Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực trạng tranh chấp về phí bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TRỌNG ĐẠT

THỰC TRẠNG TRANH CHẤP VỀ PHÍ
BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

THỰC TRẠNG TRANH CHẤP VỀ PHÍ
BẢO HIỂM TRONG BẢO HIỂM TÀI SẢN

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thủy
Học viên: Nguyễn Trọng Đạt
Lớp: Luật Kinh Tế, khóa 30

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Nguyễn Trọng Đạt, là học viên lớp Cao học Luật Khóa 30, chuyên
ngành Luật Kinh tế, mã số học viên: 18300710085.


Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá nhân
tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào, được hồn
thiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Nguyễn Thị Thủy.
Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hồn toàn hợp lệ
và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TP Hồ Chí Minh, ngày … tháng …năm 2022
Học viên thực hiện

Nguyễn Trọng Đạt


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SST

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

1

BLDS

Bộ luật dân sự

1

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

2


HĐBH

Hợp đồng bảo hiểm

3

KDBH

Kinh doanh bảo hiểm

4

TAND

Tòa án nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÍ BẢO HIỂM TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN ......................15
1.1. Khái quát về phí bảo hiểm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản ......15
1.1.1. Khái niệm về phí bảo hiểm và phí bảo hiểm tài sản .....................................15
1.1.2. Đặc điểm của phí bảo hiểm tài sản ..............................................................17
1.1.3. Cơ sở hình thành nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản ...........................................................................................................................21
1.1.4. Sự cần thiết phải điều chỉnh của pháp luật đối với phí bảo hiểm tài sản ....24
1.2. Quy định của pháp luật về phí bảo hiểm trong hợp đồng tài sản ................27
1.2.1. Khái quát chung pháp luật về phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm

tài sản .....................................................................................................................27
1.2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về phí bảo hiểm tài sản ..............................31
Kết luận Chương 1 ......................................................................................................37
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ PHÍ BẢO HIỂM
TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ...38
2.1. Thực tiễn tranh chấp về phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm hiểm tài
sản ..............................................................................................................................38
2.1.1. Khái niệm tranh chấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp về phí trong hợp
đồng bảo hiểm tài sản .............................................................................................38
2.1.2. Tranh chấp về tránh nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khi bên
mua bảo hiểm nộp phí sau thời hạn nộp phí nhưng trước thời điểm sự kiện bảo
hiểm xảy ra..............................................................................................................41
2.1.3. Tranh chấp về trách nhiệm bảo hiêm của doanh nghiệp bảo hiểm khi bên
mua bảo hiểm nộp phí sau thời hạn thỏa thuận nộp phí và khi sự kiện bảo hiểm đã
xảy ra ......................................................................................................................45
2.1.4. Tranh chấp về việc bên mua bảo hiểm có thỏa thuận nợ phí bảo hiểm và
hợp đồng bảo hiểm chưa chấm dứt ........................................................................49
2.1.5. Thanh tốn phí bảo hiểm thông qua ủy nhiệm chi tại ngân hàng và lãi suất
do quá thời hạn trả tiền bồi thường và nộp phí bảo hiểm ......................................52
2.2. Thực trạng quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2022 về thời điểm
phát sinh trách nhiệm bảo hiểm và chấm dứt hợp đồng bảo hiểm .....................56
2.3. Một số giải pháp và kiến nghị về phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản ..............................................................................................................................58


2.3.1. Sự cần thiết của các giải pháp, kiến nghị hồn thiện pháp luật về phí bảo
hiểm trong bảo hiểm tài sản ...................................................................................58
2.3.2. Giải pháp định hướng xây dựng và hồn thiện pháp luật về phí bảo hiểm
trong hợp đồng bảo hiểm tài sản ............................................................................59
2.3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về phí bảo hiểm trong bảo

hiểm tài sản .............................................................................................................63
Kết luận Chương 2 ......................................................................................................66
KẾT LUẬN ..................................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................1


