (88,88%). Trong
đó, tỷ lệ bệnh nhân AIDS có TCMT tái khám đúng
hẹn thấp hơn bệnh nhân không TCMT. Cụ thể như
sau:
Số bệnh nhân điều trò ARV không TCMT tái
khám đúng hẹn: 12/12=100%
Số bệnh nhân AIDS có TCMT tái khám đúng
hẹn: 12/15= 80% hầu như chỉ chiếm 2/3 tổng số đối
tượng có TCMT đang điều trò ARV.
Nhìn chung, bệnh nhân AIDS không TCMT
thường đến lấy thuốc đúng hẹn và đầy đủ, còn số
bệnh nhân AIDS có TCMT đến đúng hẹn chỉ chiếm
80% (12/15) số lượng bệnh nhân có TCMT.
Việc tái khám không đúng hẹn đã được các cán
bộ y tế, bác só điều trò phản ảnh trong nghiên cứu.
Việc cấp phát thuốc ARV được diễn ra vào ngày 25
hàng tháng, tuy nhiên nếu bệnh nhân không đến
được, thầy thuốc thường gọi điện nhắc nhở. Thầy
thuốc có thể gặp khó khăn trong hỗ trợ bệnh nhân

(có và không TCMT) trong TTĐT do không thể liên
lạc được.
"Họ hầu hết là tái khám không đầy đủ, mỗi tháng
kiểu gì cũng vắng 2,3 người, có người sau vài hôm
mới đến, khi được hỏi thì họ trả lời là quên ngày, bận
công việc Có người thì cả tháng không thấy đến,
gọi điện nhắc nhở thì không liên lạc được". (Bác só
phụ trách, 38 tuổi)
Điều này cho thấy trên thực tế, điều trò ARV cho
bệnh nhân có TCMT là khó khăn. Điều này có thể
lý giải là do bệnh nhân phải dùng thuốc liên tục suốt
đời, trong khi người bệnh lại phụ thuộc vào ma tuý.
3.3. Yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ điều trò
ARV
3.3.1. Từ phía bệnh nhân
Đối với người TCMT, việc sử dụng ma túy luôn
là ưu tiên hàng đầu. Trong nghiên cứu, nhiều đối
tượng cho biết họ không thực sự quan tâm đến việc
phải uống thuốc điều trò ARV. Trạng thái nghiện đã
ảnh hưởng đến việc uống thuốc: quên thuốc, uống
không đúng giờ. Như bác só điều trò giải thích, điều
này là do giờ giấc sinh hoạt của bệnh nhân bò ảnh
hưởng nhiều bởi việc sử dụng ma túy (ví dụ, bệnh
nhân có TCMT hay dậy muộn). Nhiễm trùng cơ hội
thường hay xảy ra hơn ở đối tượng này. Đối với
những người đang được điều trò ARV mà không sử
dụng ma túy, TTĐT được thực hiện tốt hơn.
"Điều trò ARV mà vẫn TCMT thì khó có thể tuân
thủ điều trò tốt được vì khi mà nghiện thì lúc nào em
cũng nghó đến ma tuý, nhiều khi mang thuốc đi theo

