Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

phát huy nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Một quốc gia, để phát triển cần có nhiều nguồn lực và thế mạnh, trong đó
có nguồn lực về tự nhiên, vị trí địa lý và nguồn lực con người. Nguồn lực tự
nhiên là nguồn lực có hạn, trong tương lai sẽ dẫn cạn kiệt. Vì vậy, các quốc gia
phát triển dựa trên nguồn lực tự nhiên khơng thể lâu bền. Chỉ có nguồn lực con
người là một tài nguyên chúng ta có thể khai thác vô hạn cho sự phát triển bền
vững. Nguồn lực con người quyết định lực lượng sản xuất và sự phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia.
Sự phát triển của nền kinh tế thế giới đang bước sang trang mới với những
thành tựu có tính chất đột phá trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội,
đặc biệt là trên lĩnh vực khoa học, cơng nghệ, kinh tế, trong đó nhân tố đóng vai
trị quyết định dẫn đến sự ra đời của kinh tế tri thức, chính là nguồn lực con
người. Trước đây, các nhân tố sản xuất truyền thống như số lượng đất đai, vốn
được coi là quan trọng nhất, song ngày nay đã có sự thay đổi thứ tự ưu tiên.
Chính nguồn lực con người mới được xem là nguồn lực quan trọng nhất. Vì vậy,
để có được tốc độ phát triển cao, các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm tới
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nhận thức được qui luật tất yếu đó, hiện nay, tất cả các dân tộc trên thế giới
đều có chiến lược phát triển tập trung vào đầu tư cho nguồn lực con người theo
nguyên tắc đặt con người vào trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi qui luật đó. Trong q trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng đã chỉ rõ: Nội lực có vai trị quyết định đối với sự phát triển. Có phát

1


huy được nội lực mới thu hút và sử dụng hiệu quả ngoại lực. Nội lực được tăng
cường mới đảm bảo được độc lập tự chủ về kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế


quốc tế thành công. Phát huy nội lực trước hết là phát huy nguồn lực con người,
nguồn lực của tồn dân tộc, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên
và sử dụng tốt các nguồn lực của nhà nước. Trong văn kiện: “Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020” (Đại hội XI của Đảng) tiếp tục khẳng định vấn
đề trên một cách sâu sắc hơn: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một bước đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, đảm bảo cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” (7, 130). Vì
vậy, chăm lo, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 2020 của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương trong cả nước.
Sơn La là một tỉnh nằm ở vị trí đầu nguồn hai con sơng lớn: sơng Đà và
sơng Mã, đồng thời là địa bàn phịng hộ xung yếu cho vùng đồng bằng Bắc Bộ,
có hai cơng trình thủy điện lớn nhất nước với nhiều tiềm năng phát triển về cơng
nghiệp, nơng nghiệp, du lịch… Với vị trí địa lý trọng yếu và tiềm năng như vậy,
trong những năm gần đây, Sơn La cũng có những bước phát triển đáng kể. Trong
giai đoạn 2001 - 2011, nền kinh tế của tỉnh phát triển với tốc độ tăng khá, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch tích cực, tốc độ tăng GDP bình quân/năm giai đoạn 2006 2010 đạt 14,01%/năm, nền kinh tế phát triển tạo thêm việc làm và thu nhập cho
người lao động... Song nhìn vào thực tế, Sơn La vẫn là một tỉnh khó khăn với 5
huyện nghèo nhất của cả nước, cho thấy tốc độ phát triển kinh tế chưa thực sự
tương xứng tiềm năng. Nguyên nhân có thể do vị trí địa lý hiểm trở, khí hậu thất

2


thường, tài ngun khống sản ít và khó khai thác… nhưng một trong những
nguyên nhân chủ yếu nhất là, do địa phương chưa phát huy được đầy đủ tiềm
năng về nguồn lực con người.
Vì vậy, vấn đề tìm hiểu thực trạng và đề ra những giải pháp để phát huy
nguồn lực con người ở Sơn La được đề ra một cách cấp bách như một biện pháp

quan trọng góp phần đưa địa phương thoát nghèo, phát huy những tiềm năng vốn
có để phát triển, ổn định cuộc sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số cũng như
góp phần bảo vệ biên giới quốc gia. Nhận thấy điều đó nên tác giả chọn đề tài:
“Phát huy nguồn lực con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sơn La
hiện nay” làm luận văn thạc sỹ triết học của mình, góp phần nhỏ vào việc tìm
hiểu nguồn lực con người tỉnh Sơn La và đề xuất những giải pháp nhằm phát huy
vai trò nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Vấn đề nguồn lực con người nói chung khơng phải là một vấn đề mới, có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này và đạt được nhiều thành tựu đáng
kể, nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản và phổ biến rộng rãi trong xã
hội. Trong đó, có thể kể đến các khuynh hướng nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất: vấn đề con người và vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này có các cơng trình: “Nghiên cứu con người và
nguồn nhân lực đi vào cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” của GS Phạm Minh Hạc,
Nxb CTQG, HN, 2001; “Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa” của GS, TSKH Vũ Huy Chương chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002; “Nguồn nhân lực trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam”của TS. Đồn Văn Khái, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; “Phát

