Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện đak đoa tỉnh gia lai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.15 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát
triển của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát
triển nguồn nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên
thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu
phát triển kinh tế - xã hội, hồn thành cơng nghiệp hố và hiện đại hố chỉ trong
vài ba thập kỷ.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm xem con người
là trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: "Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Thực tế nguồn
lực con người ở huyện Đak Đoa – tỉnh Gia Lai chưa được phát huy và sử dụng
có hiệu quả, như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, việc làm không thường
xuyên,... vẫn còn xảy ra, hơn nữa nhiều tiềm năng quan trọng của nhân tố con
người như trí tuệ, nền văn hóa truyền thống... vẫn chưa được phát huy tốt trong
công cuộc đổi mới hiện nay. Vì vậy, để nghiên cứu vạch ra những cơ sở khoa
học cho việc phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở huyện Đak Đoa – tỉnh Gia Lai là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực
tiễn, lý luận quan trọng. Đó chính là lý do tơi chọn đề tài "Phát huy nguồn lực
con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Đak Đoa tỉnh Gia Lai hiện nay" làm tiểu luận.
2. Mục đích
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc phát huy nguồn lực con người và đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở huyện Đak Đoa –
tỉnh Gia Lai trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) hiện
nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Tiểu luận dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về con


người mà nhất là về nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước làm cơ sở lý luận của luận văn này.


- Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính: logic
và lịch sử, trừu tượng và cụ thể, phân tích và tổng hợp... gắn lý luận với
thực tiễn. Ngồi ra, tiểu luận cịn sử dụng những phương pháp điều tra Xã hội
học để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đề ra.
4. Ý nghĩa của tiểu luận
Tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính
sách, kế hoạch góp phần xây dựng chiến lược con người trong sự nghiệp CNH,
HĐH ở huyện Đak Đoa - tỉnh Gia Lai.

2


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT HUY NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI HUYỆN ĐAK ĐOA – TỈNH GIA LAI
1.1. Cơ sở lý luận
Nguồn nhân lực là toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia,
một địa phương với những năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, năng
lực thực tế, kỷ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức, tác phong lao động... đã,
đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần thúc
đẩy sự phát triển của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhân tố con người là một nguồn lực cơ bản trong sự phát triển kinh tế - xã
hội; nguồn lực con người được các nhà nghiên cứu đề trên các góc độ sau:
Trong lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố con người được đề cập với
tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất ra của cải, vật

chất và tinh thần. Ở đây con người được xem với góc độ là lực lượng lao động
cơ bản nhất trong xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động
theo nhu cầu bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Nếu coi nguồn lực con người là toàn bộ tiềm năng người nói chung, thì
tiềm năng mà con người có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, là
việc khơi dậy và phát huy tất cả những tiềm năng đó. Q trình này bao gồm
nhiều vấn đề như tạo việc làm và sử dụng lực lượng lao động, phát huy tiềm
năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích thích và động cơ lao
động. Trong đó, giải quyết việc làm và sử dụng nguồn lao động chỉ là một nội
dung của sử dụng và phát huy nguồn nhân lực.
1.2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh về
nguồn nhân lực.
Trong hệ thống tưởng Hồ Chí Minh, con người có vị trí đặc biệt quan
trọng. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Hồ Chí Minh xác định
cho cách mạng Việt Nam là nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để đi
đến giải phóng con người. Con người vừa là chủ thể của cách mạng, vừa là mục
tiêu cao nhất của cách mạng. Người ln nhắc nhở căn dặn chúng ta: “Việc gì
có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức
tránh”;“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có những con người xã hội chủ
nghĩa”. Nói đến con người xã hội chủ nghĩa với tư cách là lực lượng đóng vai


trị quyết định sự thành cơng của sự nghiệp xây dựng sự thành công của chủ
nghĩa xã hội trên đất nước ta, Hồ Chí Minh chỉ nói đến tính hướng đích, tính
định hướng về giá trị, phẩm chất và sự phát triển tồn diện và khơng ngừng
vương lên của con người trong việc cải tạo và xây dựng xã hội mới bằng hoạt
động lao động sáng tạo của mình.
Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII
khẳng định: “ Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao, tay nghề
thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bỡi một

nền giáo dục tiên tiến, gắn với nền khoa học, công nghệ hiện đại ”.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X (2006) tiếp tục khẳng định: “Phát triển khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển kinh
tế tri thức”. Đặc biệt tại Đại hội lần thứ X, Đảng đề cập đến việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, “thông qua việc đổi mới toàn diện giáo dục và
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam”. Đại hội lần thứ XI (2011) của Đảng đã xác định phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao là một trong những đột phá chiến lược trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước.

