Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sàng lọc, phát hiện sớm ung thư pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.99 KB, 7 trang )

Sàng lọc, phát hiện sớm ung thư


II. SÀNG LỌC VÀ PHÁT HIỆN SỚM ( Dự phòng bước 2)
- Sàng lọc là cách đánh giá toàn thể dân số hay từng cá nhân hoàn toàn
khỏe mạnh về mặt lâm sàng, để phát hiện một ung thư tiềm ẩn hay tiền ung
thư, hầu có thể điều trị khỏi. Sự sàng lọc dựa trên quan niệm rằng sự phát
hiện sớm ung thư trước khi di căn xảy ra thì hiệu quả điều trị sẽ tốt hơn là lúc
các triệu chứng xuất hiện.
- Một ung thư được xem là lý tưởng cho việc sàng lọc khi giai đoạn tiên
lâm sàng có thể phát hiện được của nó tồn tại khá lâu trước khi các triệu
chứng xuất hiện và di căn xảy ra.
1. Sàng lọc ung thư vú:
- Ung thư vú là ung thư đứng hàng đầu ở nữ giới ở các nước phát triển
cũng như đang phát triển. Chương trình sàng lọc ung thư vú đã làm giảm tỷ lệ
tử vong do ung thư này.
- Các phương sàng lọc bao gồm:
1.1. Khám lâm sàng tuyến vú (CEB: clinical examination of the breast)
Là một phương pháp thông dụng để phát hiện ung thư vú. Các
bác sĩ chuyên khoa khuyên nên khám lâm sàng tuyến vụ hàng năm cho tất cả
phụ nữ trên 40 tuổi như là một phần của sự kiểm tra sức khỏe toàn diện .
1.2 Tự khám vú (BSE: Breast self - examination)
Là một kỹ thuật ít tốn kém và vô hại đối với tuyến vú. Thực hiện tự
khám vú một tháng một lần sau khi sạch kinh. Nếu người phụ nữ được hướng
dẫn tự khám vú cẩn thận sẽ phát hiên ra bệnh khi u còn nhỏ, hạch di căn ít
hơn những người không thực hành tự khám vú. Do vậy phương pháp tự khám
vú nên được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
1.3. Chụp tuyến vú (Mammography)
- Phương pháp này đã hoàn thiện về mặt kỹ thuật trong những năm gần
đây và được áp dụng rộng rãi để sàng lọc phát hiện sớm, cũng như chẩn đoán
ung thư vú.


- Với phụ nữ trên 40 tuổi trong nhóm nguy cơ cao mỗi năm nên chụp
vú không chuẩn bị một lần, phụ nữ trên 50 tuổi độ nhạy của phim chụp vú
vượt hơn 85% và độ đặc hiệu là 95-99%.
2. Sàng lọc ung thư cổ tử cung:
- Ung thư tế bào gai của cổ tử cung thường phát triển theo sau dị sản
trong biểu mô và ung thư tại chổ (CIN: Cervical intraepithelia neoplasia).
Khoảng 20% các thương tổn trên phát triển thành ung thư xâm lấn trong vòng
20 năm. Còn có thể phát hiện được bằng xét nghiệm tế bào bong. Như thế
ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa nếu sàng lọc được tiến hành bằng
Paptest một cách chính xác hay tế bào học âm đạo mỗi năm một đến hai lần ở
phụ nữ trên 30 tuổi đã có gia đình.
- Tế bào học cổ tử cung là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa ung
thư cổ tử cung xâm lấn và tử vong do ung thư cổ tử cung. Ở những nước đã
áp dụng chương trình sàng lọc ung thư cổ tử cung bằng Paptest tỷ lệ các
trường hợp ung thư cổ tử cung xâm lấn đã giảm 30%.
- Ở các địa phương không có phương tiện để làm Paptest có thể khám
cổ tử cung bằng mỏ vịt cho các phụ nữ trên 30 tuổi. Nếu phát hiện có những
tổn thương nghi ngờ sẽ chuyển đến phòng khám chuyên khoa để chẩn đoán
và điều trị.
- Có thể kết hợp khám bằng mắt với làm thử nghiệm Lugol soi cổ tử
cung để phóng đại các thương tổn ở cổ tử cung, khoét chóp cổ tử cung để vừa
chẩn đoán vừa điều trị các ung thư tiền xâm lấn.
3. Sàng lọc ung thư đại tràng và trực tràng.
- Ở nhiều nước phát triển, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ hai sau
ung thư phổi. Vì triệu chứng lâm sàng thường không rõ ràng nên bệnh nhân
đến khám ở giai đoạn tương đối trể. Tuy nhiên với sự xuất hiện nhiều loại xét
nghiệm sàng lọc ung thư đại trực tràng, theo lý thuyết là ung thư lý tưởng để
chẩn đoán bệnh trước khi có triệu chứng xuất hiện.
- Chiến lược sàng lọc nên nhằm vào các đối tượng có nguy cơ cao và
tập trung vào độ tuổi 50-70 tuổi.

