Tải bản đầy đủ (.pdf) (148 trang)

Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.74 KB, 148 trang )

Mục lục
Tran
g
Mở đầu

5

Chơng 1: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia

6

đình trong luật hình sự Việt Nam

1.1
.

Khái lợc sự hình thành và phát triển những quy định
về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình
trong luật hình sự Việt Nam

6

1.2
.

Những quy định của Bộ luật hình sự 1999 về các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình

29

1.3



Những quy định về các tội xâm phạm chế độ hôn

42

.

nhân và gia đình trong pháp luật hình sự một số nớc
trên thế giới
Chơng 2: Tình hình, nguyên nhân, điều kiện của các

47

tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình

2.1
.

Tình hình các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình từ năm 1997 đến 2004

47

2.2
.

Nguyên nhân và điều kiện của tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình

69


2.3
.

Dự báo tình hình các tội xâm phạm chế độ hôn
nhân và gia đình trong thời gian từ năm 2005 đến
2010

78

Chơng 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả

82

đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế
độ hôn nhân và gia đình ở nớc ta

3.1
.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình

82

3.2
.

Những quan điểm chỉ đạo cần nắm vững nhằm

nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội

85

1


xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam
3.3

Các giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng, chống các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình

87

Kết luận

108

Danh mục tài liêu tham khảo

111

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xà hội, là cái nôi nuôi dỡng con
ngời, là môi trờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân
cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

xà hội chủ nghĩa (XHCN). Gia đình tốt, thì xà hội mới tốt, xÃ
hội tốt thì gia đình càng tốt.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của gia đình trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xà hội, ngay sau khi Cách mạng tháng
Tám thành công, Nhà nớc ta đà thiết lập chế độ hôn nhân gia
đình mới tiến bộ, thay thế cho chế độ hôn nhân gia đình
phong kiến, lạc hậu. Quyết tâm xây dựng chế độ hôn nhân
và gia đình (HN&GĐ) mới của Đảng và Nhà nớc ta đợc thể
hiện rất rõ trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và
Điều 64, Hiến pháp năm 1992 đà ghi nhận:
Gia đình là tế bào của xà hội. Nhà nớc bảo hộ
hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc
tự nguyện, tiến bộ một vợ một chồng, vợ chồng bình
đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành
những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính

2


trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nớc và xà hội
không thừa nhận việc phân biệt đối xử với các con.
Để đảm bảo thực hiện đúng đắn, đầy đủ chế độ
HN&GĐ mới tiến bộ và tuân thủ triệt để Hiến pháp, Bộ luật
hình sự (BLHS) năm 1985, cũng nh BLHS năm 1999 đều đÃ
quy định cụ thể các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, góp phần
ngăn chặn, hạn chế và từng bớc xóa bỏ những tàn tích của chế
độ HN&GĐ phong kiến, lạc hậu.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm có
chiều hớng gia tăng, diễn biến phức tạp; tình trạng suy thoái
về chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong lĩnh vực

HN&GĐ. Đáng chú ý, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ không
có xu hớng gia tăng, nhng tính chất và mức độ ngày càng
nghiêm trọng, gây d luận xấu trong xà hội.
Thực tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm
chế độ và hôn nhân gia đình cho thấy, mặc dù đây là các
tội phạm mà tính chất nguy hiểm cho xà hội không cao, nhng
có ảnh hởng rất lớn đến đời sống gia đình; trên thực tế, các
tội phạm này xảy ra rất nhiều, song việc xử lý bằng các chế
tài hình sự còn rất hạn chế. Thực tiễn áp dụng các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ cũng đà đặt ra nhiều vấn đề vớng
mắc, đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải
quyết để làm sáng tỏ về mặt lý luận nh: khái niệm các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ, ý nghĩa của việc quy định các
tội phạm này trong pháp luật hình sự... Trong khi đó, xung
quanh những vấn đề này, vẫn còn rất nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngợc nhau.

