Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Tìm hiểu một số tập đoàn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.67 KB, 46 trang )

Tìm hiểu một số tập đồn báo chí trên thế giới và
chủ trương hình thành tập đồn báo chí ở VN
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
            Ở Việt Nam, các điều kiện khách quan và chủ quan gần như đã chín muồi cho việc
triển khai mơ hình tập đồn báo chí. Sau 20 năm đổi mới, báo chí Việt Nam đã lớn mạnh
về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa.
            Trên thế giới, từ hơn 100 năm nay, đã có việc các cơ quan báo chí sáp nhập thành
tập đồn, hướng đến mục tiêu lợi nhuận kinh tế, mở ra một huớng làm kinh tế cho ngành
cơng nghiệp báo chí – truyền thông, biến ngành này trở thành một ngành kinh doanh nhiều
lợi nhuận. Xu hướng của các tập đồn truyền thơng hiện nay là vươn ra ngoài lãnh thổ, bởi
sự phát triển của các tập đoàn trong nước đã đến hồi tới hạn. Trong khi đó, châu Á, trong
đó có Việt Nam ta, lại là một thị trường giàu tiềm năng và mới bước đầu được khai phá.
Cùng với đợt sóng này là đợt sóng tồn cầu hố, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào
WTO, như vậy, việc có một tập đoàn làm đối tác của các tập đoàn truyền thông khác, nắm
giữ thế chủ động được xem như là một việc làm cần kíp.
            Trên cơ sở nhận định tình hình trong và ngồi nước, nhà nước đã đưa ra chủ trương
cho phép hình thành các tập đồn báo chí, và trước mắt, tạo một số điều kiện nền tảng để
báo chí gia tăng tiềm lực kinh tế.  
             Đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một số mơ hình tập đồn báo chí trên thế giới và
vấn đề xây dựng tập đồn báo chí ở Việt Nam” muốn dự phần vào cơng việc mà Thứ
trưởng Bộ Văn hóa – Thơng tin Đỗ Q Dỗn đã chỉ ra: “Trên thế giới có nhiều tập đồn
báo chí. Mỗi mơ hình có những ưu điểm, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa
chọn, học tập để xây dựng một mô hình cho phù hợp. Đây là một vấn đề rất mới. Chúng ta
phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm”[27].
           
2. Tình hình nghiên cứu:
            Tập đồn báo chí là một mơ hình kinh tế báo chí đã xuất hiện từ rất lâu trên thế
giới, và chủ yếu được các nhà nghiên cứu báo chí –  truyền thơng trên thế giới tiếp cận
dưới hai góc độ: lịch sử báo chí và xã hội học truyền thơng. Do việc hình thành các tập
đồn báo chí ở các nước tư bản phương Tây tuân theo quy luật phát triển kinh tế, các


nghiên cứu phương Tây khơng nghiên cứu mơ hình kinh tế, mà chủ yếu nghiên cứu về vai
trị của các tập đồn truyền thông trong đời sống xã hội và đặc biệt là về tác động của
chúng đối với chất lượng báo chí.
            Riêng đối với các quốc gia đang phát triển có đặc điểm tương đồng với Việt Nam,
công tác nghiên cứu lại chú trọng đến mơ hình kinh tế, bởi thị trường truyền thông ở các
quốc gia này hoặc là chưa hình thành hoặc là đang cần tìm một hướng phát triển. Chính do
động cơ “đi tắt đón đầu”, các quốc gia này đã thực hiện các nghiên cứu về lý thuyết và
triển khai ứng dụng mơ hình tập đồn báo chí từ hơn chục năm trước đây. Ở Trung Quốc,
một quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam nhất, công tác nghiên cứu cũng đã
được triển khai từ trước năm 1996 – năm mà tập đồn báo chí đầu tiên (tập đồn báo chí
Quảng Châu) tun bố thành lập.  
            Tuy nhiên, do đặc thù về mặt chính trị, nhu cầu nghiên cứu về mơ hình tổ chức và
hoạt động của các tập đồn báo chí mới chỉ trở nên bức thiết ở xã hội Việt Nam trong thời
gian gần đây. Có thể nói, Quyết định 219 của Chính phủ tháng 9/2005 về việc phê duyệt
Chiến lược phát triển thơng tin đến năm 2010 đã chính thức khởi động cho các cơng trình
nghiên cứu về mảng đề tài này.
            Kể từ sau khi có chủ trương thành lập tập đồn, giới làm báo đã cơng khai bàn luận
về vấn đề “tập đồn báo chí”: làm thế nào? Như thế nào? Triển vọng ra sao? Một số báo
cũng bày tỏ tham vọng vươn mình thành tập đồn, như Tiền Phong, Viet Nam Net, Tuổi
Trẻ, SGGP, … Họ cũng tự mình tìm hiểu các mơ hình tập đồn báo chí trên thế giới để áp


dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc làm này chủ yếu mang tính nội bộ. Do vậy, cơng trình
NCKH SV này là một đề tài hoàn toàn mới mẻ và mang tính thời sự ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
            Tuy đây mới chỉ là một nghiên cứu mang tính chất khởi đầu, mục đích của đề tài là
hiểu rõ và gợi ý ứng dụng mơ hình tập đồn báo chí của các nước trên thế giới vào thực tế
truyền thông Việt Nam.
            Do vậy, đề tài có hai nhiệm vụ chính. Một là đem lại cái nhìn rộng rãi về các tập
đồn báo chí tiêu biểu trên thế giới, thông qua việc nghiên cứu mơ hình kinh tế, vai trị xã

hội, và tác động đối với đời sống truyền thơng. Hai là nhìn nhận lại thực trạng truyền thông
Việt Nam trong bối cảnh chuyển hướng sang hoạt động kinh tế báo chí, để từ đó đưa ra
những gợi ý ứng dụng phù hợp. Nhiệm vụ nghiên cứu mơ hình quản lý, do giới hạn về tầm
nhìn, bản lĩnh chính trị và trình độ nghiên cứu khoa học, xin được tạm gác lại.  
             
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:
            Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng. Các
phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, mô tả, phỏng vấn lấy ý kiến …
5. Giới hạn của đề tài:
            Đề tài “Tìm hiểu một số tập đồn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập
đồn báo chí ở Việt Nam” là một đề tài có trọng tâm nghiên cứu rõ ràng. Tuy vậy, trong
quá trình nghiên cứu, do hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo và năng lực xử lý thông tin
cũng như do giới hạn về các mối quan hệ giao tiếp trong giới báo chí, đề tài buộc phải giới
hạn ở một phạm vi phù hợp.
            Trong quá trình tiếp cận với rất nhiều tập đồn báo chí trên thế giới, người viết chỉ
chọn tìm hiểu và giới thiệu 2 tập đồn báo chí tiêu biểu của Mĩ (News Corp và Gannett), 6
tập đồn báo chí của Trung Quốc, và tập đoàn Singapore Press Holdings của Singapore.
            Trong quá trình khảo sát bước chuẩn bị thành lập tập đồn của các cơ quan báo chí,
người viết chỉ chọn tìm hiểu và tiếp cận với 6 cơ quan báo chí (chủ yếu trong lĩnh vực báo
in) là: Tiền Phong, VietNamNet, Thanh Niên, Sài gịn Giải Phóng, Saigon Times Group,
và Tuổi Trẻ.
           
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
            Trong thời gian qua, khái niệm “tập đồn báo chí” trở thành mơt đề tài bàn tán
trong giới báo chí – truyền thơng. Nói cách khác, chưa có định nghĩa chính thức về khái
niệm này ở Việt Nam. Ở mức độ nghiên cứu còn hạn chế, đề tài NCKH SV “Tìm hiểu một
số tập đồn báo chí trên thế giới và chủ trương hình thành tập đồn báo chí ở Việt Nam”
tạm thời đưa ra một định nghĩa. Ngoài ra, thơng qua q trình nghiên cứu các tập đồn báo
chí trên thế giới, người thực hiện cũng tạm thời đưa ra một số yếu tố đem lại cái nhìn tồn

diện về một tập đồn báo chí. Đây chính là ý nghĩa lý luận của đề tài.
            Về ý  nghĩa thực tiễn, có thể thấy đề tài NCKH SV này là một tài liệu tham khảo có
tính ứng dụng cho các các cơ quan báo chí trong q trình chuẩn bị tiến tới thành tập đồn
báo chí theo đúng chiến lược của Bộ Văn hố – Thơng tin. Ngồi ra, đề tài cũng có giá trị
tham khảo đối với SV chuyên ngành báo chí, đặc biệt là các SV muốn có một cái nhìn phổ
qt về thực trạng truyền thơng ở Việt Nam và thực trạng truyền thông thế giới.
7. Kết cấu:
          Đề tài gồm có 3 chương.
            Chương 1: Tổng quan về báo chí Việt Nam giai đoạn 2000 – 2005: tập trung
khái quát thực trạng báo chí – truyền thông ở Việt Nam trong những năm gần đây, phân
chia thành các mảng: báo in, báo nói – báo hình, báo trực tuyến, và những hiện tượng
truyền thông khác. Dựa trên cơ sở thực tế, người viết cho thấy nhu cầu phát triển năng
động hơn nữa của đời sống báo chí – truyền thơng Việt Nam chính là tiền đề bảo đảm sự
hình thành của các tập đồn báo chí trong tương lai, theo đúng định hướng của Nhà nước.
2


            Chương 2: Giới thiệu một số mơ hình tập đồn báo chí trên thế giới: tìm hiểu
sơ lược q trình hình thành các tập đồn báo chí trên thế giới, thử tiếp cận với khái niệm
“tập đồn báo chí” trên thế giới, giới thiệu đôi nét về một số tập đồn báo chí của Mĩ,
Trung Quốc, và Singapore.
Chương 3: Chủ trương hình thành các tập đồn báo chí ở Việt Nam: tập trung tìm
hiểu quá trình tư duy và chủ trương hình thành tập đồn báo chí ở Việt Nam của nhà nước,
đồng thời khảo sát bước chuẩn bị của các cơ quan báo chí được đánh giá là có triển vọng
thành lập tập đồn. 