uống nhưng khi lên cơn nghiện thì chỉ nhớ đi mua
thuốc để chích, sau khi chơi xong thì quên luôn uống
thuốc". (Bệnh nhân nam, 34 tuổi)
"Tuân thủ điều trò bệnh nhân không có TCMT
thì thông thường tốt hơn. Trong nhóm sử dụng ma
túy thì có một số trường hợp họ tỏ ra bất cần. Chế
độ sinh hoạt của người ta liên quan đến ma túy cho
nên là nhiều khi có những người họ quên uống
thuốc, sau khi tỉnh, khỏi cơn phê thì người ta mới
uống, họ uống thuốc bò chậm giờ. Với những người
không sử dụng ma túy người ta uống rất là tốt. Anh
sử dụng ma túy thì đúng giờ uống thuốc thì lại dùng
ma túy có khi anh lại quên, lại phê không uống
thuốc. Cũng đã nhiều bệnh nhân TCMT quên, chậm
uống thuốc, thậm chí có khi họ bỏ uống thuốc. Vì
những đối tượng này thường hay lên cơn nghiện ma
túy dẫn đến uống thuốc ARV không đều, thường
hay quên thuốc bỏ thuốc dễ mắc nhiễm trùng cơ hội,
vì vi rút HIV đánh vào tế bào CD4 mà bỏ thuốc thì
54 Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
vi rút sẽ tấn công vào tế bào CD4,làm giảm tế bào
CD4 dễ dẫn đến tử vong, còn những người bệnh
AIDS không tiêm chích ma tuý họ sẽ nhớ uống
thuốc đều đặn, cuộc sống của họ sẽ kéo dài hơn"
(Bác só phụ trách)
Bệnh nhân điều trò ARV có TCMT nhiều khi ít
quan tâm đến tình trạng bệnh của mình, nên uống
thuốc đúng giờ cũng không được tuân thủ.
"Tối thì hay thức khuya nên buổi sáng thường

dậy rất muộn, tỉnh dậy rồi lại nằm uống ngủ tiếp,
nghó nằm thêm tý tỉnh dậy đã 9, 10 giờ mới uống, tối
thì xem xong thời sự thì uống" (Bệnh nhân nam, 36
tuổi).
"Em uống thuốc sáng 1 lần, tối một lần hình như
là cách nhau 12 tiếng gì đấy không rõ lắm đâu, mỗi
lần em uống 3 loại thuốc. Có hôm bận quá cũng
quên đấy, nhiều khi cũng thấy chán vì ngày nào cũng
phải uống lại phải đúng giờ nữa". (Bệnh nhân nam,
33 tuổi)
Một số bệnh nhân cho rằng, đang "phê" ma túy
thì không được sử dụng bất cứ thuốc gì khác, kể cả
thuốc điều trò ARV. Vì vậy có người nói rằng họ
phải chờ cho phê thuốc xong thì mới dùng thuốc
ARV. Có những người ý thức được là mình phải
uống thuốc, họ có mang thuốc theo nhưng không
sử dụng vì "cả hội muốn được phê lâu hơn trong
khi dùng ma túy, thế là nhất trí không dùng thuốc
ARV nữa".
"Có lúc em đi chơi bạn bè 3, 4 ngày em mới về
thế là cũng quên uống thuốc. Có mang thuốc theo
nhưng trong cuộc vui cả hội nhất trí không uống
ARV. [Thế sao lại không uống em không sợ là mất
tác dụng của thuốc à?] Có chứ cũng hiểu là như thế
nhưng khi mà muốn phê lâu thì không được uống cái
gì khác thậm chí hạn chế cả ăn. Nhiều khi nhìn vợ và
con em em cũng thấy mình quá tồi nhưng lúc men lên
thì chẳng còn biết gì hết, lúc đấy chỉ biết là thỏa mãn
thôi". (Bệnh nhân nam, 34 tuổi)
"Có lúc em đi với bạn bè 5,6 ngày mới về thế là