3


Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, "Các tội xâm phạm
chế độ hôn nhân và gia đình - một số khía cạnh pháp
lý hình sự và tội phạm học", mang tính cấp thiết, không
những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ là nhóm tội phạm có
tính nhạy cảm cao, phức tạp, đà đợc một số nhà luật học
trong nớc quan tâm nghiên cứu. ThS. Bùi Anh Dũng đà có công
trình "Tìm hiểu các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ
của công dân, các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia

đình", Nxb Lao động, Hà Nội, 2003; ThS. Trịnh Tiến Việt đÃ
có các công trình: "Một số vấn đề cần lu ý khi áp dụng các
quy định tại chơng các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí khoa học
Pháp lý, Trờng Đại häc LuËt Thµnh phè Hå ChÝ Minh, sè
1/2003, "Téi tõ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dỡng trong
Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội
ngợc đÃi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu,
ngời có công nuôi dỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999",
Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ
biên cuốn sách: Bộ luật hình sù míi cđa níc Céng hßa x· héi
chđ nghÜa ViƯt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001,
trong đó có đề cập chơng XV - Các tội xâm phạm chế độ
hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công
trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và
gia đình và các tội đối với ngời cha thành niên", Nxb Phụ nữ,
Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trơng Thị Hòa có
công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xa và
nay, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2000...

4


Các công trình nói trên đà đề cập đến các khía cạnh
khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, nhng
cha có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có
hệ thống về nhóm tội phạm này dới góc độ pháp lý hình sự
và tội phạm học.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên
cứu của luận văn

Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực
tiễn đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ
HN&GĐ, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm
này.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt đợc mục đích trên, tác giả luận văn đà đặt ra
và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự
đặc trng của các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ; phân tích
các quy định của pháp luật hình sự một số nớc trên thế giới
về loại tội phạm này.
- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và
điều kiện các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, thực tiễn đấu
tranh phòng, chống loại tội phạm này; dự báo tình tội phạm
này trong những năm tới.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.

5


Đối tợng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ dới
góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, thời gian
từ năm 1997 đến năm 2004.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng Nhà nớc và pháp luật, những
thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật
hình sự, tâm lý học, xà hội học...
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết
định của Tòa án về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ, các
báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Phơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phơng
pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc,
kết hợp với các phơng pháp khác nh so sánh, ®iỊu tra x· héi...
5. Nh÷ng ®ãng gãp míi vỊ khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa
học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học,
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về các tội xâm

6


phạm chế độ HN&GĐ. Có thể xem những nội dung sau đây
là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ; những dấu hiệu pháp lý hình sự
đặc trng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện
hành.
- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ trong pháp luật hình sự một số nớc trên

thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình
sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp đợc đề xuất
trong luận văn.
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm
chế độ HN&GĐ ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân
của thực trạng đó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm
nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm
phạm chế độ HN&GĐ.
6. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn
có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ ở nớc ta.
Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong
muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận
về tội phạm học, luật hình sự, cũng nh vào cuộc đấu tranh
phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức
tạp này.

7


Luận văn có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói
chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho
các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện
kiểm sát (VKS), Tòa án.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 110 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3

ch¬ng, 9 mơc.

8


Chơng 1
Các tội Xâm Phạm Chế Độ HÔN NHÂN Và GIA Đình
Trong luật hình sự việt nam
1.1. khái lợc sự hình thành và phát triển những quy định
về các tội Xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật
hình sự Việt Nam

1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lý cho đến trớc
Cách mạng tháng Tám năm 1945
Hôn nhân là một vấn đề hệ trọng đối với con ngời, gia
đình là nền tảng của xà hội. Vì vậy, ngay từ thời phong
kiến, HN&GĐ luôn luôn là lĩnh vực đợc Nhà nớc rất quan tâm
điều chỉnh bằng pháp luật.
Trong Bộ luật thành văn đầu tiên của Nhà nớc ta - Bộ
Hình th, đợc ban hành năm 1042 dới thời Lý Thái Tông, vấn
đề HN&GĐ chiếm giữ một vị trí quan trọng và đợc quy
định trong nhiều điều luật. Nét đặc trng chủ yếu của các
quy định này là quyền uy tập trung trong tay ngời chồng, mà
mọi thành viên có bổn phận phục tùng; ngời chồng đợc phép
bỏ vợ trong trờng hợp ngời vợ phạm một trong các tội "thất
xuất", còn ngời vợ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nếu ruồng bỏ
chồng; con cái không làm tròn đạo hiếu sẽ bị trừng phạt. Trách
nhiệm giáo dục con cái tuân theo đạo lý thuộc về cha mẹ,
nếu lơ là trách nhiệm thì chính cha mẹ cũng bị trừng phạt
[28, tr. 59].

Trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Bộ luật
chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lª, mêi téi

9


ác (thập ác) đà đợc quy định tại Điều 3, trong đó có tới bốn tội
liên quan đến HN&GĐ, đó là các tội:
4. ác nghịch, là đánh và mu giết ông bà, cha
mẹ, bác chú, thím, cô, anh, chị em, ông bà ngoại,
ông bà cha mẹ chồng...
7. Bất hiếu, là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha
mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, nuôi nấng thiếu thốn, có
tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, vui chơi ăn mặc
nh thờng; nghe thấy tang ông bà, cha mẹ mà không
cử ai (tang lễ); nói dối là ông bà, cha mẹ chết.
8. Bất mục, là giết hay đem bán những ngời
trong họ phải để tang 3 tháng trở lên, đánh đập
hoặc tố cáo chồng, cùng những họ hàng từ tiểu công
trở lên...
9. Bất nghĩa, là giết quan bản phủ và các quan
đơng chức tại nhiệm, giết thầy học; nghe thấy tin
chồng chết mà không cử ai, lại vui chơi ăn mặc nh
thờng, cùng là tái giá [36, tr. 36-37].
Ngoài ra, trong Quốc triều hình luật còn có hẳn một
chơng hộ hôn (hôn nhân gia đình) gồm 58 điều luật, trong
đó có một số điều quy định những trờng hợp bị cấm kết
hôn, nếu vi phạm sẽ phải chịu hình phạt, đó là là các trờng
hợp: đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng
hoặc cới vợ, khi ông bà, cha mẹ bị giam cầm tù tội mà lấy vợ,

lấy chồng... Ví dụ: Điều 317 quy định: "Ngời nào đang có
tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại lấy chồng hoặc cới vợ
thì xử tội đồ, ngời khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm
ba t và đôi vợ chồng mới cới phải chia lìa" [36, tr. 122]. Bé

10


luật này còn có một số quy định thể hiện t tëng phong kiÕn
coi khinh nghỊ h¸t xíng nh quy định tại Điều 323: "Các quan
và thuộc lại lấy đàn bà con gái hát xớng làm vợ cả, vợ lẽ, đều
xử phạt 70 trợng, biếm ba t; con cháu các quan viên mà lấy
những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trợng; về đều phải ly
dị" [36, tr. 123].
Dới thời thực dân Pháp xâm lợc nớc ta, Việt Nam vẫn là
một nớc thuộc địa nửa phong kiến, chính quyền thực dân
và giai cấp địa chủ phong kiến vẫn duy trì chế độ hôn
nhân phong kiến đà tồn tại từ nhiỊu thÕ kû, thõa nhËn sù cìng Ðp kÕt h«n của cha mẹ đối với con cái, bảo vệ chế độ
nhiều vợ (đa thê), duy trì quan hệ bất bình đẳng giữa
nam và nữ trong gia đình. Điều thứ 128 Luật hình An Nam
thi hành ở Bắc Kỳ quy định: "Ngời vợ hay vợ lẽ hiện đơng có
chồng mà phạm tội thông gian, xét ra quả thực, phải phạt
giam từ ba tháng đến hai năm và phạt bạc từ bốn mơi đồng
đến bốn trăm đồng, ngời gian phu bị phạt cịng thÕ" [55, tr.
21]. §iỊu thø 135 cđa Bé lt còn quy định:
Ngời vợ hay vợ lẽ hiện đơng có chồng, cha tuyên
cáo sự ly hôn, mà đi lấy chồng khác, phải phạt giam
từ một năm đến năm năm và phạt bạc từ năm đồng
đến hai trăm đồng.
Ngời có vợ cha tuyên cáo sự tiêu hôn mà đi lấy

vợ khác, phải phạt giam từ ba tháng đến một năm và
phạt bạc từ hai đồng đến một trăm đồng [55, tr. 22].
Bộ luật hình canh cải áp dụng tại Nam Kỳ cũng quy
định những tội phạm và hình phạt thích ứng để bảo vệ
chế độ một chồng nhiều vợ. Theo Bộ luật này, bị coi là phạm