3


Chương 1:

TỔNG QUAN VỀ BÁO CHÍ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 – 2005
          Trong 5 năm đầu của thế kỉ 21, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam có những
chuyển biến mạnh mẽ. Nhiều năm liền, tỉ lệ tăng trưởng GDP ở mức cao trung bình 7%,
đến năm 2005, đạt mức 8,4% [42]. Khơng khí sơi động là đặc điểm chung trên cả nước,
đặc biệt là ở những đô thị trung tâm, phát triển năng động, dẫn đầu là TPHCM. Đây chính
là điều kiện vơ cùng thích hợp cho những trào lưu đổi mới, cải cách để hội nhập. Với mong
muốn vươn lên sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam  đang trong giai
đoạn học hiểu về mọi mặt trong thế giới, nắm vững các quy tắc, luật lệ của thế giới.        
Kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng cao, trình độ dân trí phát triển (hiện
nay, tỉ lệ mù chữ ở Việt Nam chưa đầy 7%, “rất thấp so với thế giới” [42]). Người dân sẵn
sàng đầu tư tiền của, thời gian cho việc tiếp nhận thông tin, học tập, vui chơi giải trí
(những chức năng của báo chí), đó là cơ hội dẫn đến sự phát triển tất yếu của báo chí –
truyền thơng, theo đúng tinh thần: báo chí đồng hành với sự phát triển kinh tế đất nước.
            Theo tổng kết của Bộ Văn hoá – Thơng tin, trong thời kì đổi mới, “hệ thống báo chí
nước ta có bước phát triển quan trọng cả về loại hình, số lượng và chất lượng” [26], với đủ
các phương tiện truyền thông tiên tiến nhất trên thế giới. Ngồi sự phát triển khởi sắc của 3
loại hình báo chí truyền thống là báo in, báo nói, báo hình, là sự nở rộ của loại hình báo
điện tử (hay còn gọi là báo trực tuyến, báo online), và sự “diệu kì” của các loại hình báo
chí qua điện thoại di động. Thực sự, chúng tôi chưa dám khẳng định số liệu chính thức và
mới nhất về báo chí Việt Nam hiện nay, cũng như chưa có được số liệu tăng trưởng báo chí
trong vịng 5 năm trở lại đây. Số liệu được xem là chính thức đối với báo chí trong và
ngồi nước dừng lại ở mốc năm 2004, chủ yếu lấy từ hai nguồn: Bộ Văn hoá – Thông tin
(các phát biểu trước báo giới của Bộ trưởng Phạm Quang Nghị và Thứ trưởng Đỗ Quý
Doãn) và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung Ương (phát biểu của Trưởng Ban Nguyễn Khoa
Điềm). Các số liệu cập nhật về mảng báo nói, báo hình, báo trực tuyến và các thơng tin
khác chủ yếu trích dẫn từ các bài báo và các câu chuyện hậu trường nghề báo[1].   
1. Về mảng báo in:
Theo thống kê của Bộ Văn hoá – Thơng tin, nước ta hiện có 553 cơ quan báo chí, trong đó
có 157 tờ báo và 396 tạp chí với hơn 713 ấn phẩm báo chí và khoảng hơn 1000 bản tin
[26].

(Ngồi ra, cịn có một số liệu khác là 676 cơ quan báo chí, trong đó có 680 “loại báo in”
với hơn 600 triệu bản/năm[2].)
Theo nhận định của tác giả Nguyễn Lê Hoàn,“kể từ khi mở cửa kinh tế, số lượng báo viết
Việt Nam tăng lên nhanh chóng,  đến 2004 có hơn 500 cơ quan báo chí với khoảng trên
650 ấn phẩm thay vì 268 ấn phẩm vào năm 1992.” [15] Như vậy, chỉ trong vòng 12 năm,
số lượng ấn phẩm ở nước ta đã tăng gần gấp ba.
Về tổng số lượng phát hành, theo giáo trình “Cơng tác tổ chức và quản lý cơ quan báo chí”,
GV Bùi Huy Lan cho biết con số phát hành bình quân của gần 700 ấn phẩm báo, tạp chí,
bản tin, xuất bản là gần 2 triệu bản/ngày, trong đó tổng số phát hành của khoảng 160 tờ báo
là 1,7 triệu bản/ngày và của 400 tờ tạp chí là 300.000 bản/ngày. Cả nước có gần 20 tờ báo
xuất bản hàng ngày (được gọi và không được gọi là nhật báo), với con số phát hành
khoảng 1,2 triệu bản/ngày; có gần 20 bản tin thời sự, tin chuyên ngành, tin Thông Tấn Xã
xuất bản hàng ngày với số lượng phát hành hàng trăm ngàn bản/ngày. Tính bình qn số
phát hành các ấn phẩm hàng năm là 600 triệu bản/năm. Có những tờ báo đạt tới con số
phát hành 380.000 bản/ngày như tờ Tuổi Trẻ (số liệu mới nhất – 2006), song cũng có
những tờ báo chỉ đạt ở mức 1500 – 2000 bản/ngày như hầu hết các tờ báo Đảng ở địa
phương.
            Thị trường báo chí sơi động nhất vẫn là TP.HCM. Đây là một thị trường đầy tiềm
năng, nơi diễn ra các cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các tờ báo.

4


Trang web của Sở Văn hố – Thơng tin TPHCM, ở đoạn “Giới thiệu chung về báo chí
TPHCM”, cho biết cả TP có 38 đơn vị báo chí và 113 văn phịng đại diện của báo chí
Trung ương và các tỉnh, cung cấp một lượng thông tin lớn cho nhân dân thành phố thông
qua hàng chục đầu báo mỗi ngày. Ngồi ra, các tồ soạn cịn ra phụ san định kỳ, số đặc
biệt nhân các ngày lễ lớn, các dịp kỉ niệm của dân tộc, hoặc nhân ngày thành lập ngành.
Tình hình đầu năm 2006 lại càng cho thấy rõ sự phát triển quyết liệt ở mảng báo in:
TPHCM từ chỉ có 1 tờ nhật báo đúng nghĩa  (tờ Sài Gịn Giải Phóng) nay đã có đến 3 tờ

(thêm Tuổi Trẻ và Thanh Niên). Các tờ báo cũng đồng loạt ra những ấn phẩm mới, nhất là
ấn phẩm ngày chủ nhật (cuộc chiến của báo Tuổi Trẻ với báo Thanh Niên, báo Pháp Luật),
tạo nên sự đa dạng các ấn phẩm báo chí ngay trong cùng một cơ quan. Các báo có sự cải
tiến về mặt nội dung và hình thức, thêm nhiều chuyên mục mới, đặc biệt có sự đổi mới ở
các trang quảng cáo, (những tờ báo lớn thường tặng kèm trang thông tin tiêu dùng). Từng
bước, các báo rèn luyện tư duy kinh tế, bên cạnh sự phát triển của hai hoạt động quảng cáo
và PR. 
Về mảng tạp chí, tác giả Văn Hùng, cơng tác ở Vụ Báo chí (Ban Tư tưởng – Văn hố
Trung Ương) qua bài viết “Phát triển và quản lý hệ thống tạp chí”[3] đã cho thấy một nhận
định gần như tồn diện về tạp chí ở nước ta. Theo đó, hiện nay, số đầu tạp chí lớn hơn
nhiều so với số đầu báo, có gần 400 tạp chí các loại trong khi chỉ có khoảng 200 đầu báo.
Nguyên nhân là sự tăng đột biến của nhu cầu xuất bản tạp chí của nhiều cơ quan, bộ ngành,
tổ chức kinh tế, tổ chức hội, liên hiệp các hội. Nguyên nhân này không những chi phối sự
phát triển của hệ thống tạp chí theo diện rộng (số lượng) mà còn theo chiều sâu (chất
lượng). Các ấn phẩm mang tính xã hội và thương mại cao góp phần dẫn đến sự hình thành
và sơi động hố thị trường báo chí những năm gần đây. Từ các tạp chí xuất bản hàng quý,
hai tháng, hàng tháng, đến nay, nổi trội là các tờ tạp chí ra 2 – 4 kỳ/tháng (Tạp chí Thế giới
mới, Tạp chí Kinh tế châu Á Thái Bình Dương, Tạp chí Thương mại, Tạp chí Thời trang
trẻ, Tạp chí Tiếp thị Việt Nam, Tạp chí Gia đình Việt Nam …). Xu hướng tăng kỳ phát
hành là kết quả của sự ra đời loại tạp chí mang tính giải trí, đánh trúng thị hiếu của độc giả,
đẩy số phát hành lên cao.
Hiện nay, có thể thấy rõ sự phân chia hai mảng tạp chí: tạp chí chuyên ngành – nội bộ[4]
và tạp chí mang tính giải trí. 
Các tạp chí chuyên ngành – nội bộ thường có con số phát hành khơng đáng kể. Một số tờ
vẫn phải sống nhờ bao cấp, chỉ có khoảng 200 đầu tạp chí trực thuộc liên hiệp hội, các hội
khoa học, hội kinh tế, hội nghề nghiệp, đoàn thể chính trị - xã hội, các hội phi Chính phủ,
… được xếp vào dạng đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ chế tự trang trải. Chính
thực trạng “nghèo nàn” của một số tạp chí bao cấp đã góp phần đưa đến một nhận xét của
cơ quan quản lý báo chí:  một số tạp chí có cùng tơn chỉ mục đích, dẫn đến sự thừa thãi và
lãng phí.

Mảng tạp chí mang tính giải trí đang chiếm thị phần lớn trên thị trường báo và tạp chí, với
số phát hành xấp xỉ hàng vạn bản mỗi tuần, thậm chí cịn lấn lướt cả một số tờ tuần báo
yếu về lực. Mặc dù chỉ mới ra đời khoảng vài chục đầu tạp chí, mảng tạp chí này chính là
một trong những động lực thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, tạo đà phát triển cho làng báo. Đó là
các tạp chí Thời Trang Trẻ, Tiếp Thị & Gia Đình, Cẩm nang mua sắm, Sành Điệu, Mốt,
Mốt và Cuộc sống, Tiếp Thị Việt Nam, …
Sở dĩ nhận định các tạp chí nói trên thúc đẩy cạnh tranh kinh tế, tạo đà phát triển cho làng
báo chính là vì có hiện tượng một số tờ báo đã có thương hiệu, và cả các tờ đang gặp “khó
khăn” cũng xin ra số phụ cuối tháng ở dạng tạp chí – như một lối ra, lối thốt hiểm. Đó là
các tờ như Sành điệu của báo Du lịch Việt Nam, Thị trường Tiêu dùng của báo Quốc tế,
Người Đẹp của Tiền Phong, Đẹp của Thơng tấn xã, tạp chí truyền hình của các Đài THViệt
Nam, Đài THHN, Đài TH TP.Hồ Chí Minh …
Góp phần làm tồn diện hơn bức tranh về tình hình báo chí của Việt Nam những năm gần
đây, cũng khơng thể bỏ qua vai trị của hãng thơng tấn quốc gia – Thông tấn xã Việt Nam
5


(TTXVN). Ngồi chức năng là ngân hàng tin, TTXVN cịn là cơ quan chủ quản của nhiều
tờ báo, trong đó có các tờ Tin Tức, Viet Nam News, … TTXVN có bề dày lịch sử hơn 60
năm hoạt động, với mạng lưới phân xã ở 64 tỉnh thành trong cả nước và hơn 20 phân xã
thường trú ở nước ngoài, chuyên cung cấp cho Trung ương Đảng, Chính phủ, các phương
tiện truyền thông đại chúng, các cơ quan nghiên cứu trong và ngồi nước cùng hàng triệu
độc giả những thơng tin về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngồi nước [2].
Qua đó, có thể thấy làng báo Việt Nam bắt rất nhạy những xu hướng phát triển mới của
làng báo thế giới: kiếm lời bằng việc kinh doanh tạp chí. Báo in đang “thất thế” trên thị
trường báo chí thế giới và trong cuộc đua cạnh tranh với các loại hình truyền thơng khác,
nhưng ở TP.HCM, tình hình chưa đến nỗi như vậy. Vấn đề khơng chỉ là truyền thống và
tâm lí, vấn đề cịn là báo chí nước ta mới chỉ đang ở trong giai đoạn phát triển, chưa bão
hồ.
2. Về mảng báo nói – báo hình:

            Do lịch sử gắn liền của đài phát thanh – và đài truyền hình ở nước ta và do kiến
thức chun sâu cịn giới hạn, người viết trình bày gộp hai mảng báo nói (phát thanh) và
báo hình (truyền hình).
            Tổng hợp thơng tin từ Bộ Văn hố – Thơng tin, giáo trình “Cơng tác tổ chức và
quản lý báo chí” của GV Bùi Huy Lan, và thơng tin trên một số báo, có thể thấy sự phát
triển về số lượng của các đài phát thanh gần như ở mức bão hồ, trong khi đó, mảng báo
hình lại có sự khởi sắc bởi sự xuất hiện của truyền hình cáp, truyền hình số, truyền hình
Internet.
            Tính đến năm 2004, nước ta có khoảng 70 đài Phát thanh – Truyền hình, trong đó
có 2 đài Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam), 4 trung tâm
truyền hình khu vực (Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Cần Thơ), và 64 đài ở 64 tỉnh, thành phố.
Ngoài TP.HCM tổ chức đài phát thanh, đài truyền hình riêng, tỉnh Phú Yên chỉ có đài phát
thanh, các tỉnh, thành khác tổ chức chung thành một đài Phát thanh – Truyền hình [14].
Ngồi ra, mạng lưới cơ sở có trên 600 đài truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài đã
phát sóng FM, và có gần 9000 đài truyền thanh, trạm phát lại, chuyển tiếp phát thanh –
truyền hình ở cơ sở phường, xã, tức gần một nửa số xã trong cả nước có trạm truyền thanh.
            Căn cứ vào các con số như đã nêu ở trên, có một nhận định phổ biến trong giới báo
chí: Việt Nam có một hệ thống Phát thanh – Truyền hình từ Trung ương đến các tỉnh,
thành, huyện, xã hết sức hùng mạnh. 
Tuy nhiên, bên cạnh những nhận định khả quan theo hướng “biểu dương lực lượng”, vào
khoảng cuối năm 2005, theo tác giả Đinh Phong, sự xuất hiện của nhiều đài Phát thanh –
Truyền hình làm ăn khơng hiệu quả là một sự “chơi sang”, thừa thãi, lãng phí vì hầu hết
vẫn phải bao cấp. Trong bài viết “Có cần thiết xây dựng 64 đài truyền hình, đài phát thanh
địa phương hay khơng?”, Đinh Phong nhận định: “Ít có nước nào trên một diện tích khơng
lớn lại có hệ thống phát thanh, truyền hình quá nhiều như ở nước ta.” Thật vậy, ở Hà Nội,
dẫu đã có 2 đài Trung ương, vẫn có thêm đài PT – TH Hà Nội, ở Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ,
bên cạnh đài khu vực vẫn tồn tại các đài PT – TH địa phương. Trong khi đó, các đài địa
phương chỉ có một số chương trình riêng biệt, tự sản xuất như chương trình thời sự, phim
chun đề, phim tài liệu, cịn lại là tiếp sóng đài khu vực và đài quốc tế, chiếu phim giải trí
thu quảng cáo. Ngồi một số đài địa phương ăn nên làm ra như Đài PT – TH Bình Dương,

Vĩnh Long, các đài ở tỉnh nhỏ thì thiếu máy móc, thiết bị, thiếu tiền trang trải, nhuận bút
thấp. 
Theo đó, sự khởi sắc của hai loại hình báo nói – báo hình tập trung chủ yếu ở các đài
Trung ương, và ở các tỉnh, thành lớn.
Hiện nay, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam đã tăng thời lượng, diện
phủ sóng và có các kênh riêng phục vụ cho thông tin đối ngoại và đồng bào người Việt
định cư, sinh sống ở nước ngoài [38]. Cụ thể, Đài Tiếng nói Việt Nam, cánh chim đầu đàn
6


của ngành phát thanh Việt Nam đã phát 193g/ngày trên 6 hệ chương trình đối nội và đối
ngoại, phát bằng 11 thứ tiếng nước ngoài và 9 thứ tiếng dân tộc, với tổng cơng suất trên
8000 KW, tín hiệu được truyền dẫn qua vệ tinh; Đài Truyền hình Việt Nam phát trên 5
kênh đối nội và đối ngoại, với thời lượng trên 60 giờ mỗi ngày. Từ đầu năm 2000, Đài
THVH đã truyền qua vệ tinh, phủ sóng đến các nước Châu Mỹ, Châu Âu và nhiều khu vực
trên thế giới. Ước tính, hệ thống phát thanh đã phủ sóng được khoảng 95% lãnh thổ và hệ
thống truyền hình phủ sóng được 85% lãnh thổ[5].
Đó là chỉ nói về mặt kĩ thuật, chun mơn. Ngồi điều đó, cần đánh giá ngành Phát thanh –
Truyền hình của Việt Nam trên phương diện làm kinh tế. Bởi vì, hiện nay, truyền hình
đang trong q trình xã hội hóa, đặc biệt có sự xuất hiện của truyền hình trả tiền (pay –
TV). Đây là một miếng “bánh” lớn mà nhiều đơn vị đang muốn đầu tư vào.
            Truyền hình trả tiền đã có ở Việt Nam từ lâu, bắt đầu từ sự ra đời của Trung tâm
Truyền hình cáp Việt Nam vào năm 1995. Sự phát triển về mặt công nghệ đã đưa truyền
hình cáp nhanh chóng sốn ngơi truyền hình analog (truyền hình truyền thống). Trong
vịng vài năm trở lại đây, truyền hình cáp khơng cịn là đặc quyền hưởng thụ của những
người giàu có. Hiện tại, phổ biến là truyền hình kĩ thuật số mặt đất (do VTC cung cấp),
truyền hình số vệ tinh DTH (ĐTH Việt Nam cung cấp), truyền hình cáp (do SCTV- Cơng
ty Truyền hình cáp Saigontourist, HTVC, VCTV, HaCTV và một số đài địa phương cung
cấp), mới nhất là truyền hình Internet (truyền hình băng thơng rộng IPTV do FPT cung
cấp).

            Tính đến năm 2006, cả nước có 20 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền,
phục vụ 460.700 thuê bao; riêng truyền hình kỹ thuật số mặt đất VTC phục vụ khoảng 2
triệu hộ dân. Mỗi mạng truyền hình cáp hiện nay trung bình cung cấp khoảng 25 kênh
(trong đó 7-10 kênh là truyền hình quảng bá của trung ương và địa phương), cịn lại là các
kênh truyền hình phổ biến như: Cartoon Network, Discovery, Star Sport, MTV, HBO, Star
Movies...[45]
            Tuy nhiên, theo nhận định từ Hội nghị “Đánh giá và trao đổi kinh nghiệm về cơng
tác quản lý hệ thống truyền hình trả tiền” do Bộ VH-TT tổ chức, ngoài VTV và HTV, đa
số các đài khác chưa đủ năng lực để sản xuất các chương trình riêng cho lĩnh vực truyền
hình trả tiền. Các đài này chủ yếu sử dụng các kênh quảng bá miễn phí quốc tế và tiếp tục
xài “chùa” một số kênh, dù Công ước quốc tế Brussel về bảo vệ bản quyền tín hiệu truyền
hình đã có hiệu lực ở Việt Nam. Lí do là nhà đài khơng đủ khả năng mua bản quyền, do
chiến thuật sở hữu kênh “độc quyền” đẩy giá bản quyền lên cao; lại cũng do nhà đài không
thể trao đổi thêm kênh truyền hình của các địa phương bạn vì lí do cạnh tranh quảng cáo,
do không đủ khả năng biên, phiên dịch các kênh nước ngoài theo đúng quy định của Bộ
Văn hố – Thơng tin; …
             Nếu tạp chí mang tính giải trí thổi một luồng gió mới vào đời sống của làng báo in
thì sự xuất hiện của truyền hình trả tiền, với những bước chuyển đổi ngoạn mục, làm thay
đổi diện mạo của ngành truyền hình ở Việt Nam, đẩy nhanh tốc độ sinh lợi của ngành
truyền hình, với lợi nhuận chia đều cho cả nhà đài, các dịch vụ ăn theo, và chủ sở hữu các
kênh truyền hình quốc tế. Đương nhiên, công chúng cũng hưởng lợi từ sự đa dạng các kênh
truyền hình. Sự phát triển của truyền hình trả tiền là bước tập dượt chuẩn bị cho việc hội
nhập quốc tế trên lĩnh vực truyền thông, tiến tới nắm giữ một trong những thế mạnh của
nền kinh tế báo chí.
3. Về mảng báo trực tuyến:
Theo nhà báo Lê Minh Quốc trong “Hỏi đáp báo chí Việt Nam”, tờ báo trực tuyến đầu tiên
của Việt Nam là tờ Nhân dân điện tử, ra đời vào 21.6.2000, tức là chỉ 4 năm sau khi tờ báo
điện tử đầu tiên của nhân loại – tờ Mainichi Shimbun của Nhật Bản (3. 1996) – ra đời. Rõ
ràng, báo trực tuyến là thành tựu phát triển của nền báo chí Việt Nam thế kỉ 21, đã có 6
năm hình thành và phát triển. Bên cạnh dữ liệu này, theo Trung tâm Internet Việt Nam

(Việt NamNIC), từ 3 – 12 – 1997, Việt Nam đã có tờ báo điện tử đầu tiên là tạp chí Quê
Hương (đến ngày 26/12/2000 tờ này mới chính thức được Bộ Văn hố – Thơng tin cấp
7


phép – NV), tức là 5 năm sau khi tờ báo điện tử đầu tiên trên thế giới – Chicago Online ra
đời (1992). Từ đó, trung tâm này đưa ra nhận định, tốc độ tăng trưởng về số lượng của báo
trực tuyến còn thấp, số lượng đầu báo còn khiêm tốn [3]: từ 1997 – 2004, Việt Nam chỉ có
50 website báo điện tử, trong khi đó thế giới tăng từ 154 tờ (1996) lên đến 14.537 tờ
(2003). 
Tuy vậy, “thống trị” mạng Internet trong buổi ban đầu lại là các trang web dịch vụ thơng
tin dưới hình thức dịch vụ giá trị gia tăng của các công ty khai thác Internet như Công ty
phần mềm và truyền thông VASC (tờ Viet Nam Net chính thức là báo vào năm 2003, trước
đó là trang web Việt Namn.Việt Nam), Cơng ty FPT (Tờ Việt NamExpress ra đời vào
26/2/2001), … Xu hướng này tiếp tục phát triển với sự “nâng cấp” các trang web dịch vụ
giá trị gia tăng lên thành báo điện tử của các công ty quảng cáo. Sự kiện trang web
24h.com.vn (Công ty Cổ phần Quảng cáo trực tuyến Hà Nội) bị đóng cửa “tạm” vào qng
đầu năm 2006 vì hoạt động như một tờ báo trực tuyến là sự minh chứng cho xu hướng này.
Tờ này sẽ chính thức ra mắt sau khi có giấy phép.
Cuối năm 2003 đến đầu năm 2004 được đánh giá là giai đoạn “nở rộ” của các tờ báo trực
tuyến, đánh dấu nhận thức thời đại của các toà soạn báo truyền thống về tầm quan trọng và
vị trí trong lịng độc giả của báo trực tuyến, đặc biệt là hướng tới phục vụ đối tượng bạn
đọc nước ngoài. Hàng loạt các tờ báo như Tuổi Trẻ Online, Thanh Niên Online, Hà Nội
Mới Online, Thể thao Việt Nam Online, … xuất hiện [3], bước đầu chí là bản sao của tờ
báo giấy của chính báo mình và lấy lại thơng tin từ các báo khác, nhưng càng về sau, “cuộc
đua” báo trực tuyến lại càng gay cấn, với việc các toà soạn online chủ động làm tin độc lập
với báo giấy, phát huy ưu điểm tương tác – giao lưu của loại hình báo trực tuyến (đặc biệt
là từ nửa cuối năm 2005 trở lại đây). Gần đây, các toà soạn online cũng cố gắng cho ra đời
các ấn bản tiếng Anh, tiếng Trung để phục vụ cho nhu cầu hội nhập như Nhân Dân, Viet
Nam Net, Thanh Niên, Sài Gịn Giải Phóng, …