4


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở HUYỆN ĐAK ĐOA -TỈNH GIA LAI
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Đak Đoa
có ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trên địa bàn
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên của huyện Đak Đoa
Huyện Đak Đoa nằm phía Đơng Bắc tỉnh Gia Lai, cách trung tâm thành
phố Pleiku 15km. Phía Bắc giáp tỉnh Kon Tum và huyện Chư Pah; phía Nam
giáp huyện Mang Yang và huyện Chư Sê; phía Đơng giáp huyện Mang Yang và
huyện K’Bang; phía Tây giáp thành phố Pleiku và huyện Chư Pah.
Đak Đoa có diện tích tự nhiên là 988,656 km2, bằng 6,3% diện tích tỉnh
Gia Lai, dân số khoảng 104.511 người, chiếm trên 7,0% dân số tỉnh. Huyện
Đak Đoa được chia thành 17 xã, thị trấn: Glar, Ia Dơk, Ia Băng, Ia Pêt, xã Trang,
H’Nol, Tân Bình, K’Dang, Kon Gang, Hải Yang, Đak Sơmei, Hà Đơng, Đak
Krong, Hà Bầu, Nam Yang, H’Neng và thị trấn Đak Đoa. Mật độ dân số là
105,71 người/km2, là huyện có mật độ dân số trung bình trong 17 đơn vị hành

chính cấp huyện của Gia Lai.
Huyện nằm trên trục Quốc lộ 19 nối liền thành phố Pleiku và các tỉnh Tây
Nguyên với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, trục Tỉnh lộ 670 nối Quốc lộ 19
với tỉnh Kon Tum. Huyện có lợi thế trong giao lưu kinh tế và hội đủ điều kiện
phát triển thành điểm phân phối, lưu thơng hàng hố đầu mối kinh tế của các
tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ, đồng thời có vị trí quan
trọng trong việc giữ vững ANQP của khu vực Tây Nguyên.
Với đặc điểm tự nhiên nêu trên, có thể nói huyện Đak Đoa đã có được tiền
đề về điều kiện tự nhiên khá quan trọng, thuận lợi cho thu NSNN huyện.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Qua thời gian, huyện Đak Đoa từng bước phát triển về kinh tế, xã hội. Trên
lĩnh vực kinh tế, giá trị sản xuất duy trì tốc độ tăng bình quân 13%/năm, trong đó
giá trị sản xuất ngành thương mại - dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tăng nhanh,
giá trị sản xuất ngành nông - lâm nghiệp tăng chậm, giảm dần. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng nơng - lâm nghiệp, đúng theo tình thần Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ
XV Đảng bộ huyện Đak Đoa giai đoạn 2010-2015 đặt ra. Năm 2012, tăng trưởng
kinh tế đạt 13,4%/năm, trong đó giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp 784.300 triệu


đồng, công nghiệp xây dựng 377.900 triệu đồng, dịch vụ 519.900 triệu đồng (giá
cố định 1994) [22, tr15]. Tuy nhiên, giá trị sản xuất mặc dù tăng nhưng chất
lượng tăng trưởng còn nhiều mặt hạn chế, chưa bền vững, do bị tác động của các
yếu tố khách quan lẫn chủ quan trong quá trình điều hành phát triển kinh tế
huyện, trong đó quan trọng nhất là sự phân cấp về mặt quản lý nhà nước đối với
các thành phần kinh tế trên địa bàn huyện.
Với những thành tựu bước đầu trong phát triển kinh tế, đời sống người
dân trên địa bàn nói chung, giáo dục và chăm sóc sức khỏe nói riêng được cải
thiện. Hiện đã có khoảng 5,1% trẻ trong độ tuổi đến nhà trẻ; 68,2% trẻ trong độ
tuổi đến lớp mẫu giáo; 95,5% học sinh tiểu học đi học đúng đội tuổi; 97% học

sinh THCS đi học đúng độ tuổi và 9,8% học sinh PTTH đi học đúng độ tuổi. Hệ
thống y tế cũng được nâng cấp tương đối đồng bộ từ huyện đến xã, thị trấn:
17/17 xã, thị trấn đã có trạm y tế, 82,4% trạm y tế xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia
[22, tr20].
Nhìn chung, những kết quả KT - XH đạt nói trên được đã tạo nền tảng
bền vững cho việc phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn huyện trong những
năm qua.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Dân số: Việt Nam có quy mơ dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế
giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố khơng
đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn cịn là cư
dân nơng thơn (khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức
khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi). 
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000
người; hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi
lao động. Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng
bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái
Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình,
sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo
léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều
hạn chế.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh.
Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào
6


tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao
đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường

trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ
cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa
đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí
nguồn lực của Nhà nước và xã hội. 
Về trình độ chun mơn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn
bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%,
gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này
là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ
cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm
2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ). 
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong
nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc
hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc
làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nơng thơn là
1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nơng thơn là
3,31%). 
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng
suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia
cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm
2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là
63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
2.2.2. Thực trạng nguồn nhân lực hiện nay ở huyện Đak Đoa
Dân số: Đak Đoa có quy mơ dân số trên 107.641 người, Dân số phân bố
khơng đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Đak Đoa phần đơng vẫn
cịn là cư dân nơng thơn (khoảng 85,9 % - năm 2014).
Lao động: Lực lượng lao động huyện hiện nay khoảng 58.635 người;
hàng năm trung bình có khoảng 1.880 thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể
lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng
cao,. Lao động Đak Đoa được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy
nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.

Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh.
Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào
tạo nhân lực. Theo số liệu thống kê năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng


là 300 người, số tốt nghiệp là 250người; số học sinh các trường trung cấp
chuyên nghiệp là 150 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành
nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất,
chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực
của Nhà nước và xã hội. 
Về trình độ chun mơn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn
bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 33,3%, trong đó ở thành thị là 43,7%,
gấp 2 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 21,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này
là 30,6% đối với nam và 20,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ
cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm
2010 là 4,5%, năm 2012 là 5,4%, sơ bộ năm 2013 là 7,0% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong
nền kinh tế là khá cao. trong năm 2013 khoảng 1.500 việc làm mới.
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng
suất lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia
cho tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm
2005 là 5,0 triệu đồng/người, năm 2010 là 13,3 triệu đồng/người, năm 2012 là
15,0 triệu đồng/người, năm 2013 là 18,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức tuy từng bước được chuẩn hố
nhưng tính chuyên nghiệp chưa cao theo yêu cầu của nền cơng vụ.
Tỷ lệ lao động có trình độ chun mơn trong các doanh nghiệp còn thấp,
hơn một nửa số lao động chưa qua đào tạo nghề; phần nhiều các cơ sở sản xuất
kinh doanh mới tuyển dụng nguồn lao động sẵn có, chưa quan tâm đến vấn đề
đặt hàng đào tạo lao động phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn
vị.

Nhân lực có trình độ cao phân bổ không đồng đều giữa các ngành, các địa
phương và các thành phần kinh tế; phần lớn tập trung ở thành thị và trong các cơ
quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nơng dân, cơng
nhân, tri thức…chưa tốt, cịn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện
mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
2.3. Một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực: 
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo
vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu
sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. 
8


Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu
so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất
là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam
trong chuỗi giá trị đó.
Số lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chun mơn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về
năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong mơi trường cạnh tranh cơng
nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu
quả. 
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức cơng dân,
ý thức văn hố công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao
động chưa cao.
2.4.Nguyện nhân của những hạn chế
Ngun nhân của những hạn chế có nhiều, theo tơi, đáng chú ý là:
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực
của phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo
đảm chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn

lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa
huy động được nhiều các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để
phát triển nhân lực. 
Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với
yêu cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá
bằng các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát
triển một cách kịp thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương,
đường lối, chính sách chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển
nguồn nhân lực chưa tính tốn đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác
phân luồng định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học
phổ thông chưa tốt; công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa
trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực
từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số
lượng, yếu về chun mơn nghiệp vụ, cịn sự chênh lệch lớn về trình độ phát


triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công cụ kiểm tra,
giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu, kém
hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng…