11


tội thông gian khi một ngời đàn bà đà có chồng rồi mà còn
ân tình với một ngời đàn ông khác, còn đối với đàn ông có
vợ thì hành vi ngoại tình không coi là tội phạm [38, tr. 202].
1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công cho đến trớc khi Bộ luật hình sự
1985 ra đời
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính
quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn
chồng chÊt. NỊn kinh tÕ cđa ®Êt níc vèn ®· nghÌo nàn, lạc
hậu, lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên
tai tàn phá. ở miền Bắc, khoảng 200.000 quân Tởng Giới
Thạch mợn danh nghĩa Đồng Minh vào tớc vũ khí quân Nhật,
nhng dà tâm của chúng là giúp bọn phản động Việt Nam
đánh đổ chính quyền nhân dân để lập một chính phủ
phản động làm tay sai cho chúng. ở miền Nam, quân đội
Pháp đợc quân Anh yểm trợ xâm lợc chiếm Sài Gòn, rồi sau
đó đánh rộng ra các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba
nhiệm vụ lớn, đó là diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc
ngoại xâm và "Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là
nhiệm vụ hàng đầu" [18, tr. 468]. Vì vậy, từ khi Cách mạng

tháng Tám thành công cho đến năm 1954 là thời điểm ký
Hiệp định Giơnevơ, Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến,
Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến, pháp luật ta cũng là
pháp luật kháng chiến. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Nhà nớc
ta vẫn rất quan tâm xây dựng chế độ HN&GĐ mới tiến bộ,
từng bớc xóa bỏ những quy định khắt khe của chế độ thực

12


dân, phong kiến đối với phụ nữ (Sắc lệnh số 97/SL ngày 1205-1950). Tuy nhiên, do phải tập trung quy định các tội phạm
liên quan đến sự an nguy của chính quyền nhân dân nh các
tội phản bội Tổ quốc, tội gián điệp, tội hối lộ, tham ô..., cho
nên, trong giai đoạn này, Nhà nớc ta cha có quy định về các
tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ
đợc ký kết, miền Bắc hoàn toàn đợc giải phóng, miền Nam
tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Từ khi Luật
HN&GĐ đợc ban hành năm 1959, đời sống HN&GĐ đà có
những chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, những hành vi vi
phạm pháp luật HN&GĐ vẫn xảy ra phổ biến ở mức độ
nghiêm trọng, Trớc tình hình đó, TANDTC đà có Thông t số
332-NCPL ngày 04-04-1966 hớng dẫn về xử lý hình sự đối với
8 hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ, đó là các
hành vi: tảo hôn, cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do và
tiến bộ, yêu sách của cải trong việc cới hỏi, lấy nhiều vợ - lấy
vợ lẽ, thông gian, đánh đập hoặc ngợc đÃi vợ, đánh đập
hoặc ngợc đÃi con, ngợc đÃi bố mẹ. Đây là văn bản pháp lý
đầu tiên hớng dẫn xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm
nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ kể từ khi Cách mạng tháng

Tám thành công. Thông t số 332-NCPL ngày 04-04-1966 đÃ
đề cập về từng hành vi vi phạm nh sau:
Thứ nhất, đối với hành vi tảo hôn, Thông t nêu rõ:
Đối với nạn tảo hôn chủ yếu là giáo dục; cá biệt,
nếu có tình tiết nghiêm trọng nh: đà đợc chính
quyền, đoàn thể giải thích, thuyết phục, ngăn cản mà
vẫn cố ý vi phạm; hoặc đà gây ảnh hởng chính trị