- Các test sàng lọc.
+ Xét nghiệm máu tiềm ẩn trong phân (FOBT: Fecal occult blood
tests).
Phát hiện hoạt động Peroxidase của huyết cầu tố. Các xét nghiệm sàng
lọc cho thấy khoảng 2% FOBT dương tính và giá trị dự doán của test cho cả
u tuyến lành và ung thư giữa 20-30%. Xét nghiệm dương tính giả do thức ăn
và thuốc cũng có xảy ra.

+ Nội soi:
Soi đại tràng S (Sigma) lên đến 20cm đã sử dụng như một xét nghiệm
đơn độc hay kết hợp với FOBT. Soi toàn bộ đại tràng có ưu điểm là độ nhạy
và độ đặc hiệu cao và nhìn được toàn bộ khung đại tràng nhưng giá thành cao
và nguy cơ thủng ruột (2
0
/
00
các trường hợp soi đại tràng) đã giới hạn việc
sàng lọc theo phương pháp này. Chỉ nên soi toàn bộ khung đại tràng với các
đối tượng có nguy cơ cao với xét nghiệm FOBT dương tính.
4. Sàng lọc các ung thư khác:
4.1. Ung thư hắc tố:
Đây là loại ung thư có thể sàng lọc tốt yếu tố nguy cơ là tiền sử gia
đình, tiền căn bị bỏng nắng hay có tàn nhang, các nốt ruồi ở trên cơ thể.
Phương pháp sàng lọc chủ yếu là khám bằng mắt, khám tỉ mỉ với những cán
bộ y tế đã được huấn luyện tốt.
4.2. Ung thư phổi:
Hiện chưa có bằng chứng cho thấy sàng lọc ung thư phổi bằng chụp
Xquang phổi và tế bào học chất đàm có ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong, tuy
nhiên chụp Xquang phổi định kỳ hằng năm cho những người nghiện thuốc lá
trên 45 tuổi có thể phát hiện được u phổi khi còn nhỏ.

4.3. Ung thư vòm.
Được sàng lọc bằng cách đo lượng kháng thể IgA của virus Epstein -
Barr ở những vùng có tỷ lệ mắc bệnh cao.
4.3. Ung thư hốc miệng và hầu:
Các đối tượng có thói quen nhai thuốc lá và nhai trầu, hút thuốc và
uống rựơu đều có nguy cơ cao. Việc thăm khám bằng mắt kết hợp với các
chương trình giáo dục cho dân chúng đã góp phần vào việc phát hiện ung thư
và các tình trạng tiền ung thư sớm hơn.
4.4. Ung thư dạ dày:
Chương trình sàng lọc bằng chụp X.quang dạ dày và soi dạ dày đã
được đánh giá cao ở Nhật.
Hạn chế của sàng lọc là giá thành cao, do đó nên áp dụng cho nhóm có
nguy cơ cao ( tuổi, tiềm sử viêm loét dạ dày mãn tính).
4.5. Ung thư gan nguyên phát:
Sàng lọc bằng cách đo và Alpha Foetoprotein trong huyết thanh những
đối tượng đã bị viêm gan siêu vi trùng B.
Siêu âm được dùng để theo dõi các trường hợp có kết quả bất thường.
4.6. Ung thư tiền liệt tuyến:
3 xét nghiệm có khả năng phát hiện bệnh khi chưa có triệu chứng là:
thăm khám trực tràng bằng tay, siêu âm qua trực tràng, kháng nguyên đặc
hiệu của tiền liệt tuyến.
4.7. Ung thư tuyến giáp:
Các đối tượng đã được chiếu xạ vào vùng đầu cổ sẽ có nguy cơ cao,
cần phải được thăm khám định kỳ, xét nghệm calcitonin và Thyroglobulin.

III. KẾT LUẬN:
Việc sàng lọc để phát hiện bệnh ung thư khi chưa có triệu thường có
kết quả khả quan đối với một số loại ung thư: ung thư vú, cổ tử cung, dạ dày,
đại tràng và ung thư hắc tố. Để có hiệu quả, việc sàng lọc phải làm giảm tỷ lệ
tử vong và giảm tỷ lệ tử vong do các chương trình sàng lọc mang lại tùy

thuộc vào sự phát triển các chương trình sức khỏe toàn dân.


×