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm (KDBH) đã hình thành và phát triển tại cách
đây hàng trăm năm và đã trở thành một cơ chế quan trọng trong việc hạn chế tác hại
của rủi ro. Một điều có tính quy luật là kinh tế - xã hội càng phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của người dân càng nâng cao thì nhu cầu về bảo hiểm càng lớn 1.
Ngày nay hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở thành ngành
dịch vụ đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với nhiều loại hình bảo
hiểm đa dạng, phong phú ăn sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành
một nhu cầu không thể thiếu của hoạt động thương mại và đời sống thường nhật
của con người. Nếu phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện có tính chất quyết định mở
và phát triển bảo hiểm thì bảo hiểm cũng có tác dụng kích thích kinh tế - xã hội phát
triển2. Lợi ích này của dịch vụ bảo hiểm do phương thức hoạt động kinh doanh của
DNBH tạo ra. Ngoài ra, dịch vụ bảo hiểm đóng vai trị là cơng cụ tập trung vốn cho
nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ, do sự chênh lệch giữa thời gian thu phí và chi trả
tiền bảo hiểm của DNBH nên tạo ra sự tạm thời nhàn rỗi của vốn, nguồn vốn này có
thể khai thác để đầu tư. Như vậy, khi nhắc đến KDBH là nhắc đến rủi ro và lợi nhuận;
KDBH cũng là kinh doanh rủi ro và mang tính rủi ro; Rủi ro khơng chỉ xảy ra với
DNBH mà cịn với người mua BH. Bên cạnh đó BH giúp nâng cao khả năng ngăn
ngừa rủi ro và hạn chế rủi ro đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Pháp luật là công cụ thiết yếu để nhà nước thực hiện việc quản lý, điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội, các quan hệ xã hội luôn vận động và phát triển khơng ngừng
địi hỏi pháp luật cũng ln phải vận động phát triển và dự liệu đáp ứng nhu cầu thực

tế đặt ra. Bảo hiểm ở Việt Nam là một trong những lĩnh vực mới so mới thế giới có
thể nói là lĩnh vực cịn ra đời khá muộn. Năm 1964 Công ty Bảo hiểm Việt Nam được
thành lập theo Quyết định 179/CP của Chính phủ ngày 17/12/1964 chính thức đi vào
hoạt động ngày 15/01/1965 từ năm 1965 đến năm 1992 chỉ có duy nhất cơng ty bảo
hiểm Việt Nam (gọi tắt Bảo Việt). Đánh dấu cho sự hình thành khung pháp lý cho sự
phát triển hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam bằng việc ngày 18/12/1993 Chính phủ ban
hành Nghị 100/CP về KDBH, Các DNBH ra đời với hình thức tổ chức và sở hữu khác
nhau. Trải qua trình hình thành và phát triển, bảo hiểm tài sản đã và đang thể hiện
những vai trò quan trọn của mình đối với nền kinh tế thể hiển qua số liệu thống kê hoạt

1
2

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004), Giáo trình Bảo hiểm, Nxb. Thống kê, tr.26.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2004), tlđd (1), Nxb. Thống kê, tr.27.


2
động bảo hiểm trên thị trường3. Tuy nhiên, nhìn dưới góc độ so sánh với bề dày phát
triển của hệ thống pháp luật trên thế giới thì pháp luật về bảo hiểm tài sản ở Việt Nam
vẫn còn khá mới. Vì vậy, quan hệ xã hội trong lĩnh vực này còn phát sinh nhiều quan
hệ mới mà quy định của pháp luật về lĩnh vực này vẫn còn chưa kịp thời để điều chỉnh.
Mặt khác, khi mở cửa thị trường chúng ta thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam
là thành viên thì địi hỏi các quy định của pháp luật cần phải phù hợp với cam kết đó.
Bảo hiểm tài sản được hình thành dựa trên nhu cầu bảo vệ quyền lợi tài chính
của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản khi có rủi ro xảy ra4. Các bên xác
lập quan hệ pháp luật bảo hiểm thông qua hợp đồng bảo hiểm (HĐBH). HĐBH được
các bên thỏa thuận vừa là công cụ thực hiện pháp luật vừa là sản phẩm của thị trường
bảo hiểm5. Trong mối quan hệ này, phí bảo hiểm tài sản là “sợi dây” kết nối giữa
DNBH và bên mua bảo hiểm, “Phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm”6. Ngồi