13


xấu thì có thể phạt cảnh cáo hoặc phạt tù treo hay tù
giam. Đối tợng xử phạt có thể là cha mẹ của đôi trai
gái, ngời có trách nhiệm nuôi dỡng (nếu trai hoặc gái
cha đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự), hoặc cả
đôi bên trai gái (nếu họ đà ®Õn ti chÞu TNHS: 15
ti [42, tr. 465].
Thø hai, ®èi với hành vi cỡng ép kết hôn, Thông t nêu
rõ:
Đối với hành động cỡng ép kết hôn, vi phạm
quyền tự do kết hôn, chủ yếu là giáo dục, cá biệt,
nếu có tình tiết nghiêm trọng, có thể phạt cảnh cáo,
tù treo hay tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo
tảo hôn; đà đợc chính quyền, đoàn thể giải thích,
thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; có kèm
theo đánh đập tàn nhẫn; đà gây ảnh hởng chính
trị xấu; rõ ràng là nạn nhân vì bị cỡng ép kết hôn
mà sự sát [42, tr. 467].
Thứ ba, đối với hành vi cản trở hôn nhân tiến bộ,

Thông t hớng dẫn:
Đối với hành động cản trở hôn nhân tự do, tiến
bộ, chủ yếu là giáo dục, cá biệt nếu có tình tiết
nghiêm trọng có thể phạt cảnh cáo, tù treo, hay tù giam
nếu rõ ràng là nạn nhân vì bị cản trở hôn nhân tự
do và tiến bộ mà tự sát, cần phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây là: có kèm theo
cỡng ép kết hôn; đà đợc chính quyền, đoàn thể giải

14


thích, thuyết phục, ngăn cản mà vẫn cố ý vi phạm; có
kèm theo lăng nhục thậm tệ, nhục hình tần nhẫn; đÃ
gây ảnh hởng chính trị xấu [42, tr. 468].
Thứ t, đối với hành vi yêu sách của cải trong việc cới hỏi,
tức là sự đòi hỏi về tiền, vàng, quần áo, gạo, thịt, rợu... trong
việc cới hỏi của nhà gái đối với nhà trai với ý nghĩa là điều
kiện để đợc kết hôn, Thông t hớng dẫn: "Về mặt hình sự,
nếu việc yêu sách của cải trong việc cới hỏi gắn liền với tảo
hôn, hoặc cỡng ép kết hôn, hoặc cản trở hôn nhân tự do và
tiến bộ thì cần chú ý kết hợp xem xét, đánh giá trong
những trờng hợp phải xử lý nạn tảo hôn, cỡng ép kết hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự do và tiến bộ" [42, tr. 469].
Thứ năm, đối với hành vi lấy nhiều vợ - lấy vợ lẽ, Thông t
hớng dẫn:
Đối với ngời lấy nhiều vợ, lấy vợ lẽ (từ sau ngày
ban hành Luật HN&GĐ) chủ yếu vẫn là giáo dục, phê
bình, để ngăn ngừa và chấm dứt. Cá biệt, nếu có
tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị xử phạt cảnh

cáo hc tï treo hay tï giam vỊ téi "lÊy nhiỊu vợ"
(hoặc tội lấy vợ lẽ). Nếu bị cáo đà bị xử phạt cảnh cáo
hoặc tù treo mà vẫn không chịu cắt đứt với ngời vợ lẽ
thì phải phạt tù giam.
Tình tiết nghiêm trọng ở đây có thể là: đà đợc giáo dục, giải thích mà vẫn cố tình vi phạm; đà đợc Tòa án tuyên bố cuộc kết hôn là bất hợp pháp mà
vẫn tiếp tục duy trì quan hệ vợ chồng; hành vi có
tính chất lừa dối cơ quan, đoàn thể, lừa dối vợ trớc