10


CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở

HUYỆN ĐAK ĐOA, TỈNH GIA LAI
3.1. Những định hướng
Một là, phát triển nguồn nhân lực phải xuất phát từ thực tiễn u cầu q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở từng giai đoạn cụ thể.
Hai là, khơng ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh
phát triển văn hóa - xã hội.
Ba là, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Bốn là, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ nhằm nâng cao
hiệu quả công tác, năng suất lao động và chất lượng, hiệu quả sản xuất, kinh
doanh.
Năm là, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Sáu là, sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
3.2. Những giải pháp chủ yếu
3.2.1. Đẩy mạnh phát triển và đổi mới hệ thống giáo dục
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực trong
giai đoạn hiện nay. Cần quán triệt và triển khai quyết liệt Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8 khoá XI và Nghị quyết số
44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo đáp ứng u cầu cơng nghiệp hố, hiện đại hố trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Trước mắt, cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
Một là, giải quyết tốt những mối quan hệ giữa đào tạo, sử dụng và việc
làm trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực. Đây là một việc làm quan trọng và
cấp thiết bậc nhất hiện nay. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, trong q trình vận
hành nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, một vấn đề nổi lên hết sức gay gắt là mâu thuẫn giữa đào tạo và
sử dụng việc làm. Vấn đề đào tạo, sử dụng và việc làm không giống như trong
nền kinh tế kế hoạch trước kia, ngày nay nó đã chịu sự chi phối quyết định của
quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, cạnh tranh…Thực trạng nêu trên có nguyên



nhân từ những thay đổi của nền kinh tế. Những bất cập về nội dung, phương
pháp, cơ cấu, tỷ lệ phân bố…của ngành giáo dục và đào tạo phản ánh sự chuyển
đổi đó mà bản thân ngành giáo dục và đào tạo chưa thể khắc phục được. Nó cho
thấy vai trị của Nhà nước, của tỉnh có ý nghĩa quyết định đến việc quản lý, điều
tiết vĩ mô giữa thị trường lao động, việc làm với quy hoạch đào tạo, sử dụng đội
ngũ nhân lực. Tỉnh phải quản lý vĩ mơ, chỉ đạo tồn diện, đồng bộ thị trường lao
động theo những nguyên tắc mà đến nay chưa thực hiện được.
Hai là, từng bước nâng cao trình độ dân trí đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân
lực cho việc phát triển kinh tế. Nâng cao dân trí là một quá trình xác lập những
mức độ về chất của tri thức mà con người tích luỹ được qua giáo dục và đào tạo.
Nâng cao dân trí cịn nhằm xác lập những giá trị, trong đó giá trị về con người trí
tuệ, sáng tạo, nhân văn là các giá trị cơ bản nhất. Con người khơng có chun mơn,
kỹ năng nghề nghiệp tốt, mà còn là con người năng động, tự chủ, giàu lịng nhân ái,
có lý tưởng, niềm tin, lao động có năng suất cao và hồ nhập với cộng đồng. Mặt
bằng dân trí cao đáp ứng được yêu cầu phân công lao động xã hội, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh vững mạnh, đời
sống vật chất, tinh thần ngày càng phong phú.
Đây là một chiến lược phát triển mang tính cấp bách và lâu dài. Trước
mắt, phải đẩy mạnh tốc độ nâng cao dân trí; điều chỉnh cho phù hợp về chính
sách, biện pháp, mục tiêu chương trình xố mù chữ và phổ cập tiểu học, trung
học cơ sở; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục phổ thông và giáo dục kỹ thuật, nghề
nghiệp; hoàn chỉnh mạng lưới giáo dục và cơ cấu đào tạo để thực hiện chế độ
học tập thường xuyên, suốt đời cho mọi người; chính sách ưu tiên với đồng bào
dân tộc, vùng có nhiều khó khăn, đối tượng chính sách xã hội; coi trọng chính
sách phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài; xây dựng phong trào học tập rộng
khắp, lâu dài, có hiệu quả đối với mọi tầng lớp nhân dân.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực hợp lý cho phép có thể vận hành được
nền kinh tế hiện đại, có khả năng cạnh tranh cao. Kinh nghiệm của thực tiễn cho

thấy, chỉ có lao động đơng và rẻ thì khơng thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội, đổi mới bộ mặt của tỉnh nhà. Phải có chính sách phát triển
nguồn nhân lực hợp lý, càng sớm thì tốc độ phát triển kinh tế càng cao. Cơ cấu
lao động hợp lý là một cơ cấu có: tỷ lệ chuyên gia – kỹ sư – công nhân kỹ thuật;
tỷ lệ nhà quản lý, lãnh đạo – cán bộ, chuyên gia – đội ngũ lao động phù hợp; sự
cân đối giữa cơ cấu vùng, cơ cấu xã hội, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ…
của lực lượng lao động. Cơ cấu lao động hợp lý vừa là nguyên nhân, vừa là kết
12