3


triển nguồn nhân lực phục vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của TS.
Nguyễn Thanh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; “Phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế” của PGS.TS Vũ Văn Phúc và TS. Nguyễn Duy Hùng đồng chủ biên,
Nxb CTQG, HN, 2012. “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Đồn Văn Khái (Tạp chí triết học,

số 4, tháng 12/1995); “Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số Việt
Nam đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của PGS.TS
Nguyễn Đăng Thành, Nxb CTQG, HN, 2012…
Các cơng trình này đã đề cập một cách tương đối có hệ thống cơ sở lý luận
và thực tiễn về vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Phân tích sự tác động qua lại giữa nguồn lực con người và các
nguồn lực khác và khẳng định yếu tố quyết định là nguồn lực con người. Ngồi
các cơng trình nghiên cứu được xuất bản thành sách còn rất nhiều các luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sỹ về vẫn đề này như: Luận án tiến sĩ “Nguồn lực con
người trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, của tác giả
Đoàn Văn Khái (2000), Luận án tiến sĩ “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thị Tú Oanh (1999); Luận văn thạc sĩ “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh” của tác
giả Vũ Thị Phương Mai (2004); Luận văn thạc sĩ “Phát huy vai trò nguồn lực
con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Lâm Đồng hiện
nay” của tác giả Đinh Xuân Thủy (2009)…

4


- Thứ hai: Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ với phát triển
nguồn lực con người chất lượng cao cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cho cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
Phải kể đến một số công trình đáng chú ý sau: “Để cho khoa học và công
nghệ trở thành động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nguyễn
Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học số 1/1997; “Phát triển giáo dục đào tạo phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đỗ Mười, Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục, số 2/1996; “Để giáo dục - đào tạo thực sự trở thành
quốc sách hàng đầu”; “Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ phát

triển xã hội – kinh tế” của GS. Phạm Minh Hạc, Nxb Khoa học xã hội, HN,
1996; “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam” của Đỗ Minh
Cương và Nguyễn Thị Doan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; “Khai thác
và phát triển tài nguyên nhân lực Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Văn Phúc và
Th.S Mai Thị Thu đồng chủ biên, Nxb CTQG, HN, 2012; “Nguồn lực trí tuệ
Việt Nam, lịch sử, hiện trạng và triển vọng” của GS.TS Nguyễn Văn Khánh,
Nbx CTQG, HN, 2012…
Trong các cơng trình trên, các tác giả đi vào tập trung làm rõ vai trò của
giáo dục đào tạo đối với việc phát huy nguồn lực con người phục vụ q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Phân tích vai trị, chức năng của nguồn
lực trí tuệ - nguồn lực “quí giá” của các quốc gia, dân tộc trên thế giới.
- Thứ ba: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với vấn đề xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển đời sống tinh thần.
Với các nghiên cứu đáng quan tâm như sau: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với
sự nghiệp xây dựng con người mới”, Võ Nguyên Giáp, Tạp chí Cộng sản số
6/1990; “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn và phát huy

5


bản sắc văn hóa dân tộc”, Đặng Hữu Tồn, Tạp chí Triết học số 2/2000; “Xây
dựng đạo đức, lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con
người”, Huỳnh Khái Vinh, Tạp chí Thơng tin lý luận số 3/1999; “Văn hóa và lối
sống của con người Việt Nam trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Phạm Xuân Hằng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000…
Các cơng trình này đều khẳng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là
động lực của sự phát triển. Văn hóa phải là yếu tố gắn bó hữu cơ với con người
thể của các hoạt động kinh tế - xã hội.
- Thứ tư: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay và
bài học kinh nghiệm về phát huy nguồn lực con người trong q trình đó.

Các cơng trình tiêu biểu cho khuynh hướng này là: “Phát triển nguồn nhân lực Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”, Trần Văn Tùng, Lê ái Lâm (Viện
Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “Cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa rút ngắn. Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới”, Lê Cao Đoàn
chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2008…
Các cơng trình trên đã giới thiệu khái qt về q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa của một số nước trên thế giới, nhấn mạnh vai trò của nguồn lực con
người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trên thế giới và ở Việt Nam
hiện nay.
Ngoài ra các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu cũng đã có nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí đề cập đến nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội
như: “Con người - yếu tố quyết định nhất của lực lượng sản xuất” của Phương
Kỳ Sơn,(Tạp chí triết học số 3 tháng 6/1997); “Mấy suy nghĩ về vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
của Nguyễn Cơng Tồn (Tạp chí triết học số 5, tháng 10/1998); “Một số giải