15


hoặc vợ sau; gây ảnh hởng, tác hại xấu, d luận phản
đối [42, tr. 470].
Thứ sáu, đối với hành vi thông gian, tức là hành vi quan
hệ tình dục bất chính giữa một bên đang có vợ hoặc có
chồng với ngời khác (dù là ngời này đà có hoặc cha có vợ, có
chồng), Thông t nêu rõ:
Trong tình hình xà hội miền Bắc nớc ta hiện
nay, không thể coi thông gian là một khuyết điểm
về sinh hoạt cá nhân, mà khi có những tình tiết
nghiêm trọng nhất định phải coi thông gian là một
tội phạm đà xâm phạm đến quan hệ HN&GĐ đợc
pháp luật bảo vệ, đến thuần phong mỹ tục và đến
trật tự xà hội.
Đờng lối xử lý cần thiết hiện nay đối với tội
thông gian là: biện pháp ngăn chặn tệ nạn này chủ
yếu vẫn giáo dục. Các cơ quan, đoàn thể cần tăng cờng công tác giáo dục quần chúng về đạo đức, xà hội
mới, chống những t tởng và nếp sống sa đọa, đồi
bại, trụy lạc do xà hội cũ để lại.
Trong một số ít trờng hợp cần thiết, có thể dùng

biện pháp t pháp để làm chỗ dựa cho công tác giáo
dục nói trên. Những trờng hợp cần thiết đó là:
- Thông gian với vợ bộ đội, vợ cán bộ và vợ những
ngời vì nhiệm vụ công tác mà phải thoát ly gia
đình, tại những địa phơng xảy ra nhiều vụ thông
gian, làm ảnh hởng đến tinh thần công tác của ngời
chồng.

16


- Thông gian có tính chất nghiêm trọng nh:
thông gian một cách trắng trợn hoặc kéo dài; do
thông gian mà phá hoại hạnh phúc của nhiều gia
đình; bất chấp sự giáo dục của cơ quan, đoàn thể
hoặc sự phản đối của gia đình ngời chồng, của ngời vợ, của kẻ ngoại tình và bị quần chúng công phẫn
đòi hỏi phải trừng phạt.
- Do thông gian mà dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng nh gây ra án mạng, tham ô lớn, đào
ngũ, đào nhiệm hoặc những hành động phạm pháp
nghiêm trọng khác [42, tr. 471].
Thứ bảy, đối với hành vi đánh đập hoặc ngợc đÃi vợ, tức
là những hành động của ngời chồng không đối xử bình
đẳng, dân chủ với ngời vợ, xâm hại đến sức khỏe, nhân
cách, quyền tự do của ngời vợ, Thông t hớng dẫn:
Biện pháp chủ yếu vẫn là giáo dục thờng xuyên
quan điểm bình đẳng và dân chủ trong quan hệ
vợ chồng nhng cần xử lý về hình sự để hỗ trợ cho
công tác giáo dục trong một số trờng hợp cần thiết nh:
- Đối với những hành động đánh đập nghiêm

trọng nh làm chết ngời, gây thơng tích nặng hoặc
thơng tật lâu ngày, dẫn đến tự sát, do bọn can
phạm bản chất hung bạo, đánh đập một cách hung ác
hoặc dùng thủ đoạn thâm độc gây ra, cần phải
nghiêm trị tùy tình tiết cụ thể.
- Đối với những hành động ngợc đÃi cha gây tác
hại nghiêm trọng của những ngời chậm tiến thì chủ

17


yếu là giáo dục, hoặc cảnh cáo. Trờng hợp có tác hại
nhất định và có bị quần chúng căm phẫn, có thể xử
phạt cảnh cáo hoặc án treo hay tù giam khi thấy thật
cần thiết [42, tr. 473].
Thứ tám, đối với hành vi đánh đập, ngợc đÃi con, ngợc
đÃi bố mẹ, Thông t hớng dẫn:
Tập quán lâu đời của nhân dân ta, luật pháp
của Nhà nớc chúng ta đòi hỏi con cái phải "kính yêu,
săn sóc, nuôi dỡng cha mẹ". Tuy nhiên, thỉnh thoảng
còn xảy ra trờng hợp con cái ngợc đÃi, hắt hủi, không
nuôi dỡng bố mẹ già yếu; đôi khi thái độ đối xử vô
đạo đức của con cái đà làm cho bố mẹ tự sát. Trong
những trờng hợp nghiêm trọng trên, cần đa ra xét xử
điển hình một vài vụ để giáo dục chung, đồng thời
bắt con cái phải nuôi dỡng bố mẹ già yếu [42, tr.
474].
Nghiên cứu những quy định trên cho thấy, Thông t số
332-NCPL ngày 04-04-1966 của TANDTC đà quán triệt tốt phơng châm, ®êng lèi chung ®èi víi viƯc xư lý vỊ h×nh sự các
hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật HN&GĐ là: kiên trì