cũng quên thuốc, có mang ARV theo nhưng cũng
không uống, cũng sợ mất tác dụng của thuốc nhưng
muốn phê lâu nên kệ". (Bệnh nhân nam, 38 tuổi)
Một số đối tượng bò bắt do vi phạm pháp luật
nên không đến lấy thuốc được. Có bệnh nhân nói
rằng họ chỉ uống thuốc một lần trong ngày trong khi
lẽ ra họ phải uống hai lần vì họ muốn gửi phần thuốc
còn lại gửi cho bạn đang điều trò ARV bò bắt.
"Có đứa uống một liều một ngày còn liều kia thì
gửi cho bạn. Có thằng con bạn gái nó bò bắt giam nó
gửi thuốc của nó vào cho. Nó bảo bạn nó điều trò
giống phác đồ của nó". (Bệnh nhân nam, 25 tuổi)
Ảnh hưởng TCMT đến việc TTĐT ARV là rõ
ràng. Hầu như bệnh nhân AIDS có TCMT đều biết
được sự ảnh hưởng của ma túy đến TTĐT ARV.
Bệnh nhân nhận thức được tác hại của sử dụng ma
túy với hiệu quả điều trò.
"Tôi biết là khi đang điều trò ARV mà vẫn tiêm
chích ma tuý thì sẽ làm giảm khả năng hấp thu của
thuốc". (Bệnh nhân nam, 32 tuổi)
"Đang điều trò ARV mà sử dụng ma túy thì sẽ hay
quên uống thuốc, ma túy làm mất tác dụng của thuốc
ARV, nhiễm trùng cơ hội sẽ tăng lên". (Bệnh nhân
nam, 45 tuổi)
Tham gia tư vấn trước điều trò là việc làm bắt
buộc đối với bệnh nhân và người giám hộ của họ.
Tại nghiên cứu này có một số đối tượng chia sẻ rằng
họ có ngồi tham dự tư vấn nhưng nhiều khi không
hiểu nội dung tư vấn. Lý do là họ đang rất mệt mỏi
trong khi thời gian tư vấn lại lâu, dẫn đến đối tượng

thường chỉ nắm được những kiến thức rất chung.
"Em không hiểu đâu, vợ em nghe là chính, vợ em
viết ra vở và mang về nói lại với em. [Thế các bác sỹ
tập huấn nhanh quá à sao em không hiểu?] Hồi đấy
em yếu lắm, đi nghe là để có mặt thôi đến nghe em
ngủ gật là chính với lại ngồi lâu gần hai tiếng làm
sao mà em ngồi được" (Bệnh nhân nam, 34 tuổi).
Hà Giang là một tỉnh miền núi, giao thông đi lại
khó khăn, khoảng cách từ nhà đến cơ sở điều trò của
một số bệnh nhân khá xa, có người để ra bệnh viện
lấy thuốc phải đi mất gần nửa ngày đường, nhiều
bệnh nhân gặp khó khăn khi lấy thuốc do không có
chi phí đi lại. Phương tiện đi lại, giao thông cũng có
thể ảnh hưởng đến việc lấy thuốc và tái khám của
bệnh nhân. Như một bác só đã nói:
"Nói chung với bệnh nhân AIDS có TCMT việc
tuân thủ là rất khó khăn, những bệnh nhân nhà ở gần
bệnh viện hoặc được người nhà quan tâm thì rất
đúng hẹn, còn những bệnh nhân không đúng hẹn là
vì nhà ở xa trung tâm, đường xá đi lại khó khăn, và
đặc biệt ở những bệnh nhân này mối quan tâm lớn
nhất của họ là ma túy, tuân thủ điều trò chỉ được họ
để ý đến khi họ tỉnh táo mà thôi "(Bác só phụ trách,
38 tuổi).
"Từ nhà em ra bệnh viện phải đi mất khoảng 30
km, đi về phải mất một ngày tiền đi lại tốn kém lắm,
nhiều khi không có tiền để đổ xăng nên có tháng em
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25) 55
không đi lấy thuốc đúng ngày được". (Bệnh nhân