Tính đến đầu năm 2006, bộ trưởng Phạm Quang Nghị cho biết cả nước có 82 tờ báo điện
tử đang hoạt động. Trong khi đó, con số thống kê chính thức vào năm 2004 của Bộ Văn
hố – Thơng tin cho thấy, kể từ khi luật định vào năm 1999, Việt Nam có trên 50 đơn vị
báo điện tử và nhà cung cấp thông tin, với khoảng 2.500 trang web đang hoạt động.
“Thị trường” báo trực tuyến Việt Nam, mặc dù vẫn chưa “ăn nên làm ra” (chỉ mới bước
đầu thu lợi nhuận từ quảng cáo, chủ yếu sống dựa vào báo giấy hoặc các hoạt động kinh
doanh khác của đơn vị đầu tư), song hiện đang có xu hướng phát triển rầm rộ vì tính chất
thời đại và tiện ích của loại hình báo chí này, đồng thời luồng quảng cáo cũng đang đổ về
loại hình báo chí này. Ơng Nguyễn Tuấn Anh, tổng biên tập của Viet Nam Net nói đến chỗ
khó của một tờ báo điện tử: “Nói gì thì nói, với mình đây là cơ quan kinh doanh vì khơng
được nhà nước bao cấp, bù lỗ. Hiện nay, mỗi năm Công ty VASC vẫn phải bù lỗ cho Viet
Nam Net vài tỷ … Khó khăn nhất với báo điện tử hiện nay là làm thế nào để thu được tiền.
[31]” Bên cạnh nỗ lực tìm đầu vào cho báo trực tuyến, là xu hướng thí điểm tích hợp các
loại hình truyền thơng khác, phát huy thế mạnh của báo trực tuyến, đi đầu là các tờ Việt
NamExpress, TTO,...
Thứ trưởng Bộ VH – TT Đỗ Quý Doãn trả lời phỏng vấn báo điện tử Viet Nam Net vào
ngày 25/2/2004 đã nhận định: “Báo điện tử là một “trận địa” rất được coi trọng” [27]. Theo
đó, trong chủ trương phát triển có trọng điểm hệ thống báo chí, Chính phủ ưu tiên phát
triển mảng báo trực tuyến, bởi đây là một trong những xu hướng phát triển rất lớn, hội tụ
công nghệ thông tin, truyền thông, viễn thông, hay nói cách khác, tích hợp các loại hình
báo chí truyền thông trên nền Internet nhiều ưu điểm như thuận lợi, nhanh, không bị hạn
chế về thời gian, không gian, biên giới, …
Theo nhận định của các nhà chuyên môn, báo trực tuyến trong tương lai sẽ lấn lướt thị
phần quảng cáo của báo in.
 
8


4. Những hiện tượng khác trong đời sống báo chí – truyền thông:
            Sự nở rộ của các công ty quảng cáo, các hãng phim tư nhân, … làm cho đời sống

báo chí - truyền thơng[6] của Việt Nam trong vịng 5 năm trở lại đây càng thêm sơi động.
Kinh doanh dịch vụ quảng cáo, cũng như làm phim là một cánh cửa chỉ mới hé mở ở Việt
Nam. Đây chính là 2 loại hình truyền thơng làm kinh tế hiệu quả nhất.
            Theo Hiệp hội Quảng cáo TP.HCM, cả nước hiện nay có khoảng 3000 cơng ty
quảng cáo, 70% hoạt động ở TP.HCM, trong đó, đáng kể có 10 công ty quảng cáo đúng
nghĩa chuyên nghiệp và trên dưới 30 cơng ty quảng cáo nước ngồi hoạt động dưới nhiều
hình thức khác nhau.
            Những con số dự báo về tiềm năng của thị trường quảng cáo rất khả quan. Kết quả
khảo sát từ Ad age report 2004 cho thấy giá trị thị trường quảng cáo truyền thông trong
nước mỗi năm khoảng 200 triệu USD, và mỗi năm thị trường này tăng trưởng từ 30% 40%.
            Năm 2005, ước tính thị trường quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đạt
mức xấp xỉ 300 triệu USD [25]. Tuy vậy, hiện nay, 80% doanh thu của thị trường quảng
cáo Việt Nam thuộc về các cơng ty nước ngồi, dẫn đầu về thị phần là J.W.Thompson
thuộc tập đồn WPP gồm 4 cơng ty “con” là Mindshare, Ogilvy & Mather, J.W.Thompson
và Y & R (40%) , kế đó là những “đại gia” như Dentsu, Sattchi & Sattchi, McCann... Công
ty quảng cáo trong nước có tầm cỡ nhất Việt Nam hiện nay là Đất Việt, với doanh thu ước
tính khoảng 10 – 15 triệu USD/năm. Lí do dẫn đến sự chênh lệch này, một phần là ở đội
ngũ các nhà quảng cáo Việt Nam ít người được đào tạo một cách bài bản, phần khác do
vốn đầu tư và kinh nghiệm đang là ưu thế của các cơng ty nước ngồi.
            Rất ít cơ quan báo chí của Việt Nam khai thác được thị trường tiềm năng này, đa số
chỉ dừng lại ở các phòng quảng cáo tiếp nhận quảng cáo từ các đơn vị làm dịch vụ quảng
cáo. Tuy nhiên, thời cơ để chiếm lĩnh thị trường quảng cáo đang mở rộng cửa với tất cả
mọi người, nhất là khi tính đến năm 2005, ngành quảng cáo ở Việt Nam chỉ mới tròn 10
tuổi. Tất cả hãy đang cịn ở phía trước, và hứa hẹn sẽ có sự thay đổi lớn. Ơng Alan
Couldrey, Giám đốc điều hành Công ty Ogilvy & Mather khu vực Đông Nam Á đưa ra dự
báo trong bài “Nhân lực ngành quảng cáo sẽ có thay đổi lớn!” đăng trên Người Lao Động,
“thị trường Việt Nam đang thay đổi rất nhanh. Lúc này là thời điểm mà các thương hiệu
mạnh trong nước phát triển và bành trướng. Dĩ nhiên các cơng ty, tập đồn quốc tế vẫn sẽ
tiếp tục nắm giữ thế mạnh và có rất nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới đã được
người Việt Nam chấp nhận. Vì vậy sự phân biệt đang ngày càng trở nên lu mờ giữa đâu là

một thương hiệu trong nước và đâu là một thương hiệu quốc tế. Đây là những bước phát
triển rất thú vị chứng minh rằng thị trường Việt Nam đang ngày càng phát triển và hoàn
thiện”.
Đời sống người dân nâng cao, những yếu kém trong thực trạng phim truyện Việt Nam, khi
đem so sánh với phim truyện nước ngoài, lại càng lộ rõ . Sau rất nhiều thất bại, trong
khoảng 5 năm trở lại đây, Việt Nam đầu tư nhiều chất xám và tiền của vào việc làm ra các
bộ phim đứng được trên thị trường, không sống nhờ vào bao cấp của nhà nước. Tiên phong
trong xu hướng này là một số đài truyền hình lớn trong nước (nổi bật ở phía Nam là Hãng
phim TFS của Đài Truyền hình TP.HCM và ở phía Bắc là Trung tâm sản xuất Truyền hình
Việt Nam VFC). Song cái mới trong thời gian gần đây là  sự nở rộ của các hãng phim tư
nhân. Ở buổi đầu, họ bắt tay với các đài truyền hình để làm các game show, talk show, …
như hãng phim Lasta (hợp tác với tập đoàn Kantana của Thái Lan). Về sau, họ mạnh dạn
tiến sang lĩnh vực điện ảnh và phim truyền hình, và gặt hái một số thành tựu nhất định do
thị trường này đã bỏ ngỏ quá lâu. Tính đến năm 2006, có khoảng 20 hãng phim tư nhân
đang hoạt động theo chủ trương xã hội hố phim truyền hình, sản xuất và kinh doanh trong
lĩnh vực điện ảnh. Nổi bật trong số những hãng phim “trẻ” này là Hãng phim Thiên Ngân,
Phước Sang, HK Film, Phim Việt, M & T Pictures, …Xu thế Việt kiều về nước hợp tác mở
hãng phim cũng không hiếm, như trường hợp ra đời của hãng phim Kỳ Đồng, và mới đây
9


là hãng Chánh Phương phim của Nguyễn Chánh Tín và Phạm Nghiêm, tốt nghiệp ĐH
Điện ảnh Nam California.
            Tình hình ở Việt Nam cho thấy giữa các công ty quảng cáo và hãng phim tư nhân
có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, tuân theo quy luật phát triển của thị trường truyền thơng.
Có các cơng ty quảng cáo tiến cơng sang lĩnh vực làm phim và ngược lại, có những hãng
phim nhận làm phim quảng cáo. Nguồn nhân lực của hai bộ phận này “chi viện” cho nhau,
đôi khi có cùng chủ  quản. Cả đơi bên, các hãng phim tư nhân và công ty quảng cáo như
Đất Việt, Cát Tiên Sa, Việt Image, HK Film, Fanatic, Á Mỹ, … hiện đang tập trung khai
thác thị phần  trên dưới 100 kênh truyền hình của 70 đài PT-TH trong cả nước, mỗi kênh

phát sóng trung bình 18h/ngày, một số phát sóng 24/24 (chưa kể các kênh tiềm năng của
truyền hình cáp). Tính ra, trung bình mỗi ngày, các đài truyền hình trong cả nước cần
khoảng trên 400 tập phim truyện mới đủ nhu cầu phát sóng, trong khi đó, số đài truyền
hình đủ khả năng sản xuất phim truyền hình chỉ đếm trên đầu ngón tay và cả VFC cộng với
TFS cũng chỉ làm được khoảng 300 tập phim/năm [19]. Điều này sẽ mở đường cho tính
cạnh tranh và đẩy chất lượng phim truyện Việt Nam lên, thực tế đã và đang chứng minh
điều đó.
            Ngồi lĩnh vực quảng cáo, xuất bản và phim, xu hướng “xã hội hoá” (chưa phải là
kinh tế hoá) cũng tạo ra nhiều hiện tượng mới trong đời sống báo chí – truyền thơng Việt
Nam, tiêu biểu là ở TP.HCM, trong đó có một vài hiện tượng phức tạp mà theo đánh giá
của một số nhà quan sát là nhà nước chưa quản lý được. Đặc biệt nhất hiện nay, việc các
công ty quảng cáo liên kết với một số cơ quan chủ quản để kinh doanh báo chí dưới hình
thức các hợp đồng sản xuất và bán quảng cáo trọn gói (hợp pháp). Việc làm này khiến
nhiều người lo ngại quảng cáo sẽ chi phối nội dung truyền thơng, song thực chất, đây là
một hình thức báo chí “tiền tư nhân”, như đã nói ở trên, một lối ra cho các đơn vị cần “cải
thiện” đời sống hoặc cần cải tổ lại phương thức quản lý, điều hành và tổ chức làm báo cho
hiệu quả hơn, gia tăng tiềm lực kinh tế của các báo. Hiện tượng tạp chí mang tính thương
mại – giải trí cũng từ đây mà ra, như các tờ Tiếp Thị & Gia Đình, Thế Giới Văn Hố (tờ
Văn hố – Thông tin trước đây), Thể Thao Ngày Nay của công ty quảng cáo Hoa Mặt Trời
(Sunflower), tờ Doanh Nhân Sài Gịn Cuối Tuần, VTM, Nội Thất, … của cơng ty quảng
cáo NVV. Cũng sẽ đến lúc ngoài khu vực báo chí thời sự tổng quát (báo chính trị xã hội),
nhà nước nên để cho tư nhân khai thác các mảng báo chí thiên về thơng tin tiêu dùng – giải
trí – nâng cao chất lượng cuộc sống.
            Hiện nay, cũng có xu hướng tổ chức đa loại hình báo chí trong cùng một cơ quan
báo chí: báo in kết hợp với báo trực tuyến (phần lớn các toà soạn báo in hiện nay có thiết
lập trang online), báo trực tuyến kết hợp với báo hình, báo nói (các trang báo trực tuyến
hiện đang thí điểm mơ hình tích hợp này), báo hình, báo nói kết hợp với báo in và báo trực
tuyến (các đài Phát thanh – Truyền hình từ sớm đã cho ra đời các tạp chí truyền hình và
mới đây là đưa vào sử dụng trang báo trực tuyến). Tuy nhiên, phần lớn báo trực tuyến
trong dạng thức tích hợp này chưa được cơng nhận là một ấn phẩm độc lập mà mới chỉ