6


pháp nhằm khai thác và sử dụng nguồn lực con người” của TS. Phạm Văn Đức,
(Tạp chí triết học số 6, tháng 10/1999); “Một số suy nghĩ về vai trò của giáo dục,
đào tạo trong việc phát triển nguồn lực con người” của TS. Phạm Văn Đức,
(Tạp chí triết học số 6, tháng 12/2000); “Vấn đề phát huy nhân tố con người
trong phát triển kinh tế” của Hoàng Thái Triển, (Tạp chí triết học, số 2, tháng
4/2001). “Xây dựng và phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con
người trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Thế
Kiệt, (Tạp chí triết học số 6, tháng 6/2008); “Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển con người trong thời kỳ đổi mới” của ThS. Hồng Thanh Sơn,
(Tạp chí triết học, số 7, tháng 7/2008);“Vai trò của con người và vấn đề phát huy
nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn
Thành Trung, (Tạp chí triết học, số 7, tháng 7/2008)…

Nhìn một cách tổng quát, những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến
vai trị của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đề cập đến
việc làm thế nào để sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người Việt Nam nhằm
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, bàn đến vai trò của giáo dục và đào tạo đối với
việc phát huy nguồn lực con người, đưa ra các giải pháp để bồi dưỡng, đào tạo
nguồn lực con người Việt Nam nhằm đáp ứng q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hoặc đưa ra các giải pháp để khai thác và sử dụng nguồn lực con người
một cách tốt nhất. Nhưng chưa có một cơng trình nào đề cập một cách cụ thể đến
vấn đề phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở
một tỉnh miền núi như Sơn La hiện nay. Do vậy, trong luận văn này, tác giả kế
thừa những kết quả đã đạt được của những công trình nêu trên, nhằm tổng kết,
đánh giá đúng thực trạng phát huy vai trò nguồn lực con người trong sự nghiệp
phát triển kinh tế của tỉnh; làm rõ những vấn đề đang đặt ra, tìm hướng giải

7


quyết, đồng thời đưa ra một số giải pháp có tính định hướng để phát huy vai trị
nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Mục đích nghiên cứu: dưới góc độ của triết học Mác - Lênin, luận văn phân
tích và đánh giá thực trạng nguồn lực con người ở Sơn La; trên cơ sở đó đề xuất
các định hướng và giải pháp nhằm phát huy nguồn lực này trong việc đẩy nhanh
sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và
thực tiễn về nguồn lực con người nói chung và nguồn lực con người tỉnh Sơn la
nói riêng. Trong đó, luận văn này chỉ đi vào những nội dung cơ bản về phát triển
nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La.
- Phạm vi nghiên cứu: tập trung làm rõ vấn đề phát huy nguồn lực con người
trong phạm vi tỉnh Sơn La hiện nay.

4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của đề tài:
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về con người và phát huy nguồn lực con người trong giai
đoạn hiện nay.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn lực con người và nêu lên các định hướng,
giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Sơn La hiện nay.
- Những đóng góp mới: luận văn góp phần làm rõ thực trạng nguồn lực con người
trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Sơn La hiện nay, từ đó đề xuất các định
hướng và các giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực con người để đẩy
nhanh quá trình phát triển kinh tế ở địa phương một cách bền vững. Luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ những người làm công tác nghiên cứu,

8


giảng dạy bộ môn Mác - Lênin hoặc là cơ sở để các cấp lãnh đạo, các ngành của
tỉnh Sơn La tham khảo để hoạch định chính sách liên quan đến phát huy nguồn lực
con người phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
5.Cơ ở lý luân và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tử tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam về nguồn lực con người. Ngồi ra, tác giả cịn nghiên cứu, kế thừa các cơng
trình nghiên cứu gần đây về nguồn lực con người.
- Về phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.
- Về các phương pháp cụ thể:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích lý thuyết: nghiên cứu các văn
bản, tài liệu lý luận liên quan đến đề tài nghiên cứu nhằm phát hiện ra những xu
hướng, những trường phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc những
thông tin phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.

Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp lý thuyết: tổng hợp tài liệu thu
thập được để tạo nên một hệ thống lý thuyết mới, đầy đủ, sâu sắc về chủ thể
nghiên cứu. Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các phương pháp như: logic - lịch sử,
Quy nap - diễn dịch, Phân tích - tổng hợp…
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao
gồm 2 chương 5 tiết.
Chương 1: Lý luận chung về vai trò của nguồn lực con người trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội

9


Chương 2: Thực trạng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nguồn lực con
người trong sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La hiện nay.

10


Chương 1: Lý luận chung về vai trò của nguồn lực con người trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội
1.1 Quan niệm về nguồn lực con người và vai trò của nguồn lực con người đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.1 Quan niệm về nguồn lực con người và phát huy nguồn lực con người
“Nguồn nhân lực” hay “nguồn lực con người” là những khái niệm được
hình thành trong quá trình xem xét, nghiên cứu con người với tính cách là nguồn
lực cơ bản của phương thức sản xuất, yếu tố chính trong sự thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Khái niệm nguồn lực con người có phạm vi bao quát. Đó là tổng thể các
yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế

xã hội...tạo thành năng lực của con người và của cộng đồng người. Năng lực đó
khi được sử dụng, phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Với quan điểm duy vật triệt đề và phương pháp biện chứng, Mác đã đưa ra
một quan niệm khá hoàn chỉnh về khái niệm con người, cũng như về bản chất
con người như sau:
Thứ nhất: con người là một thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội, trong đó, mặt xã hội quyết định bản chất của con người.
Chủ nghĩa Mác phân định rõ ràng hai mặt trong khái niệm con người: mặt
sinh vật và mặt xã hội. Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên, mặt sinh học khi
xem xét con người với tư cách là một cá nhân sống. Ông thừa nhận con người là
một động vật cao cấp nhất, sản phẩm sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Như
mọi động vật khác, con người cũng là một bộ phận của thiên nhiên, tìm thức ăn,
nước uống từ trong thiên nhiên; con người phải đấu tranh sinh tồn... Tuy nhiên,
Mác không thừa nhận quan điểm: cái duy nhất tạo nên bản chất con người là đặc

11


tính sinh học, là bản năng sinh vật của con người như các nhà triết học trước
Mác mà tiêu biểu là L.Phoiơbăc. Con người vốn là sinh vật có đầy đủ những đặc
trưng của sinh vật nhưng lại có nhiều điểm phân biệt với các sinh vật khác. Theo
ông con người khác với con vật như sau: “Có thể phân biệt con người với súc vật
bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân
con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể
của con người qui định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” (4, 29). Con
người là một bộ phận của tự nhiên, nhưng trong mối quan hệ với tự nhiên con
người hoàn toàn khác con vật. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhìn vấn đề
bản chất con người một cách tồn diện, cụ thể, xem xét bản chất con người

không phải một cách chung chung, trừu tượng, mà trong tính hiện thực, cụ thể
của nó, trong q trình phát triển của nó.
Ngồi mặt sinh vật, theo Mác, con người cịn có tính xã hội. Con người có
tính xã hội trước hết bởi bản thân hoạt động sản xuất của con người là hoạt động
mang tính xã hội. Trong hoạt động sản xuất, con người khơng thể tách rời xã hội
và chính tính xã hội làm cho con người khác con vật. Hoạt động của con vật chỉ
phục vụ nhu cầu trực tiếp của nó, cịn hoạt động của con người gắn liền với xã
hội và phục vụ cho cả xã hội. Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của
con người. Tính xã hội của con người được thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã
hội. Hoạt động của con người không phải là hoạt động theo bản năng như động
vât mà là hoạt động có ý thức. Tư duy của con người phát triển trong hoạt động
và giao tiếp xã hội, trước hết là trong hoạt động lao động sản xuất. Với ý nghĩa

12


trên đây, có thể nói con người phân biệt với động vật ở tư duy mà ngôn ngữ là
cái vỏ vật chất của tư duy.
Tóm lại, con người khác với con vật về bản chất ở cả ba mặt: quan hệ với
tự nhiên, quan hệ với xã hội, quan hệ với bản thân. Cả ba mối quan hệ này đều
mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội là quan hệ bản chất nhất, bao quát nhất
trong mọi hoạt động của con người, cả trong lao động, sinh đẻ con cái và trong
tư duy.
Mác nói: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa các
quan hệ xã hội” (4, 11), Khơng có con người trừu tượng mà chỉ có những con
người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, trong điều kiện lịch sử nhất
định. Tính xã hội của con người phát triển từ thấp đến cao, từ hoạt động có bản
năng đến hoạt động có ý thức, cũng như bản thân ý thức. Con người khơng chỉ
có bản năng sinh học mà cịn có bản năng xã hội, đó là bản năng có ý thức.
Thứ hai: con người là sản phẩm và chủ thể của xã hội.

Chủ nghĩa Mác - Lênin coi con người, người lao động, nguồn lực con người
là một trong những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất, là yếu tố quan trọng
nhất, quyết định nhất sự phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình
sản xuất và do đó quyết định năng suất lao động.
Con người muốn sống thì phải có thức ăn, vật dùng, nhà ở... để đáp ứng
những yêu cầu đó, con người phải không ngừng sản xuất. Sản xuất vật chất là
điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chủ nghĩa Mác
coi lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao
gồm cả lao động chân tay và trí óc, chính thực tiễn sản xuất của con người là cơ
sở, động lực cho sự phát triển của xã hội.

13


Con người và vai trò của nguồn lực con người được C.Mác và Ph.Ănghen
xem xét dưới góc độ và tính cách là một trong những vai trò nguồn lực to lớn,
theo quan điểm của Mác: bản thân con người là cơ sở của nền sản xuất vật chất
của họ, cũng như mọi sản xuất khác do con người thực hiện. Vì vậy tất cả những
tình huống nào tác động đến con người, đến cái chủ thể đó của sản xuất, thì ít
nhiều cũng làm thay đổi tất cả những chức năng và hình thức hoạt động của nó,
tức là cũng làm biến đổi những chức năng và hình thức hoạt động mà con người
thực hiện với tư cách là kẻ sáng tạo ra của cải vật chất, ra hàng hóa. Theo nghĩa
đó, có thể thực sự chứng minh được rằng, tất cả các quan hệ và chức năng của
con người, cho dù chúng thể hiện ra dưới hình thức nào và dưới cái gì, đều ảnh
hưởng đến nền sản xuất vật chất, và nhiều hay ít đều tác động đến nền sản xuất
đó một cách quyết định. Các ơng cũng chỉ ra rằng trong quá trình vận động và
phát triển của xã hội, sự vận động và thay thế mỗi hình thái kinh tế - xã hội phù
hợp với một phương thức sản xuất nhất định, và khi phương thức sản xuất thay
đổi, hình thái kinh tế - xã hội cũng thay đổi theo. Nhân tố quyết định phương
thức sản xuất theo hướng đi lên trong lịch sử là lực lượng sản xuất (bao gồm:

người lao động, công cụ lao động, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp). Và như vậy, chính con người, nguồn lực con người cùng với
những cơng cụ lao động mà nó chế tạo ra và sử dung, đã quyết định sự thay đổi
của bộ mặt xã hội, theo Mác: khi phát triển lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là
khi sinh sống, thì con người cũng phát triển những quan hệ nhất định với nhau...,
và tính chất của những quan hệ ấy tất yếu phải thay đổi cùng với sự biến cải và
phát triển của những lực lượng sản xuất. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin còn xem xét con người, nguồn lực con người trong tính tổng hịa các quan
hệ xã hội của nó: “Bản chất con người khơng phải là cái trừu tượng vốn có của

14


một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng
hịa của tất cả các quan hệ xã hội” (4, 11). Con người với tính cách là một trong
những nguồn lực quyết định sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội còn được
các nhà kinh điển khẳng định là người làm chủ được quan hệ giữa mình với tự
nhiên, với xã hội và với chính bản thân. Đó là những con người, với vai trò là
một trong những yếu tố cấu thành mang tính quyết định phát triển của lực lượng
sản xuất địi hỏi phải mang tính “hồn tồn mới”, được phát triển tồn diện về
các mặt trí, đức, thể, mỹ. Theo Mác: con người, cuối cùng làm chủ tồn tại xã hội
của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản thân mình,
trở thành người tự do. C.Mác và Ph.Ănghen cũng chỉ ra rằng trong điều kiện phát
triển xã hội mới, dưới chế độ mới luôn đặt ra đối với việc phát triển con người,
nguồn lực con người trong tính tồn diện, Mác viết: giống như trong thế kỉ trước,
người nông dân và người công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút
vào đại cơng nghiệp, đã thay đổi tồn bộ lối sống của họ và bản thân họ cũng trở
thành những con người hoàn toàn khác hẳn; hiện nay cũng vậy việc tiến hành sản
xuất tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất
do việc đó mang lại, sẽ dần đến những con người hồn tồn mới đó... vậy thì nền
cơng nghiệp do toàn xã hội thực hiện một cách tập thể và có kế hoạch lại càng

cần có những con người có năng lực phát triển tồn diện, đủ sức tinh thơng tồn
bộ hệ thống sản xuất. Các ơng đặc biệt đề cao vai trị của con người với tính chất
của những quan hệ người với người trong mối quan hệ biện chứng của lực lượng
sản xuất, Mác viết: những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản
xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao
động nào. Các tư liệu lao động không những là cái thước đo sự phát triển sức lao

15


động của con người, mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó
lao động được tiến hành.
Tóm lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin coi trong quá trình
phát triển của đời sống vật chất của mỗi thời đại kinh tế, các tư liệu sản xuất giữ
vai trò quan trọng, đặc biệt là các công cụ lao động, cái làm tăng cho sự phát
triển của sức lao động con người, của nguồn lực con người, mà còn là một trong
những yếu tố cấu thành của những quan hệ xã hội trong lao động sản xuất.
Ở Việt Nam hiện nay, có khá nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu và
đưa ra các quan niệm khác nhau về nguồn lực con người với sự xem xét từ nhiều
góc độ thể hiện như sau:
Theo Giáo sư Phạm Minh Hạc - một trong những chuyên gia hàng đầu
nghiên cứu về con người và nguồn lực con người ở Việt Nam thì nguồn lực con
người có thể xem là khái niệm công cụ để điều hành, thực thi chiến lược và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn lực con người “là nguồn lao động được
chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một cơng việc nào đó, tức
là những người lao động có kĩ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường
đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (10, 269). Hay “nguồn lực con người
là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực và phẩm chất” (10, 323)

Theo đánh giá của Liên hợp quốc thì nguồn lực con người là tất cả những
kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan
hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Quan niệm này có cách tiếp
cận thiên về chất lượng của nguồn lực con người.