nam, 45 tuổi)
Chán nản và quên uống thuốc do quá trình điều
trò quá lâu dài là tình trạng phổ biến của các bệnh
nhân đang tham gia điều trò ARV ở phòng khám
ngoại trú này. Hầu hết những người tham gia nghiên
cứu tâm sự về các nguyên nhân quên uống thuốc
của họ:
"Em uống thuốc vào 8 giờ sáng và 8 giờ tối.
Uống thuốc kéo dài và phải đúng giờ nhiều khi nghó
cũng thấy chán, quên uống, uống sai giờ nhiều đấy.
Tỉnh dậy rồi, ngủ thêm tý nữa lúc dậy cũng chẳng
nhớ". (Bệnh nhân nam, 34 tuổi)
"Em uống thuốc vào 7 giờ sáng và 7 giờ tối.
Uống thuốc kéo dài quá, đúng giờ, lại phải uống tới
3 loại thuốc nhiều khi nghó cũng thấy chán, cũng
muốn chuyển phác đồ khác. Nhiều khi sáng dậy bạn
rủ đi chơi em nhai xong nuốt luôn". (Bệnh nhân
nam, 34 tuổi)
Bệnh nhân điều trò ARV có TCMT thường bỏ
uống thuốc, mức độ TTĐT kém nên kết quả điều trò
không tốt dẫn đến kháng thuốc và xuất hiện nhiễm
trùng cơ hội quay trở lại, như một đồng đẳng viên
đã nói:
"Em thấy cũng có nhiều trường hợp mà, anh ấy
cũng sử dụng ma tuý đấy, đã uống ARV nhiều tháng
rồi, nhưng mà anh ấy cũng thường xuyên bỏ thuốc,
bọn em đang nghi ngờ là anh ấy bò kháng thuốc,
kháng phác đồ điều trò, thời gian này em thấy anh ấy
nhiễm trùng liên miên nên là đang sợ anh ấy kháng
thuốc" (Nam đồng đẳng, 38 tuổi)

3.3.2. Gia đình bệnh nhân
Hỗ trợ của gia đình trong nhắc nhở và hỗ trợ
bệnh nhân uống thuốc là một yếu tố tích cực đảm
bảo bệnh nhân TTĐT. Dù gặp phải vất vả, nhưng
nhiều gia đình vẫn luôn hỗ trợ chăm sóc, giúp đỡ,
nhắc nhở bệnh nhân uống thuốc.
"Là con của mình rồi, vợ nó thì đã chết, sống phụ
thuộc vào bố mẹ thôi. Không có việc làm, nó thường
hay cùng bạn đi chơi về khuya nên việc nhắc nhở nó
uống thuốc rất khó, chỉ nhắc mang thuốc theo nhưng
không biết ra ngoài có nhớ uống không, không theo
dõi được. Đôi khi ở nhà nó thường hay ốm, mệt mỏi,
tiêu chảy, nhớ uống thuốc nhưng không tự lấy thuốc
uống được tôi lại phải lấy cho nó uống. (mẹ bệnh
nhân, 65 tuổi)
"Tôi vẫn luôn bảo ban anh ấy uống thuốc đúng
giờ theo chỉ đònh của bác só, hạn chế sử dụng rượu
bia, thuốc lá,nghỉ ngơi ăn uống cho đúng giờ giấc,
khi đến kì khám động viên anh ấy đi khám đúng hẹn,
có lúc tôi đưa đi,có lúc anh ấy đi một mình Vì gia
đình ở nông thôn nên gặp rất nhiều khó khăn về kinh
tế, rất vất vả" (Vợ bệnh nhân, 46 tuổi).
"Tôi nhắc cháu uống thuốc 2 lần vào lúc 8 giờ
sáng và 8 giờ tối theo chỉ dẫn của bác sỹ, quản lý
cháu ở nhà, hạn chế sử dụng rượu bia và những chất
kích thích, đưa con tôi đi khám đúng hẹn 3 tháng 1
lần". (Mẹ bệnh nhân, 55 tuổi)
Sự hỗ trợ của gia đình về tinh thần (động viên,
không kỳ thò), hỗ trợ về tài chính, và nhắc nhở, tư
vấn bệnh nhân trong TTĐT là yếu tố quan trọng