được xem như là một “ấn bản điện tử” của báo in. Đây cũng là việc bình thường, phù hợp
với tiến trình phát triển báo mạng trên thế giới.
            Một hiện tượng khác cũng được xem là mới mẻ trong một năm trở lại đây, đó là sự
tham gia bước đầu của các tập đồn truyền thơng nước ngồi vào đời sống truyền thơng
của Việt Nam nhân đàm phán thương mại WTO. Những diễn tiến được đăng tải trên báo
chí trong thời gian gần đây cho thấy rõ điều đó.          Trong chuyến “đổ bộ” của 21 tập
đoàn kinh tế Mĩ hồi đầu tháng 3/2006, Phó chủ tịch cấp cao Tập đồn truyền thơng Time
Warner Hugh Stephens khẳng định mong muốn “hợp tác với phía Việt Nam để tận dụng
truyền thống văn hóa lâu đời và đa dạng của Việt Nam”[10]. Tập đồn này có kế hoạch
đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất phim, xây dựng rạp chiếu bóng và hạ tầng điện ảnh.
Ngay sau đó, hãng Warner Bros, sở hữu hơn 170 rạp chiếu phim với hơn 1600 phòng chiếu
ở 11 quốc gia trên thế giới, trực thuộc Time Warner, quyết định hợp tác với Hãng phim
Thiên Ngân,  đơn vị đầu tiên xây dựng cụm rạp Galaxy 3 phòng chiếu ở Việt Nam, để đầu
10


tư xây dựng và vận hành cụm rạp chiếu phim đạt tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.
            Vào khoảng giữa tháng 3/2006, tập đồn in ấn và truyền thơng Ringier AG (Thuỵ
Sĩ) nổi tiếng khắp châu Âu, sau 3 năm hoạt động trong các dự án nhân đạo ở Việt Nam đã
có bước đi mới. Trong chuyến thăm Việt Nam vào 16 và 17/3, ông Michael Ringier, chủ
tịch hội đồng quản trị của tập đồn, khơng ngần ngại cho biết sẽ tìm hiểu các hoạt động
kinh doanh của tập đồn trong lĩnh vực báo chí Việt Nam. Ơng nói: “Tại Việt Nam, chúng
tơi đang có tham vọng đầu tư thêm vào các báo viết và tạp chí” [10].
            Cũng vào cuối tháng 3/2006, công ty cung cấp nội dung Internet Yahoo!Inc hàng
đầu thế giới đã chọn đối tác cung cấp dịch vụ tin tức Yahoo!News là Tuổi Trẻ Online,
trong một nỗ lực bản địa hoá tối đa nội dung của trang web này tại mỗi quốc gia. 
5. Một số nhận xét về sự phát triển của báo chí Việt Nam trên phương diện kinh tế:
            Báo chí nước ta trong 5 năm trở lại đây phát triển năng động về số lượng và chất
lượng trên tất cả lĩnh vực báo chí – truyền thơng. Mặc dù,  theo nhận định của thứ trưởng
Bộ Văn hố – Thơng tin Đỗ Q Dỗn, “trong số 500 cơ quan báo chí thì thực chất chỉ có

khoảng 50 tờ báo là có thể tự chủ được về mặt tài chính, cịn lại là ngân sách cấp, và mỗi
năm con số này lên đến hơn 40 tỷ đồng!”[10], nhưng tình hình sẽ chuyển đổi theo hướng
sắp xếp lại “những trường hợp chồng chéo về tôn chỉ mục đích, đối tượng phục vụ và kiên
quyết xử lý những tờ báo sai có nhiều sai phạm và sai phạm liên tục, chất lượng kém, cơ
quan chủ quản bng lỏng hồn tồn cho cơ quan báo chí muốn làm gì thì làm”, “giảm bớt
số đầu mối cơ quan báo chí và tăng mơ hình một cơ quan báo chí trong đó có một vài ấn
phẩm theo kiểu phát triển quy tụ”. Đó là nỗ lực của cơ quan chức năng nhằm khắc phục
tình trạng mất cân đối giữa khả năng quản lý và số lượng cơ quan báo chí.
            Nhu cầu của cơng chúng ngày một tăng về chiều rộng cũng như về chiều sâu vừa là
nhân tố đưa đến sự phát triển đó, lại vừa cho thấy đối tượng khách hàng tiềm năng của thị
trường truyền thông còn chưa được/bị khai thác hết.
            Với mức xuất bản hiện nay, bình qn 40 người dân chỉ có một tờ báo các loại để
đọc trong ngày, 8 bản báo/người/năm. Đặc biệt,  “nhu cầu đọc của dân cư ở tuyệt đại đa số
các tỉnh cách biệt rất xa với hai TP lớn, Hà Nội và TP.HCM. Một nghiên cứu cách đây 10
năm đã cho thấy tỉ lệ mua báo ở TP.HCM cao gấp 6 lần Cần Thơ và gấp 2,4 lần Hà Nội”
[10]. Điều đó dẫn đến tình trạng “đói thông tin” ở một số nơi – một mâu thuẫn khó khắc
phục ngày một ngày hai.
            Nhu cầu trong khu vực báo trực tuyến càng tăng lên rõ rệt trong 5 năm qua. Tính
đến thời điểm tháng 5/2004 đã có gần 4 triệu lượt người truy cập các tờ báo điện tử như
VietNamNet, Việt NamExpress, Tuoi Tre Online, Lao động điện tử, chiếm 5,42% dân số
cả nước [10]. Sự gia tăng nhu cầu đọc báo trực tuyến tương ứng với sự gia tăng nhu cầu 
truy cập  Internet. Trung tâm Internet Việt Nam (VNNIC) thống kê được: trong 6 tháng
cuối năm 2004, Việt Nam có 6.139.424 người truy cập Internet, chiếm tỉ lệ 7,44% dân số;
trong 4 tháng đầu năm 2005 có 7.174.028 người, chiếm tỷ lệ 8,7% dân số (mức bình quân
trong ASEAN, châu Á và thế giới là 7,54%; 8,36%; 14,11%.) [10]
 TP.HCM có 6 triệu dân, tương đương với 1 triệu hộ gia đình. Trong khi truyền hình miễn
phí đã phát triển ở mức nhất định, thị trường của truyền hình trả tiền tìm thấy nhu cầu cao
ở cơng chúng. Hoạt động từ năm 2003, song ngay cả SCTV chỉ có khả năng đáp ứng
10.000 thuê bao. Nếu có đến 20 SCTV thì  cũng mới chỉ cung ứng được nhu cầu của 1/5
hộ gia đình ở Việt Nam. Do đó, đây là một lĩnh vực đầy hứa hẹn.

            Bên cạnh đó là sự trưởng thành của đội ngũ làm truyền thơng, sự tiến bộ của máy
móc, cơng nghệ, trang thiết bị kĩ thuật. Đến nay, cả nước có 12.000  (số liệu mới nhất là
13.000 – NV) nhà báo chuyên nghiệp, 78% có trình độ đại học báo chí, đại học các chuyên
ngành khác và trình độ trên đại học, 4.118 người có trình độ lý luận chính trị trung cấp,
1.699 người có trình độ lý luận chính trị cao cấp[10]. 1/10 đội ngũ truyền thông của cả
nước sống và làm việc tại TP.HCM. Hội Nhà báo Việt Nam hiện là thành viên Hiệp hội
báo chí các nước ASEAN (CAJ) và Tổ chức quốc tế các nhà báo (OIJ). Hội nhà báo vừa tổ
chức Đại hội VIII Hội nhà báo TP.HCM (13/8/2005) … Điểm yếu kém cần sớm được khắc
11


phục là ở khâu đào tạo đội ngũ truyền thông.
            Nếu nói theo kinh tế vi mơ, Việt Nam chưa tiến tới đường giới hạn khả năng sản
xuất PPF trong lĩnh vực báo chí – truyền thơng, chưa khai thác tất cả các “tài nguyên” sẵn
có trong điều kiện kĩ thuật tốt nhất hiện tại, thị trường vẫn còn rộng thênh thang và đang
loay hoay tìm một chiến lược phát triển dài lâu.
            Chính thực tiễn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống báo chí – truyền
thơng ở Việt Nam đã dẫn đến những đổi mới trong tư duy quản lý báo chí của nhà nước.
Chủ trương hình thành các tập đồn báo chí ra đời trong bối cảnh đó. Cũng chính vì chưa
từng có tiền lệ trong đời sống báo chí Việt Nam, sự ra đời của chủ trương này dẫn đến
hàng loạt vấn đề mới cần đặt ra và hướng trả lời cho các vấn đề này là các tập đồn báo chí
trên thế giới.
             
Tiểu kết
            Mục đích của chương 1 là chứng minh sự phát triển trên phương diện kinh tế của
đời sống báo chí – truyền thơng Việt Nam trong 5 năm trở lại đây, trình bày những nhân tố
kinh tế tiềm ẩn trong mỗi loại hình báo chí – truyền thơng. Trên cơ sở đó, người thực hiện
đề tài đưa ra lập luận về “sự thay đổi hợp lý” trong tư duy quản lý báo chí của Việt Nam,
về sự ra đời của chủ trương hình thành tập đồn báo chí (sẽ nói cụ thể hơn ở chương 3).
Ngồi ra, sự phát triển bước đầu này cũng đưa đến một yêu cầu khách quan: tìm tịi và học

hỏi kinh nghiệm làm kinh tế truyền thơng, cụ thể là làm tập đồn báo chí, của một số nền
báo chí trên thế giới.   
           