16


Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): nguồn lực con người hay nguồn
nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn lực con người được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, nguồn lực con
người là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực
con người cho sự phát triển, do đó, nó bao gồm tồn bộ dân cư có thể phát triển
bình thường. Ở nghĩa hẹp, nguồn lực con người là khả năng lao động của xã hội,
là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ
tuổi lao động, có khả năng tham gia vào q trình lao động sản xuất xã hội, tức
là tồn bộ các cá nhân có thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu
tố về trí lực, thể lực, tâm lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế học phát triển lại cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân cư
trong độ tuổi qui định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được xem
xét, đánh giá ở hai phương diện: số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân
lực là chỉ qui mô, cơ cấu tuổi, giới tính; chất lượng nguồn nhân lực là khả năng
tổng hợp về trí lực, thể lực, kĩ năng, phong cách, đặc điểm lối sống, tinh thần và
đặc biệt là khả năng nghiên cứu, sáng tạo, tiếp thu khoa học - kĩ thuật, công nghệ
mới phục vụ phát triển kinh tế - xã hội...như vậy, đảm bảo nguồn nhân lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội chính là đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng cả về
số lượng và chất lượng.
Như vậy, hầu hết các nhà khoa học khi nghiên cứu về vấn đề con người tuy
ở nhiều góc độ khác nhau song đều thống nhất khái niệm nguồn nhân lực phản
ánh những vấn đề sau:

Thứ nhất: số lượng nhân lực. Nói đến nguồn lực con người của bất kì một
quốc gia nào địi hỏi đầu tiên đặt ra là có bao nhiêu người và sẽ có thêm bao
nhiêu người nữa trong tương lai. Đó là câu hỏi trong xác định nguồn lực con

17


người. Sự phát triển nguồn lực con người dựa trên hai nhóm: yếu tố bên trong
(nhu cầu thực tế cơng việc đòi hỏi phải tăng số lượng lao động), yếu tố bên ngoài
(sự gia tăng về dân số hay lực lượng lao động do di dân).
Thứ hai: chất lượng nguồn lực con người. Chất lượng nguồn lực con người
là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đó là yếu tố tổng hợp của
nhiều yếu tố bộ phận như trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kĩ năng, sức
khỏe, thẩm mỹ... của người lao động. Trong các yếu tố ấy thì trí lực và thể lực là
hai yếu tố quan trọng trong việc xem xét, đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Thể lực là năng lực thể chất của nguồn nhân lực, đây là tiêu chí khá quan
trọng về chất lượng nguồn nhân lực, thường bao gồm tiêu chí vì tình trạng sức
khỏe của con người như: chiều cao, cân nặng, bệnh tật, tuổi thọ, trạng thái thoải
mãi về tinh thần cũng như thể chất và xã hội của con người. Chính vì các tiêu chí
này, thể lực nguồn nhân lực phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phân phối thu nhập cũng như chính sách xã hội trước mắt và lâu dài của mỗi
quốc gia, nếu như các vấn đề liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng không được
giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn lực con người cả về
thể lực lẫn trí tuệ. Các điều kiện sống tốt sẽ giúp nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng
cường thể lực cùng với cải thiện nhanh về hình thể, trước hết là chiều cao và
trọng lượng người lao động.
Trí lực biểu hiện ở trình độ học vấn, trình độ chun mơn nghiệp vụ, chuyên
môn kỹ thuật của nguồn nhân lực, tinh thần, thái độ, tác phong làm việc...đây là
một tiêu chí có vai trò quan trọng trong đánh giá chất lượng nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn lực con người là trừu tượng, tuy nhiên, theo C.Mác: “Muốn cải

tạo bản tính chung của con người để làm cho nó có được kiến thức và những thói

18


quen khéo léo trong một ngành lao động nhất định,nghĩa là muốn trở thành một
sức lao động phát triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo
dục nào đó..”
Thứ ba: cơ cấu nhân lực. Đây là yếu tố không thể thiếu khi xem xét đánh
giá về nguồn nhân lực. Cơ cấu nhân lực thể hiện trên các phương tiện khác nhau
như: cơ cấu trình độ đào tạo, giới tính, độ tuổi... cơ cấu nguồn lực của một quốc
gia nói chung được quyết định bởi cơ cấu đào tạo và cơ cấu kinh tế theo đó sẽ có
một tỉ lệ nhất định nhân lực.
Tóm lại, nguồn nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm các yếu tố số
lượng, chất lượng và cơ cấu phát triển người lao động nói chung ở cả hiện đại
cũng như trong tương lai tiềm năng của mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi quốc
gia, khu vực và thế giới.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phản ánh một cách tổng quát
khái niệm nguồn nhân lực trên cả ba phương diện: trí lực, thể lực, nhân cách,
cùng với cơ sở khoa học cho sự phát triển các yếu tố đó là nền giáo dục tiên tiến
gắn liền nền khoa học hiện đại.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định khái niệm nguồn lực con
người được dùng để chỉ tổng hịa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực
lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai
của đất nước
Trong giai đoạn hiện nay, con người được coi là một tài nguyên đặc biệt,
một nguồn lực để phát triển. Vì vậy, việc phát huy, phát triển con người, phát