trong việc động viên bệnh nhân, giúp bệnh nhân tự
giác trong TTĐT. Sự lạc quan tin tưởng vào điều trò
của con em mình từ phía gia đình cũng là một động
lực cho việc TTĐT của người bệnh.
"Đi trại 1 thời gian rồi được về, em cũng có
quyết tâm cai thuốc đấy, nhưng về gặp bạn gặp bè,
thoạt đầu em chỉ đi chơi về muộn bố em nói ra nói
vào chán em đi ra ngoài ở. Vì sao? Có mỗi một nhà
vệ sinh em đi ra là ông ý vào rửa ráy, nói ra nói vào
quần áo xô chậu bắt dùng riêng bức xúc quá nên ra
ngoài ở, một khi đã bước chân ra ngoài tâm trạng
chán nản gặp anh em bạn bè rủ rê thế là nghiện lại".
(Bệnh nhân nam, 28 tuổi)
Vì vậy, tư vấn và tập huấn cho người nhà về
TTĐT và phương pháp hỗ trợ TTĐT cho con em họ
là rất cần thiết.
"Từ khi được tập huấn em cũng hiểu được nhiều
về HIV, về điều trò ARV, mình phải giúp đỡ nó để nó
uống thuốc đúng giờ, đủ thuốc, cho nó ăn uống đầy đủ
nâng cao thể trạng, động viên nó để nó tự giác uống
thuốc và từ bỏ ma túy, đến một ngày nào đó có thuốc
điều trò HIV như là thuốc lao ngày trước không có bây
giờ đã có rồi, từ khi uống thuốc ARV nó chẳng bỏ uống
thuốc buổi nào đâu". (Mẹ bệnh nhân, 60 tuổi).
"Đấy là mình phải tư vấn cho người nhà, em nói
thật chứ ở những…những nhà người ta còn chẳng
muốn cứu người ta còn muốn cho chết luôn ý, nên là
thực ra là nó có nhiều loại lắm, nó cũng khó, đấy,
người nhà nào người ta xót con ý thì người ta còn
nước còn tát thế thì người ta còn tận tình chứ nhiều

nhà người ta còn bỏ bê luôn, muốn chết thì chết kệ,
mình có đến tư vấn người ta cũng chẳng tiếp, ví dụ
thế nên là nhiều khi em thấy khó lắm". (Bệnh nhân
nam, 28 tuổi)
56 Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
3.3.3. Cơ sở điều trò
Hiện nay, các bệnh truyền nhiễm ở khoa ngày
càng gia tăng nên số lượng bệnh nhân thường hay
quá tải. Thêm vào đó, bác sỹ trong khoa cũng phải
kiêm nhiệm nhiều công việc nên không có thời gian
tư vấn cũng như quan tâm nhiều đến các bệnh nhân
AIDS đang điều trò thuốc ARV nói chung và bệnh
nhân AIDS có tiêm chích ma túy nói riêng.
"Khoa tôi chỉ có 2 bác sỹ và 3 điều dưỡng thôi,
làm kiêm nhiệm nên rất vất vả, vì thế khi bệnh nhân
AIDS đến lấy thuốc hàng tháng chúng tôi chỉ phát
thuốc là chính còn thời gian để tư vấn cho họ là rất
ít". (Bác só phụ trách)
4. Bàn luận
Nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố cá nhân và
các yếu tố bên ngoài như gia đình, cơ sở y tế ảnh
hưởng đến TTĐT ARV của bệnh nhân có TCMT.
Hầu hết những người TCMT trong nghiên cứu này
thường thực hiện TTĐT ARV kém. Các yếu tố cá
nhân có ảnh hưởng lớn đến TTĐT ARV trong
nghiên cứu, đặc biệt là tình trạng phụ thuộc ma
túy. Ngoài ra, không uống thuốc ARV khi đang sử
dụng ma túy, thấy khỏe lên thì tự ý ngừng thuốc,
nhai thuốc để hấp thu cho nhanh là những hành vi