quả của nền kinh tế năng động và cạnh tranh. Do đó, giáo dục và đào tạo thực sự
trở thành vũ khí lợi hại để tạo ra những cơ hội có việc làm, là tác nhân đặc biệt
cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Để đạt được mục tiêu đó, trước mắt cần tập trung vào: xây dựng chiến lược
tổng thể phân luồng học sinh sau trung học cơ sở, trung học phổ thông, phát triển
mạnh giáo dục chuyên nghiệp, đặc biệt là dạy nghề. Đây được coi là khâu đột phá
quan trọng nhằm tháo gỡ nhiều vấn đề bức xúc hiện nay về tâm lý, sự quá tải ở các
cấp học trên, vấn đề thiếu hụt trầm trọng đội ngũ công nhân kỹ thuật, giải quyết
việc làm, tiết kiệm ngân sách nhà nước và chi dùng của nhân dân. Coi trọng công
tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, cơng chức, cơng nhân kỹ thuật hiện có, nâng
dần tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của thị
trường lao động. Có chính sách hợp lý để thu hút nhân tài phục vụ sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Bốn là, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu về con người cho phát triển. Đây là trách nhiệm của tỉnh,
nhân dân và ngành giáo dục và đào tạo nhằm vào mục tiêu con người: dạy chữ,
dạy nghề và dạy người. Để giải quyết mâu thuẫn giữa thực trạng giáo dục và đào
tạo với yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế, cần giải quyết một số vấn đề

quan trọng như: Tập trung tháo gỡ những yếu kém, tiêu cực đã được ngành giáo
dục và đào tạo tổng kết. Củng cố và mở rộng hệ thống giáo dục, đa dạng hố các
hình thức học tập, bảo đảm quyền được học tập, bình đẳng trong cơ hội tiếp cận
các nguồn lực cho giáo dục, khắc phục sự bất bình đẳng và thương mại hố giáo
dục. 
3.2.2. Tăng cường phát triển khoa học công nghệ
Cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ không chỉ là chính sách
hàng đầu cho việc phát triển kinh tế - xã hội mà còn là nhân tố thúc đẩy nâng
cao trình độ con người. Trong những năm gần đây, người dân Gia Lai được tiếp
cận ngày càng phổ biến với internet, các mạng di động viễn thông làm tăng
cường khả năng trao đổi thông tin. Công nghệ phát triển làm các dịch vụ giao
thông vận tải ngày càng được mở rộng với mức giá phù hợp với người dân lao
động, đặc biệt là vận tải hàng không xuất hiện nhiều dịch vụ giá rẻ. Vì vậy, phát
triển khoa học công nghệ, đưa khoa học công nghệ vào sâu trong đời sống nhân
dân là việc làm cần thiết để phát triển đời sống nhân dân, tạo nên một xã hội tiên


tiến, văn minh.
3.2.3. Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực 
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển
nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả
hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan
chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực
trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển
kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính sách, cơ chế, cơng cụ phát triển nhân lực
(bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập,
bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư,
chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài). Cải tiến
và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát
triển nhân lực.

3.2.4.Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia
đến năm 2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng
trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân
sách nhà nước theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm
vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ
đào tạo, phát triển nhân lực ở các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người
dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ
và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn
vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng và bảo đảm công
bằng giữa các cơ sở cơng lập và ngồi cơng lập.
Đẩy mạnh xã hội hố để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát
triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực
tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể
thao; Góp vốn, mua cơng trái, hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần
quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều
kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào tạo, bồi dưỡng,
dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho các cơ sở giáo
dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học, cao đẳng, hỗ
trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
14


KẾT LUẬN
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, làm cho cán bộ, cơng chức của tồn bộ hệ thơng chính trị các cấp, các
tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và
trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi

thế để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Với việc tiếp thu lý luận và áp dụng vào thực tiễn, nền kinh tế - xã hội ở
huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai đã có những bước khởi sắc ban đầu, tốc độ tăng
trưởng kinh tế ngày càng cao, thu nhập của người lao động tăng, chất lượng
cuộc sống của nhân dân nâng lên rõ rệt; lối sống văn minh lành mạnh hơn, xã
hội công bằng hơn. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn cịn một số hạn chế, khó khăn,
một số bộ phận dân cư cịn phải sống trong điều kiện thiếu thốn. Do vậy, lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người nói riêng là kim chỉ Nam cho chúng ta hành động vì sự phát triển của con
người và xã hội xã hội chủ nghĩa. Định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, đưa huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai vượt qua khó khăn ban đầu, cùng cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và giành thắng lợi.


16



×