19


triển nguồn nhân lực chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống các nguồn lực khác.
Đầu tư cho con người là đầu tư mang tính chiến lược, là cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững.
Bàn về thuật ngữ “phát huy nguồn lực con người” hay “phát huy nguồn
nhân lực”, có nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Trong tiếng việt, thuật ngữ “phát huy” được hiểu là: làm cho cái tốt, cái
hay tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm. Trong thực tế có rất nhiều đối tượng có
khả năng phát huy (trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy), nhưng
dù ở đối tượng nào thì chủ thể phát huy vẫn là con người, từ đó có thể coi nguồn
lực con người là một hình thức phát huy đặc biệt. Dưới góc độ triết học, phát huy
nguồn lực con người được hiểu là quá trình đào tạo, bồi dưỡng và làm tăng
nguồn lực con người về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức; là q trình khai các
có hiệu quả các yếu tố đó trong lao động, học tập, chiến đấu và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình xây dựng và phát triển sản xuất xã hội thì vấn đề phát huy nguồn
lực con người thường liên quan đến mối quan hệ giữa Nhà nước với vai trò tổ
chức và quản lý đối với toàn bộ đội ngũ nhân lực với tư cách là bộ phận quan
trọng nhất của mỗi hệ thống sản xuất trong những giai đoạn lịch sử nhất đinh.
Phát huy nguồn lực con người xuất phát từ nhu cầu khách quan, trước hết
là địi hỏi của chính bản thân con người và đời sống cộng đồng xã hội, đồng thời
nó cũng có mặt chủ quan từ vai trị của chủ thể quản lí là Nhà nước thơng qua cơ
chế, chính sách, luật pháp tạo điều kiện cho nguồn lực con người phát triển.
Nói đến phát huy nguồn lực con người là chỉ ra các nguyên nhân, điều
kiện, môi trường, giải pháp cho con người trong các hoạt động cải tạo tự nhiên xã hội có hiệu quả. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều
hướng tới nhằm tạo ra một mơi trường xã hội nhằm kích thích con người hoạt

20



động sáng tạo và thỏa mãn những nhu cầu hợp lý của mình. Thực chất của quá
trình này là phát hiện, sử dụng những tiềm năng sáng tạo của con người như thể
lực, năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, thực chất của phát huy nguồn lực con người là tạo động lực để
họ phát triển tối đa tiềm năng của mình và quá trình này biểu hiện ra trước hết ở
phát triển chất lượng nguồn nhân lực. Phát huy nguồn lực con người là một quá
trình gồm hai mặt: một mặt vừa tích cực xây dựng nguồn lực con người về số
lượng hợp lý, song mặt khác lại phải sử dụng, khai thác nguồn lực đó sao cho
phù hợp từng mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia hay vùng lãnh
thổ. Nói cách khác là vừa tích cực hóa nguồn nhân lực, vừa nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Tích cực hóa nguồn lực con người là quá trình phát hiện, bồi dưỡng, kích
thích phát triển, đồng thời phát huy và sử dụng có hiệu quả tính tích cực, tự giác
và sáng tạo của con người, tạo động lực để con người phát triển xã hội.
Nâng cao chất lượng nguồn lực con người là hướng vào gia tăng các giá trị
về trình độ chun mơn, phẩm chất xã hội, lý tưởng chính trị, đạo đức...
Nếu q trình tích cực hóa nguồn lực con người nhằm hiện thực hóa tiềm
năng của chủ thể, tạo động lực phát triển thì nâng cao chất lượng nguồn lực con
người thông qua giáo dục - đào tạo nhằm tạo tiềm năng và chuẩn bị con người
cho sự phát triển xã hội.
Vì vậy, phát huy nguồn lực con người là q trình phát hiện, khơi dậy
tiềm năng, trí sáng tạo, nâng cao sự nỗ lực của mỗi cá nhân, mọi tầng lớp xã
hội, nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của con người
trong hoạt động thực tiễn gắn với mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.

21


Phát huy nguồn lực con người thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn lực con

người, sử dụng nguồn lực con người và nhân lên các động lực bên trong mỗi cá
nhân và cả nguồn lực con người.
Phát triển nguồn lực con người bao gồm giáo dục, đào tạo, sử dụng tiềm
năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Phát triển nguồn lực con người là sự biến đổi về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kĩ năng, kiến thức và tinh thần
cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn lực con người.
Khái quát hơn, phát triển nguồn lực con người chính là quá trình tạo lập và sử
dụng năng lực tồn diện của con người, vì sự phát triển về mặt kinh tế, tiến bộ về
mặt xã hội và sự phát triển toàn diện của mỗi con người và mọi người.
Phát triển nguồn lực con người nó khác với tăng trưởng nguồn lực con
người. Tăng trưởng nguồn lực con người là gắn với việc tăng về số lượng trong
lực lượng lao động, còn phát triển nguồn lực con người, ngoài tăng về số lượng
cịn có sự tăng về mặt chất lượng nguồn nhân lực. Phát triển nguồn lực con
người có vai trị và ý nghĩa quyết định hơn so với sự tăng trưởng nguồn nhân lực,
nhất là trong bối cảnh dân số, lao động và kinh tế nước ta hiện nay.
Như vậy, phát triển nguồn lực con người với nội hàm trên thực chất là đề
cập đến vấn đề chất lượng nguồn lực con người và khía cạnh xã hội của nguồn
lực con người của mỗi quốc gia. Nguồn lực con người chất lượng cao là khái
niệm dùng để chỉ một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chun
mơn, kĩ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động
về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ
thuật lành nghề). Do đó phát triển nguồn lực con người là phát triển con người cả
về thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội,

22


về đạo đức tình cảm và tâm hồn trong sáng tạo nên nguồn lực con người chất
lượng cao.