           

12


Chương 2
GIỚI THIỆU MỘT SỐ TẬP ĐỒN BÁO CHÍ TRÊN THẾ GIỚI
1. Sơ lược về lịch sử hình thành các tập đồn truyền thơng trên thế giới:
            Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper industry,
ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics[7] từ lâu đã trở
thành quen thuộc. Có hẳn những cuốn sách, tạp chí, trang web viết về các vấn đề này.
            Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến khoảng giữa thế kỉ 19 đã có một
bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú ý đến mục tiêu kinh tế trong hoạt động
báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt động báo chí[8]. (Mặc dù vậy, ở thời buổi
quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế mới chỉ là
cải tiến nội dung để  tăng doanh số phát hành.)  
            Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một trong
những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội chiến 1865 –
1867.
            Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo chí ngày
nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều điểm tương đồng
với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là khuynh hướng báo chí
làm kinh tế.
            Bối cảnh đó cho phép chúng tơi nhận diện cái nơi hình thành các tập đồn báo chí –
truyền thơng ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới hiện nay)
thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new journalism (phân biệt với
thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có của nghề làm báo vàng yellow

journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây chuyền newspapers chains.
            Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ. Vào
thời kì đó, báo chí trở thành “những cơng ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo được về
phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”[9] Đến cuối thế kỉ 19, báo
chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương đối trong đời sống xã
hội. Những nhận định trên cho thấy  xuất phát điểm của các tập đồn báo chí truyền thơng
phải là những cơng ty hùng mạnh, tự chủ được về tài chính.
            Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane”[10] trong
làng báo thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo trên
phương diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha” hoạt động theo
mơ hình tập đồn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst – ông vua của nghề làm
báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”[11]. Hearst không “dừng lại ở lĩnh
vực làm báo, ơng ta cịn chuyển sang lĩnh vực xuất bản, lĩnh vực tạp chí và ở bất kì lĩnh
vực nào cũng thành công”[12], đặc biệt là với các tờ hướng đến nhóm đối tượng riêng biệt
như House Beautiful (Nhà Đẹp), Good House Keeping (Nội Trợ Giỏi), … Những nhận
định trên cho thấy hướng phát triển của các “công ty hùng mạnh” chính là từ việc gia tăng
số lượng các ấn phẩm làm ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực có
liên quan đến báo chí.
            Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mơ hình tập đồn báo chí, đó chính
là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật E.W.Scripps và Hearst.
Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ giữa nhiều tờ
báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”[13]. Điều đó có thể coi là một nhu cầu tất
yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở hữu (ông trùm),
hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí). Scripps cũng chính là
người đưa ra cơng thức để thành lập hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và đứng tên
đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ nên sáng
lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo có giá

13


đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng lớp người
nghèo.
Đây chính là những điều căn bản mà các tập đồn báo chí lớn trên thế giới hiện nay vẫn
thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.
            Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và đăng tải
trên Internet) của một số tập đồn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay, theo quy luật phát
triển của nền kinh tế báo chí, hai hệ thống báo dây chuyền của  E.W.Scripps và Hearst đã
phát triển lên thành các tập đoàn The E.W.Scripps Company và Hearst Corporation tiếng
tăm trên đất Mĩ[14].
            Như vậy, con đường phát triển tất yếu của ngành cơng nghiệp báo chí – truyền
thơng là từng bước chuẩn bị những yếu tố cần thiết để trở nên lớn mạnh: đầu tiên là đổi
mới tư duy theo hướng chú trọng mục tiêu kinh tế (nghề làm báo mới), mở rộng hoạt động
kinh doanh sang các lĩnh vực truyền thông khác (nghề làm báo vàng), mở rộng năng lực
quản lý, điều hành đối nội và đối ngoại ở hàng loạt tờ báo (hiện tượng báo dây chuyền),
tham gia năng động vào nên kinh tế như những doanh nghiệp thực thụ (các tập đồn báo
chí hùng mạnh). Nền báo chí Mĩ đã tuân theo quy luật phát triển đó, được đánh giá là một
trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, sở hữu nhiều tập đồn báo chí – truyền thông
hàng đầu nhất thế giới. Đối với Mĩ, ngay từ buổi đầu rẽ vào bước ngoặt kinh tế, người ta đã
coi báo chí – truyền thơng là một trong những ngành cơng nghiệp nặng và cho phép nó
phát triển đến mức tối đa.
2. Khái niệm “tập đồn báo chí”:
          Vì các khái niệm “kinh tế báo chí”, “tập đồn báo chí” ở Việt Nam tương đối mới và
chưa được làm rõ, việc tìm hiểu nội hàm của các khái niệm này ở các nước trên thế giới là
một việc làm hết sức cần thiết. Trong nghiên cứu này, người thực hiện chủ định tìm hiểu
thơng qua các thuật ngữ tiếng Anh.
            Hiện nay, báo chí xuất bản bằng tiếng Anh của Việt Nam dịch cụm từ “tập đồn

báo chí” là “press group”[15]. Người thực hiện khơng tìm thấy định nghĩa của “press
group” khi sử dụng cơng cụ tìm kiếm Google. Tuy nhiên, thông qua một số trang web
khác, đặc biệt là trang web của Hiệp hội báo chí thế giới (World Association of
Newspapers - WAN), có thể thấy “press groups” được sử dụng để chỉ “các nhóm báo in”,
khơng tính đến các loại hình báo khác. Trong phần giới thiệu các thành viên của mình,
WAN đã đề cập đến “nine regional and world-wide press groups”[16], nghĩa là “chín
nhóm báo in có quy mơ tồn cầu và quy mơ khu vực”. Trang web nghiên cứu thị trường
MarketResearch.com có phạm vi nghiên cứu trải rộng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Mĩ, Anh,
châu Âu và châu Á cho thấy rõ hơn ý nghĩa của thuật ngữ này. Trong báo cáo về “Báo chí
Trung Quốc” (China Newspaper Industry) xuất bản vào 08/04/2005, MarketResearch.com
dùng thuật ngữ “press group” để chỉ Guangzchou Daily Press Group, mà Việt Nam vẫn
quen gọi là tập đoàn báo chí Quảng Châu. Như vậy, “press group” thơng thường được sử
dụng để gọi các tổ chức có hạt nhân là một cơ quan báo in nổi tiếng lâu đời, và cơ quan
này có tham gia các hoạt động kinh doanh bổ trợ khác.
            Tuy nhiên, về mức độ phổ biến trong việc chỉ các tập đồn báo chí – truyền thông,
“press group” phải nhường bước cho một số thuật ngữ khác. Trong buổi đến thăm và làm
việc ở Khoa Ngữ văn & Báo chí (ĐH KHXH & NV TP.HCM) vào ngày 22/02/2006, Giáo
sư Richard Shafer (ĐH North Dakota, Mĩ) có lời khuyên nên sử dụng các thuật ngữ “media
conglomerate”, “media convergence” để có thể tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu.
            Theo wikipedia, “media conglomerate” dùng để chỉ các tổng công ty sở hữu một
con số lớn các công ty con hoạt động trong những loại hình truyền thơng khác nhau như
truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh, và Internet. Xét trên khía cạnh thuật ngữ kinh
tế, “conglomerate” chỉ một công ty lớn (tổng công ty) bao gồm nhiều cơng ty con có vẻ
ngồi là các doanh nghiệp khơng liên quan gì đến nó[17]. Cuốn từ điển bách khoa trên
mạng này cũng cho biết: “Một vấn đề được đặt ra, kể từ năm 2006,  là liệu các công ty
14


truyền thơng (media companies) có thật khơng liên quan nhau hay khơng.”[18]. Và theo
wikipedia, người ta cịn sử dụng thêm thuật ngữ “media group” (theo lối hiểu như press

group nhưng bao trùm trên tất cả các loại hình truyền thơng, khơng riêng gì loại hình báo
in)
            Trang web wikipedia đưa ra một số “media conglomerate” lớn trên thế giới như:
AT&T, Berlusconi Group, Bertelsmann, Canwest Global, General Electric, Hearst
Corporation, Lagardère Media, Liberty Media, News Corporation, Sony, Time Warner,
The Times Group (phân biệt với Nhóm báo Times của tập đồn News Corporation),
Viacom, Vivendi Universal, Walt Disney Company, … Tác giả Robert W McChesney
trong bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerate” (1999) 
cũng cho biết thị trường truyền thơng tồn cầu nằm dưới quyền thống trị của 8 tập đồn
xun quốc gia cai trị thị trường truyền thơng Mĩ: General Electric (GE), AT & T/Liberty
Media, Disney, Time Warner, Sony, News Corporation, Viacom và Seagram, cộng với
Bertelsmann, một tập đồn của Đức. Tuy lĩnh vực kinh doanh chính của GE và AT&T
không phải là lĩnh vực truyền thông nhưng GE sở hữu tập đồn truyền thơng nổi tiếng
NBC, AT & T có cơng ty con Liberty Media, và cả hai tập đồn này đang có dự định thu
nạp các tài sản truyền thông nếu thấy cần thiết.
            Thuật ngữ “media convergence” (hội tụ truyền thơng) có những thuật ngữ tương
đồng như “media consolidation” (tập hợp truyền thông) và “concentration of media
ownership” (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ
biến trong giới phê bình truyền thơng cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương
thức sở hữu các phương tiện truyền thông của các doanh nghiệp.
            Thuật ngữ “media convergence” có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ “media
conglomerate” ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vực truyền thơng thường kéo theo sự
hình thành các “media conglomerate”. Khi một doanh nghiệp sở hữu nhiều loại hình truyền
thơng khác nhau, nó được xem như là một “media conglomerate”. Sáu “media
conglomerate” hiện thời là Disney, Viacom, Time Warner, News Corp, Bertelsmann, và
General Electric sở hữu hơn 90% thị trường truyền thơng tồn cầu.
            Như vậy, hiện tượng “media convergence” hay “concentration of media
ownership” chính là khởi điểm để hình thành các “media conglomerate” (các tập đồn
truyền thơng) ở các nước phương Tây. Một lần nữa, giả thuyết về con đường hình thành
các tập đồn truyền thơng trên thế giới đã nêu ở phần C2.1 được khẳng định thơng qua

chính bản thân các thuật ngữ.
            Ngoài ra, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ  khác dùng để chỉ “tập đồn
báo chí” như: media organization, media group, media mega-group, media empires, media
giants, media corporations … Nhưng đó là thuật ngữ dành cho các nhà nghiên cứu. Đối với
bản thân các “tập đồn báo chí”, tên gọi của tập đồn phụ thuộc vào hình thức đăng ký
kinh doanh. Có nơi gọi mình là company, có nơi lại gọi là group, có nơi gọi là corporation,
có nơi gọi là holdings, … Do đó, việc có hay khơng có để danh xưng “tập đồn báo chí”
khơng quan trọng bằng nội lực thực sự của mỗi doanh nghiệp truyền thông.
            Ở nước ta vẫn sử dụng lẫn lộn hai thuật ngữ “báo chí” và “truyền thơng”, đơi khi
đánh đồng chúng với nhau. Do đó, để hiểu cho đúng, phải xem “tập đồn báo chí” là một
thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền thơng, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngữ
“press group” và nghĩa rộng tương đương với thuật ngữ “media conglomerate”. Theo đó,
“tập đồn báo chí” là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh vực truyền thơng,
có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại hình báo chí nào khác,
và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngồi truyền thơng.”
            Theo tác giả Robert W McChesney, có hai dạng thức tập đồn báo chí truyền
thơng[19].
            Thứ nhất là dạng thức tập hợp theo chiều ngang (horizontally integrated); tức là,
tập đồn thâu tóm gần như trọn vẹn một lĩnh vực truyền thông nào đó, chẳng hạn như lĩnh
vực xuất bản sách.
15