không TTĐT của bệnh nhân đã được báo cáo. Do
đó cần có tư vấn đúng cho các bệnh nhân TCMT
về việc sử dụng ma túy và ARV để bệnh nhân luôn
dùng ARV đúng cách. Một điểm đáng chú ý là giờ
uống thuốc của nhiều bệnh nhân TCMT vào buổi
sáng thường muộn, vì vậy, các bác só điều trò cần
có giải pháp phù hợp cho nhóm đối tượng này.
Thêm vào đó, tâm lý chán nản do bò kì thò, mệt mỏi
thiếu tập trung, đói thuốc… đã được báo cáo là có
ảnh hưởng đến TTĐT. Kết quả nghiên cứu về các
yếu tố ảnh hưởng đến TTĐT của nghiên cứu này
thống nhất với kết quả của một số nghiên cứu khác
do FHI [7] và Đỗ Mai Hoa [6] tiến hành. Tuy
nhiên, nghiên cứu này chưa chỉ ra được ảnh hưởng
của yếu tố liên quan khác như trầm cảm, sử dụng
đồ uống có cồn. Số lượng bệnh nhân TCMT tại
phòng khám trong nghiên cứu này ít cũng đã ảnh
hưởng đến tính đại diện của kết quả nghiên cứu.
Các thông tin này cần được tìm hiểu sâu thêm trong
các nghiên cứu sau này.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự hỗ trợ, động
viên, nhắc nhở uống thuốc và tái khám đúng hẹn
của gia đình bệnh nhân là yếu tố có tác động mạnh
tới sự TTĐT của bệnh nhân. Bằng chứng là những
bệnh nhân có người hỗ trợ tích cực sẽ có kết quả
điều trò cao hơn so với bệnh nhân không có sự hỗ
trợ tích cực của người nhà, điều này cũng phù hợp
với kết quả nghiên cứu của Trần Thò Xuân Tuyết [4,
6]. Điều này có thể được lý giải như sau điều trò
ARV là quá trình lâu dài đòi hỏi người bệnh phải

tuân thủ rất nghiêm ngặt. Nếu không có sự hỗ trợ
giúp đỡ của người thân thì việc tuân thủ sẽ khó đảm
bảo và điều trò sẽ có nhiều nguy cơ thất bại.
Cuối cùng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Hà Giang là
một huyện miền núi, việc đi lại khó khăn cũng ảnh
hưởng không nhỏ đến việc tái khám đúng hẹn của
bệnh nhân. Do đó, cần có các giải pháp hỗ trợ người
bệnh về phương tiện và chi phí đi lại ở các đòa bàn
này. Đối với những người đang điều trò mà bò bắt
cần giải thích và có biện pháp cung cấp thuốc kòp
thời, tránh tình trạng dùng thuốc không đúng liều,
dẫn đến tăng khả năng kháng thuốc.
Thực trạng TTĐT của bệnh nhân AIDS có
TCMT còn thấp so với bệnh nhân không tiêm chích
ma túy. Tỷ lệ tái khám đúng hẹn của bệnh nhân
tiêm chích ma túy cao hơn 20% (100% và 80%) so
với đối tượng không TCMT. Các yếu tố ảnh hưởng
đến việc không tái khám đúng hẹn là do bệnh nhân
quên, bác sỹ điều trò không thể liên lạc, nhắc nhở
được kòp thời.
Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân tiêm chích ma
túy thường không TTĐT nghiêm ngặt. Do đặc điểm
đối tượng này thường hay thức khuya, dậy muộn
nên hay quên uống thuốc đúng giờ. Hiện tượng cắn
thuốc được báo cáo với một số trường hợp. Ngoài ra,
nhiều bệnh nhân đã tự ý dừng thuốc khi thấy bệnh
đã đỡ.
Yếu tố nghiện chích ma túy là một trong những
yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến TTĐT của bệnh nhân.
Bệnh nhân phụ thuộc nên họ luôn nghó đến ma túy,