giáo dục, thuyết phục tuân thủ pháp luật là chủ yếu, kết hợp
biện pháp trừng trị đối với những trờng hợp vi phạm nghiêm
trọng pháp luật HN&GĐ.
1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự 1985 ra
đời cho đến trớc khi ban hành Bộ luật hình sự 1999
Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ
IV, V của Đảng, nhân dân ta đà giành đợc những thµnh tùu

18


quan trọng trên một số lĩnh vực, cải biến đợc một phần cơ
cấu của nền kinh tế - xà hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho
sự phát triển mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đÃ
gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm nh chủ quan duy ý
chí, duy trì quá lâu mô hình kinh tế quan liêu, bao cấp nên
không thực hiện đợc mục tiêu đà đề ra là ổn định một cách
cơ bản tình hình kinh tế - xà hội và đời sống nhân dân.
Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn
hành không thể hiện đợc toàn diện, đầy đủ chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nớc ta. Vì vậy, việc ban hành BLHS
là vấn đề có tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý
nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lợc là xây
dựng chủ nghĩa xà hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27-6-1985, tại kỳ häp thø 9, Qc
héi níc Céng hßa XHCN ViƯt Nam khóa VII, đà thông qua
BLHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi
tắt là BLHS 1985).
BLHS 1985 đà kế thừa và phát triển những thành tựu

của luật hình sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám,
tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong thời gian trớc năm 1985 và dự báo đợc tình hình tội
phạm trong thời gian tới.
Trong Bộ luật này, đà chính thức ghi nhận về mặt
pháp lý các tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình
nhằm vào những biểu hiện nghiêm trọng nhất của các tàn
tích của chế độ hôn nhân nhân gia đình phong kiến, lạc
hậu nh: cỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện tiÕn

19


bộ, vi phạm chế độ một vợ một chồng, tổ chức tảo hôn, loạn
luân, ngợc đÃi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng,
con cái. Với quan niệm rằng, gia đình là thiết chế xà hội có
trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi của con cái,
nhất là con cha thành niên và việc đó quan hệ mật thiết với
việc bảo đảm hạnh phúc gia đình, nhà làm luật đà quy
định các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các
tội phạm đối với ngời cha thành niên vào Chơng V của BLHS
1985, từ Điều 143 đến Điều 149 và Điều 150 quy định hình
phạt bổ sung.
BLHS 1985 đà quy định tội cỡng ép kết hôn hoặc cản
trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ (Điều 143), tội vi phạm chế
độ một vợ, một chồng (Điều 144), tội tổ chức tảo hôn, tội tảo
hôn (Điều 145), tội loạn luân (Điều 146), tội ngợc đÃi nghiêm
trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ chồng, con cái (Điều 147). T tởng chỉ đạo trong việc xây dựng các quy định về các tội
xâm phạm chế độ HN&GĐ trong Bộ luật là: kiên trì giáo dục
và thuyết phục tuân thủ pháp luật, kết hợp biện pháp giáo

dục với biện pháp trừng trị đối với những trờng hợp vi phạm
nghiêm trọng. Căn cứ vào khách thể bị xâm phạm, có thể
chia các tội phạm này thành hai nhóm trong đó nhóm các tội
xâm phạm chế độ hôn nhân bao gồm: tội cỡng ép kết hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, tội vi phạm chế
độ một vợ, một chồng, tội tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn, tội
loạn luân và nhóm các tội xâm phạm chế độ gia đình bao
gồm: tội ngợc đÃi nghiêm trọng hoặc hành hạ cha mẹ, vợ
chồng, con cái.

20



×