            Nhưng ấn tượng hơn phải kể đến tốc độ tập đồn hố theo dạng thức thứ hai – dạng
thức tập hợp theo chiều dọc (vertically integrated); tức là, một tập đoàn nắm quyền sở hữu
trong rất nhiều lĩnh vực truyền thông khác nhau, tạo thành một mạng lưới sản xuất và tiêu
thụ liên hoàn, làm ra nội dung truyền thơng và có kênh phân phối các nội dung truyền
thơng đó. Dấu hiệu để phân biệt một tập đồn thống trị theo dạng thức này là khả năng
khai thác “sức mạnh tổng hợp” giữa các cơng ty mà nó sở hữu.
            Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnanyi và Christian Moller của

nghiên cứu “The Impact of Media Concentration on Professional Journalism” (Tác động
của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng khái quát: “Sự tập trung có thể diễn
ra theo chiều dọc, tức là tập trung các thể chế kinh tế độc lập với các cơng đoạn sản xuất
khác nhau lại làm một tập đồn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp nhập các công ty
giống nhau về công đoạn sản xuất.”[20]
                         
3. Giới thiệu một số tập đồn báo chí trên thế giới:
            Nói đến một tập đồn (ở đây là nói đến tập đồn truyền thơng), trước hết là nói đến
sản nghiệp của tập đoàn, phương châm của tập đoàn, cơ cấu tổ chức, các hoạt động của tập
đoàn, mà những điều này thường được các tập đoàn trên thế giới cơng khai giới thiệu trên
trang web của mình. Sau nữa, mới đi sâu vào tìm tịi cơ chế quản lý, cơ chế sở hữu, những
vấn đề kinh tế - xã hội nảy sinh xung quanh tập đoàn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một
đề tài NCKH cấp trường, lại bị giới hạn bởi kiến thức trong lĩnh vực kinh tế và pháp luật,
dù người viết cố để tâm tìm hiểu các vấn đề nội bộ này, kết quả đạt được mới chỉ ở bước
đầu. Các tài liệu sử dụng trong phần này chủ yếu được lấy từ trang web của các tập đoàn,
trang web của các báo trong và ngoài nước, cũng như từ các báo cáo khoa học được cơng
bố trên mạng Internet.
3.1. Một số tập đồn báo chí  Mỹ:
            Về quy mơ của các tập đồn báo chí Mĩ, nhiều nhà nghiên cứu đã gọi chúng là “các
đế chế truyền thông”, “những gã khổng lồ” (media empires, media giants), bởi cả về quy
mô hoạt động, khả năng tài chính, tầm ảnh hưởng của các tập đồn này đều vươn ra khắp
tồn cầu. Trong một tập đồn truyền thơng Mĩ, có thể có những tập đồn truyền thơng
“con” khác.
           
3.1.1. Tập đồn News Corporation:
3.1.1.1. Q trình hình thành và phát triển:
            Sự hình thành và phát triển hùng mạnh của tập đồn truyền thơng News
Corporation (viết tắt là News Corp) ghi dấu ấn đậm nét của “nhà tài phiệt truyền thông”
(media tycoon) người Mĩ gốc Úc Rupert Murdoch. Lịch sử của tập đồn có thể viết gọn
trong các vụ thừa kế, sáng lập, sáp nhập, và mua bán.

            Từ tờ báo tỉnh lẻ hạng hai Adelaide News của người cha (1952), Rupert Murdoch
thành lập tập đồn báo chí News Limited có tầm ảnh hưởng rộng rãi bậc nhất ở Úc (hiện
nay, News Limited vẫn là công ty con ở Úc của News Corp). News Limited chuyên mua
lại các tờ báo làm ăn lỗ lã ở Úc và vực chúng dậy bằng cách ứng dụng công nghệ quản lý
tiên tiến và cải tổ nội dung. Trong vòng 10 năm, News Limited đem lại cho Murdoch
khoản lợi nhuận “kếch sù”. Năm 1979, Murdoch thành lập News Corporation trên đất Úc
và bắt đầu thu mua những tờ báo và tạp chí hàng đầu London (Anh) và New York (Mĩ),
cũng như thu mua nhiều tập đồn truyền thơng khác.
            Ở Anh, thơng qua cơng ty con News International, News Corp của Murdoch có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong làng báo Anh, đặc biệt là từ khi sở hữu hai hệ thống báo Times
Newspapers và News Group Newspapers (khoảng thời gian cuối thập niên 80 của thế kỉ
20) và một phần hệ thống truyền hình trả tiền BskyB (năm 1990).
            Từ thời News Limited, Murdoch đã vào thị trường  truyền thông Mĩ bằng cách mua
tờ San Antonio News (1973), ngay sau đó sáng lập tờ National Star và mua tờ New York
Post (1976). Khi đã thành lập News Corp, Murdoch bắt đầu “tiến công” sang lĩnh vực
16


phim ảnh (xưởng phim nổi tiếng nhất của News Corp là 20th Century Fox) và phát thanh
truyền hình (năm 1985, Murdoch lấy quốc tịch Mĩ để thuận lợi trong việc sở hữu các đài
truyền hình của Mĩ). Hiện nay, mạng lưới truyền hình Fox (do cơng ty con Fox
Broadcasting Company điều hành) đã lan toả đến 96% hộ gia đình Mĩ.
             Vào năm 1993, News Corp mua đài truyền hình STAR có trụ sở chính ở Hong
Kong, với tham vọng tiến vào thị trường truyền thông Trung Quốc, bởi đây là kênh truyền
hình vệ tinh phát khắp khu vực châu Á.
            Trong suốt thập niên 90 của thế kỉ 20, News Corp chiếm thị phần lớn trong lĩnh
vực truyền hình trả tiền ở cả 3 châu lục. Năm đầu thế kỉ 21, News Corp thành công trong
lĩnh vực kinh doanh Internet với AOL.
            Đến giữa năm 2005, News Corp chuyển hướng sang lĩnh vực kinh doanh truyền
thông mới, nhằm tiếp tục làm “bá chủ” thị trường truyền thông trong tương lai. Thành công

đầu tiên của News Corp là hiệu ứng xã hội và lợi nhuận truyền thơng của website
MySpace.com.
            Tính đến 30/6/2005, News Corporation có tổng giá trị tài sản xấp xỉ 55 tỉ đôla, tổng
doanh thu hàng năm xấp xỉ 24 tỉ đôla. Tổng số nhân viên của News Corp xấp xỉ  40.000
người (Thông tấn xã Xinhua của Trung Quốc cũng chỉ có 10.000 nhân viên).
                       
3.1.1.2. Cơ cấu tổ chức:
            News Corp có cơ cấu tổ chức như một tập đồn kinh tế, bên dưới là vơ số những
cơng ty con (có quy mơ cũng như một tập đồn, có ban điều hành riệng). Rupert là Chủ
tịch Hội đồng quản trị kiêm CEO (Tổng giám đốc điều hành) của tập đồn (Gia đình
Murdoch tiếp tục nắm giữ 29% cổ phần của tập đoàn).
            Ban Giám đốc tập đoàn News Corp gồm có 14 người (Board of Directors). Nhiệm
vụ của Ban Giám Đốc là quan sát toàn bộ hoạt động kinh doanh của News Corporation
(bao gồm Công ty mẹ và các công ty con) và chịu trách nhiệm việc điều hành Công ty mẹ
(tức News Corp). Ban Giám Đốc thiết lập các chính sách chung, đề ra hướng chiến lược
cho toàn bộ tập đoàn, và chú trọng vào việc gia tăng lợi nhuận cho các cổ đơng.
             Ngồi ra cịn có 3 Uỷ Ban (Board Committees) là Uỷ ban Kiểm toán (Audit
Committee), Uỷ ban Đề cử và Quản trị tập đoàn (Nominating and Corporate Governance
Committee), và Uỷ ban Bồi thường (Compensation Committee) với những người đứng đầu
là các thành viên Ban Giám Đốc không tham gia hoạt động kinh doanh của tập đoàn (nonexecutive Directors). Vào tháng 04/2004, Viet Dinh (Đinh Phụng Việt), giáo sư luật trường
ĐH Georgetown trúng cử làm thành viên Ban Giám đốc của News Corp, giữ chức chủ tịch
Uỷ ban Đề cử và Quản trị tập đoàn (Nominating and Corporate Governance Committee)..
            Các tiêu chuẩn đạo đức (Ethical Standards)  mà tập đồn đề ra được tóm  gọn trong
văn bản “Các tiêu chuẩn Hoạt động Kinh doanh” (Standards of Business Conduct). Theo
đó, tập đồn điều hành hoạt động kinh doanh theo đúng các luật lệ và quy định, đồng thời
luôn chú trọng đến các tiêu chuẩn đạo đức kinh doanh cao nhất. Tất cả mọi người từ giám
đốc cho đến các nhân viên của tập đoàn (kể cả ở các công ty con) đều phải theo đúng tinh
thần này.
3.1.1.3. Các hoạt động truyền thông:
            News Corporation là một công ty hoạt động đa dạng trong lĩnh vực giải trí và

truyền thơng. 8 lĩnh vực chủ yếu là:
 
(1) Phim giải trí (Filmed Entertainment):
            Các tác phẩm điện ảnh nổi tiếng của News Corp là Star Wars, Star Wars Episode I:
The Phantom Menace, và Titanic. Các phim truyền hình được sản xuất ở các studio (phim
trường) của News Corp cũng được đánh giá cao và tập đoàn là nhà cung cấp hàng đầu các
phim giờ vàng trên truyền hình Mĩ. News Corp có khoảng 11 studio, trong đó nổi tiếng
nhất là hãng 20th Century Fox .
17


 
 (2) Truyền hình (Television):
            Các hoạt động truyền hình của News Corp trải rộng khắp năm châu, sử dụng các
công nghệ tiên tiến truyền hình số, truyền hình tương tác, truyền hình vệ tinh. Các đài
truyền hình của tập đồn đã trải qua 10 năm liên tục thu lợi nhuận, và FOX Broadcasting
Company (Tập đồn truyền hình FOX) là mạng lưới truyền hình được những người trẻ
xem nhiều nhất. Lợi nhuận quan trọng nhất của News Corp đến từ các chương trình truyền
hình vệ tinh và truyền hình cáp. Các chương trình tin tức, thể thao, giải trí, … thu hút gần
300 triệu người đăng ký.
            Các kênh truyền hình cáp nổi tiếng nhất (với các chương trình địa phương và quốc
tế) của News Corp là: Fox College Sports (kênh thể thao), Fox Movie Channel (chuyên
chiếu các phim của hãng 20th Century Fox), Fox News Channel (kênh tin tức), Fox
Reality, …
            Các thương hiệu truyền hình vệ tinh phát sóng trực tiếp (direct broadcast satellite
television) nổi tiếng nhất của News Corp là BskyB (Anh), DirecTV (Mĩ), Foxtel (Úc), Sky
Italia (Ý), Star TV (châu Á), …
 
(3) Tạp chí và phụ trương (Magazines & Inserts):
            News Corp là cổ đông lớn nhất của Gemstar-TV Guide International, tạp chí

chun cung cấp thơng tin về các chương trình truyền hình tương tác hàng đầu thế giới và
là tạp chí truyền hình cao cấp. News Corp cũng sở hữu News America Marketing, chuyên 
đăng tải các thông tin khuyến mãi tiêu dùng, phục vụ hàng triệu người mua sắm mỗi tuần.
Ngồi ra cịn có Big League, InsideOut, donna hay, ALPHA, SmartSource, The Weekly
Standard.
           