nhu cầu sử dụng ma túy của họ sẽ bức thiết hơn điều
trò ARV. Ngoài ra, quan niệm uống thuốc ARV sẽ
ảnh hưởng đến phê ma túy, dẫn đến bệnh nhân
không uống thuốc hoặc quên thuốc. Cuối cùng, việc
đi lại khó khăn cũng là yếu tố cản trở đến việc lấy
thuốc của bệnh nhân. Chúng tôi khuyến nghò:
- Cần xây dựng kế hoạch tuân thủ điều trò, tăng
cường công tác theo dõi, giám sát TTĐT ARV. Cần
tăng cường công tác truyền thông phòng, chống
HIV/AIDS hơn nữa đến các đòa bàn vùng núi, vùng
sâu. Cần có điều trò thay thế Methadone cho bệnh
nhân AIDS có TCMT tại đòa bàn huyện/tỉnh.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 8.2012, Số 25 (25) 57
- Đặc biệt, cần tăng cường công tác tư vấn hỗ
trợ điều trò, tăng cường tư vấn của cán bộ điều trò
trực tiếp cho bệnh nhân về tầm quan trọng của
TTĐT. Cần tăng thời lượng tư vấn và đặc biệt tư vấn
sâu về nội dung TTĐT, tư vấn về sử dụng ma túy và
TTĐT ARV: đặc biệt cần nhần mạnh về tác động
của sử dụng thuốc ARV với sử dụng ma túy, tuân
thủ đúng các nguyên tắc điều trò, đặc biệt là uống
thuốc đúng giờ, đúng cách (không nhai thuốc). Cần
có chính sách hỗ trợ điều trò cho những đối tượng
đang tham gia điều trò nhưng bò bắt.
- Cần tăng cường sự tham gia của người thân,
gia đình bệnh nhân cũng như khuyến khích họ tích
cực tham gia tư vấn hỗ trợ điều trò, giảm kỳ thò với
người bệnh sẽ giúp người bệnh TTĐT tốt hơn. Hỗ
trợ phương tiện hoặc chi phí đi lại cho các bệnh

nhân nghèo là cần thiết. Cần tăng cường tư vấn cho
gia đình bệnh nhân đặc biệt cách hỗ trợ người nhà
TTĐT.
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế (2009). Quyết đònh số 3003/QĐ-BYT ngày
19/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Hướng
dẫn chẩn đoán và điều trò HIV/AIDS.
2. Cục phòng chống HIV/AIDS Việt nam (2009). Báo cáo
kết quả điều trò bằng thuốc kháng retrovirus ARV và thí
điểm thu thập chỉ số cảnh báo sớm HIV kháng thuốc năm
2007.
3. Cục phòng chống HIV/AIDS Việt Nam (2010). Báo cáo
công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2010.
4. Trần Thò Xuân Tuyết (2008). Đánh giá kết quả hoạt động
tư vấn và điều trò ARV cho người nhiễm HIV/AIDS tại Quận
Tây Hồ Hà Nội năm 2008. Luận văn thạc sỹ Y tế Công cộng,
Trường Đại Học Y tế Công cộng Hà Nội.
5. Ủy ban phòng chống HIV/AIDS tỉnh Hà Giang (2010).
Báo cáo công tác phòng chống HIV/AIDS.
Tiếng Anh
6. Hoa D.M (2011). Antiretroviral therapy (ART) adherence
among people living with HIV/AIDS (PLHIV) in the North
of Vietnam: A multi-method approach. Unpublished PhD
thesis, University of Queensland Technology, 2011.
7. Family Health International (2009). Results of the
program evaluation of patients initiating ART in two health
facilities in Ho Chi Minh city, Vietnam. Vietnam: Family
Health International 2009.
8. Laing R and Hodgkin C (2006). Overview of

antiretroviral therapy, adherence and drug resistance:
World Health Organization.
9. WHO, UNAIDS and UNICEF (2010). Towards universal
access: scaling up priority HIV/AISD interventions in the
health sector: Progress report 2010.

×