Sử dụng nguồn lực con người là quá trình tạo điều kiện cho con người
tham gia vào hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các
nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Q trình lao động sản xuất
đó là q trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất
nên việc khai thác và phát huy nguồn lực con người không thể tách rời việc tổ
chức nền sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi
vậy, sử dụng nguồn lực con người được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả
các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong bất kỳ
giai đoạn nào để phát triển kinh tế - xã hội cũng cần coi trọng việc khai thác,
phát huy, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện hoàn
cảnh cụ thể của từng địa phương, từng vùng miền.
Khơi dậy và nhân lên các động lực bên trong mỗi cá nhân và cả nguồn lực
con người tức là tạo động lực cho mỗi cá nhân có thể học tập, nghiên cứu, làm
việc và cống hiến hết mình vì bản thân và vì sự phát triển nói chung của xã hội.
Trong khn khổ một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu phát
huy nguồn lực con người ở khía cạnh phát triển nguồn nhân lực và khơi dậy các
động lực bên trong của nguồn lực con người.
1.1.2 Vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, con người được coi là một tài nguyên đặc biệt,
một nguồn lực để phát triển. Vì vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn

23


nhân lực chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống các nguồn lực khác. Đầu tư cho
con người là đầu tư mang tính chiến lược, là cơ sở vững chắc cho sự phát triển
bền vững.

Vai trò là động lực quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của nguồn lực con
người thể hiện ở ba mặt cơ bản sau:
Thứ nhất: sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi các
hình thái kinh tế - xã hội, mà trong lực lượng sản xuất, con người là một nhân tố
cấu thành hết sức quan trọng.(đây là mặt quan trọng nhất, quyết định nhất)
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Nó
nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã
hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kĩ năng lao động của họ và
tư liệu sản xuất, trước hết là cơng cụ lao động. Trong q trình sản xuất, lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao dộng kết hợp với
nhau tạo thành lực lượng sản xuất, trong đó, theo quan điểm của V.I.Lênin: “Lực
lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là người cơng nhân, là người lao
động” (30, 430). Thông qua lao động, con người dần trở thành lao động có trí tuệ
và lao động trí tuệ. Trí tuệ của con người khơng phải cái gì đó siêu nhiên, mà là
sản phẩm của tự nhiên và của lao động. Trong lao động, hàm lượng trí tuệ ngày
càng tăng lên, đặc biệt trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay, đã làm
con người trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, là
nguồn lực vô tận. Cùng với con người, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ
bản của lực lượng sản xuất. Trong mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố
“động” nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện năng lực thực tiễn của con người
ngày càng tăng thêm. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn gốc
dẫn đến sự thay đổi của các phương thức sản xuất, các hình thái kinh tế - xã hội:

24


“ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do
có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất
của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay

đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà
tư bản cơng nghiệp” ( 5, 187), mà trong lực lượng sản xuất con người là một
nhân tố mang tính chất quyết định. Như vậy, có thể đi đến kết luận, sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, đồng
nghĩa với việc khẳng định vai trò quan trọng của nguồn lực con người, của
nguồn lao động đối quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực con người là động lực của quá trình sản xuất, là chủ thể sáng
tạo ra những tư liệu lao động, trong đó nhân tố cốt lõi là công cụ lao động, những
đối tượng lao động mới chưa từng có trong tự nhiên. Đặc biệt nguồn nhân lực
trong lĩnh vực khoa học và cơng nghệ lại có ý nghĩa quan trọng. Đó là nhân tố
quyết định đối với việc thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế - xã hội. Nếu
thiếu đi những đội ngũ này thì khó có thể đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững: “Trên thế giới hiện nay, việc thành công của tăng trưởng kinh tế,
không chỉ phụ thuộc vào nguồn tài nguyên, vào vốn vật chất, mà yếu tố ngày
càng chiếm vị trí quan trọng là con người và quản lý” (17, 25). Có rất nhiều nhân
tố cấu thành nguồn nội lực: nguồn lực con người, đất đai, tài ngun, trí tuệ,
truyền thống... trong đó nguồn lực con người Việt Nam với trí tuệ truyền thống
dân tộc là trung tâm nội lực, là nguồn lực chính quyết định việc tăng trưởng kinh
tế. Nguồn lực con người cũng có vai trị chi phối các nhân tố khác trong q
trình tăng trưởng. Sở dĩ như vậy, vì so với các nguồn lực khác thì nguồn lực con
người là nguồn lực “sống”, nó khơng chỉ làm “sống” lại các tư liệu sản xuất mà

25


×