(4) Báo chí (Newspapers):
            Thế mạnh của News Corp là  xuất bản các tờ báo tiếng Anh. Các tờ báo của tập
đồn có mặt ở hầu khắp mọi nơi: Anh, Úc, Fiji, Papua New Guinea, và ở Mĩ. News Corp
có hơn 175 tờ báo khác nhau, in khoảng 40 triệu ấn bản/tuần.  Đội ngũ phóng viên 15.000
người có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới.
            Các tờ báo ở Úc (khoảng 21 tờ) là: The Australian (phát hành toàn quốc), The
Weekend Australian (phát hành toàn quốc), The Courier-Mail (Queensland), The Sunday
Mail (Queensland), The Cairns Post (Cairns, Queensland), The Gold Coast Bulletin (Gold
Coast, Queensland), The Townsville Bulletin (Townsville, Queensland), The Daily
Telegraph (New South Wales), The Sunday Telegraph (New South Wales), The Herald
Sun (Victoria), The Sunday Herald Sun (Victoria), The Weekly Times (Victoria), MX
(Melbourne and Sydney CBD), The Geelong Advertiser (Geelong, Victoria), The
Advertiser (South Australia), The Sunday Mail (South Australia), The Sunday Times
(Western Australia), The Mercury (Tasmania), The Sunday Tasmanian (Tasmania),
Northern Territory News (Northern Territory), The Sunday Territorian (Northern
Territory), …
            Ở Fiji có tờ Fiji Times.
            Ở Papua New Guinea có tờ Papua New Guinea Post-Courier.
            Các tờ báo ở Anh được xuất bản bởi News International Ltd.: các tờ khổ nhỏ
(tabloid) The Sun và News of the World (thuộc nhóm báo News Group Newspapers Ltd.),
các tờ khổ lớn như The Sunday Times, The Times (hiện nay là khổ bỏ túi), The Times
Educational Supplement, The Times Literary Supplement.
18



            Ở Mĩ có tờ New York Post.
 
(5) Xuất bản sách (Book Publishing):
            HarperCollins Publishers là một trong những đơn vị xuất bản sách lớn nhất và năng
động nhất trên thế giới, gần đây đã mua lại những tên tuổi nổi tiếng trong giới kinh doanh
sách như William Morrow & Company, Avon Books, Amistad Press, and Fourth Estate.
Ngoài ra, HarperCollins Publishers cịn là cơng ty mẹ của 2 đơn vị kinh doanh sách khác là
ReaganBooks và Zondervan.
 
(6) Các lĩnh vực khác (Internet, các trang web giải trí, game, quảng cáo ngồi trời, cơng
nghệ viễn thơng, âm nhạc, thể thao, …).
 
            Hoạt động kinh doanh của News Corp diễn ra chủ yếu ở Mĩ, châu Âu, Úc, châu Á,
và khu vực Thái Bình Dương (70% lợi nhuận đến từ thị trường truyền thơng Mĩ).
                       
3.1.2. Tập đồn Gannett:
3.1.2.1. Q trình hình thành:
            Tập đoàn Gannett là tập đoàn báo in lớn nhất nước Mĩ (chuyên phát hành báo in,
chú trọng thông tin và tin tức), xét về tổng số lượng phát hành hằng ngày. Gannett được
sáng lập bởi Frank E. Gannett vào năm 1906, niêm yết trên thị trường chứng khoán vào
năm 1967.  Vào năm 1972, Gannett tuyên bố thành lập lại tập đồn ở bang Delaware, nơi
luật lệ truyền thơng tương đối thơng thống. Tập đồn có xấp xỉ 10,500 cổ đông ở khắp 50
tiểu bang và cả ở một số nước khác. Tập đồn có khoảng 52.600 nhân viên. Tổng doanh
thu của tập đồn khoảng 7.6. tỉ đơla (2005), tức là chỉ bằng khoảng 1/3 tổng doanh thu của
tập đoàn News Corp.
            Về cơ cấu tổ chức, Gannett có Hội đồng quản trị và một Ban Giám Đốc gồm 10
người. Hai nhân vật quan trọng nhất của tập đoàn là Chủ tịch Hội đồng quản trị  Douglas
H. McCorkindale và CEO Craig A. Dubow. Gannett cũng có 3 Uỷ ban (Board
Committees): Gannett Management Committee (Uỷ ban Quản trị) sắp xếp toàn bộ chính

sách cho tập đồn. Gannett Newspaper Operating Committee (Uỷ ban điều hành hoạt động
báo chí) theo dõi hoạt động của các tờ báo của tập đoàn. Gannett Broadcasting Operating
Committee (Uỷ ban điều hành hoạt động truyền hình) quản lý thơng qua các chính sách đối
với các đài truyền hình thuộc sở hữu của tập đoàn.
            Quan điểm của Gannett là: người tiêu dùng sẽ đến với Gannett để được thoả mãn
mọi nhu cầu về thông tin (information) và tin tức (news), vào bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi
đâu, dưới mọi hình thức.
            Nhiệm vụ của Gannett là: Đưa tập đồn hội nhập với mơi trường (truyền thơng)
mới một cách thành công, cung cấp các thông tin và tin tức phải có (must-have), theo yêu
cầu, trên mọi lĩnh vực truyền thông, với tất cả tinh thần trách nhiệm của người làm báo.
           
3.1.2.2. Các hoạt động trong lĩnh vực truyền thơng:
            Số lượng ấn phẩm của tập đồn báo chí Gannett: Ở Mĩ, tập đồn có 90 nhật báo,
bao gồm tờ nhật báo nổi tiếng trong lịch sử báo chí thế giới USA Today, và có gần 1000 ấn
phẩm khác không phải là nhật báo. Mỗi nhật báo của tập đồn lại có một website giới thiệu
các tin tức và quảng cáo. Ở Anh, mọi hoạt động của Gannett đều thơng qua “tập đồn con”
là Newsquest Media Group, với 17 nhật báo và hơn 300 ấn phẩm khác. Newsquest là nhà
phát hành báo chí lớn thứ 2 ở Anh.
            Riêng về báo trực tuyến, vào tháng 12/2005, công chúng Internet của Gannet lên
đến gần 21 triệu người, chiếm khoảng 13,5% công chúng Internet, theo khảo sát của
Nielsen/NetRatings.
19


            Về lĩnh vực truyền hình, Gannett điều hành đến 21 đài truyền hình ở nước Mĩ
(nằm trong các mạng lưới truyền hình lớn nhất nước Mĩ như CBS, NBC, ABC, UPN) với
thị phần 19,8 triệu hộ gia đình. Mỗi đài truyền hình này lại có một website mang tính địa
phương giới thiệu tin tức, các nội dung quảng cáo và giải trí, dưới dạng văn bản và cả dưới
dạng video. Thông qua công ty con Captivate, hệ thống phát hình này cịn chuyển tải tin
tức và quảng cáo tới cơng chúng qua các màn hình video đặt ở các cao ốc văn phòng và

thang máy của một số khách sạn.
            Các lĩnh vực hoạt động khác:
            Bên cạnh các hoạt động kinh doanh truyền hình và báo chí – xuất bản, tập đồn cịn
có chiến lược đầu tư vào mảng quảng cáo online thông qua công ty con PointRoll – cung
cấp cho các nhà quảng cáo trực tuyến những dịch vụ tiếp thị truyền thơng chất lượng, và có
một số đầu tư quan trọng khác, như đầu tư vào CareerBuilder cho quảng cáo tìm người;
đầu tư vào Classified Ventures cho các mẩu quảng cáo về bất động sản và xe hơi; đầu tư
vào Topix.net, chuyên thu thập thông tin về sản phẩm và dịch vụ của các công ty khác;
ShermansTravel, một dịch vụ du lịch online; ShopLocal, một nhà cung cấp các phương
cách tiếp thị online cho các nhà quảng cáo ở địa phương, khu vực, trong nước; và vào
4INFO, chuyên cung cấp các dịch vụ tìm kiếm qua điện thoại di động.
            Ngồi ra, Gannett cịn có một tổ chức phi lợi nhuận là Gannett Foundation (Quỹ tài
trợ Gannett), chuyên tài trợ các tổ chức cộng đồng ở những nơi mà Gannett sở hữu nhật
báo hoặc đài truyền hình. Quỹ này hướng đến các dự án đưa ra những giải pháp sáng tạo
cho các vấn đề nền tảng, chẳng hạn như giáo dục và phát triển, phát triển kinh tế,  phát
triển sức trẻ, giải quyết các vấn đề của cộng đồng, hỗ trợ những người cơ nhỡ, bảo vệ mơi
trường, làm giàu bản sắc văn hố, …, đặc biệt là các dự án đào tạo nghề báo.
3.1.3. Một số vấn đề xung quanh các tập đồn truyền thơng Mĩ:
            Bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerates” của
tác giả Robert McChesney, một nhà nghiên cứu truyền thông nổi tiếng trên thế giới, cho
thấy có 2 cấp độ tập đồn truyền thơng trên thế giới. Cấp 1 bao gồm khoảng 9 tập đồn
truyền thơng đa quốc gia (hầu hết đến từ Mĩ). Cấp 2 bao gồm các tập đồn truyền thơng
khu vực hoặc quốc gia (hầu hết đến từ Bắc Mĩ, Nhật, châu Âu). Xu hướng của cả 2 cấp là
vươn ra khỏi bờ cõi quốc gia, tìm đến với các thị trường truyền thông chưa được khai phá
(chẳng hạn như châu Á). Tác giả nêu bật mâu thuẫn giữa sự bành trướng và tham vọng lợi
nhuận của các tập đồn truyền thơng với sự kháng cự lại của truyền thống và văn hoá của
các nước có thị trường truyền thơng chưa phát triển, để rồi cuối cùng, chiến thuật không
đối đầu được xem là một chiến thuật hữu hiệu.
            Ngoài ra, tác giả Robert cũng đặt ra một vấn đề đáng quan ngại khác: sự bất bình
đẳng trong hưởng thụ truyền thơng. Hiện tại, thứ báo chí tốt nhất thuộc về tầng lớp doanh

nhân, phục vụ các nhu cầu và định kiến của giới này. Báo chí phục vụ cho cơng chúng có
khuynh hướng là một thứ báo chí “vớ vẩn” do các tập đồn truyền thơng cung cấp, qua các
đài truyền hình của Mĩ. Sự xuống cấp về chất lượng báo chí không dễ nhận ra.
            Robert McChesney cho rằng: “Thật vậy, cái tài của hệ thống truyền thông – thương
mại là khơng có quy trình kiểm duyệt cơng khai. Như George Orwell lưu ý trong lời giới
thiệu của cuốn sách chưa được xuất bản Animal Farm, sự kiểm duyệt trong các xã hội “tự
do” thơng thái hơn và hồn hảo hơn rất nhiều  trong các xã hội chuyên chế, bởi vì “những
ý tưởng bất thường có thể im lặng, những sự thật bất lợi có thể nằm lại trong bóng tối, mà
khơng cần phải có một lệnh cấm chính thức nào.””[21]  Đó chính là một nguy cơ đe doạ
nền dân chủ và các tập đồn báo chí ln tìm cách khắc phục điều này bằng cách nâng cao
trách nhiệm xã hội của mình.
            Một vấn đề khác cũng khơng kém quan trọng trong thời đại “truyền thông mới”
ngày nay, một số tập đồn khơng thức thời đang gặp nhiều khốn đốn trong kinh doanh,
nhất là về khoản cạnh tranh quảng cáo.  Điển hình là hồi đầu tháng 03/2006, Knight
Ridder, tập đồn báo in số 2 ở Mĩ, đã phải bán hàng loạt các tờ báo vì làm ăn thua lỗ.
            Thị trường truyền thông Mĩ là nơi thường diễn ra các thương vụ mua bán, sáp nhập,
20



×