ra, phí bảo hiểm tài sản cịn là nguồn vốn chủ yếu của DNBH lợi ích của DNBH trong
kinh doanh dịch vụ này gắn liền với nghĩa vụ với bên mua bảo hiểm, nhưng không
phải lúc nào các bên cũng đặt vai trị của mình và “đối phương” ngang bằng nhau và
không phải lúc nào các bên cũng hiểu đúng tinh thần của pháp luật về phí trong bảo
hiểm tài sản. Trên thực tế tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản ngày càng đa dạng không
phải trong trường hợp nào pháp luật cũng quy định cụ thể từng tình huống phát sinh
trên thực tế. Có thể nói trong lĩnh vực “luật tư” ngoài quy định “định hướng” của pháp
luật thì vai trị thiện chí của các chủ thể là vấn đề quan trọng để “giao dịch” có hiệu
quả như mong đợi. Nhưng lợi ích của các chủ thể hướng tới là khác nhau nên các tranh
chấp vẫn diễn ra nhiều và kéo dài làm ảnh hướng tới các lợi ích Nhà nước, bên mua
bảo hiểm, bên được bảo hiêm, nền kinh tế và các chủ thể khác. Mặt khác, quy định của
pháp luật về phí bảo hiểm tài sản vẫn cịn tồn tại những hạn chế có những quy phạm có
nhiều cách hiểu khác nhau như quy định về thời hạn phát sinh trách nhiệm bảo hiểm,
thời hạn đóng phí, gia hạn phí, quy định của pháp luật về phí bảo hiểm nếu đóng phí
theo kỳ, mức phí, các chế tài bảo đảm thực hiện, thỏa thuận gia hạn phí… do đó dẫn
đến các tranh chấp kéo dài làm ảnh hưởng đến các lợi ích cần được bảo vệ. Vì các lý
do trên, tác giả xin chọn đề tài “Thực trạng tranh chấp về phí bảo hiểm trong bảo
hiểm tài sản” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

3

/>4
Nguyễn Thị Thủy (2017), Pháp luật về bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, tr13.
5
Trần vũ Hải (2006), “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Tạp chí Luật học, Số 7,tr.8-13.
6
Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Thị Thủy (2007), “Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và thời điểm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 5(42) tr.28-32.



3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Trong thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lý, phí bảo hiểm tài sản là vấn đề
tương đối mới, nhất là việc nghiên cứu từ góc độ thực trạng tranh chấp. Trong thời
gian qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan ít nhiều đến đề tài này. Có
thể kể đến các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Sách chuyên khảo “Pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam” do Nhà xuất bản
Hồng Đức phát hành năm 2017 của TS. Nguyễn Thị Thủy. Đây là cơng trình nghiên
cứu mang tính hệ thống, toàn diện từng vấn đề pháp lý về về bảo hiểm tài tài sản.
Nghiên cứu đã đề cập đến những thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật bảo
hiểm tài sản trong đó có một phần về phí bảo hiểm trong HĐBH tài sản. Dựa trên việc
đánh giá các mặt tích cực và hạn chế của thực trạng thơng qua việc phân tích các bản
án cũng như các số liệu thực tế, nghiên cứu đã đưa ra được các định hướng xây dựng
và hoàn thiện pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam.
- Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam” của tác
giả Trần Phước Thu thực hiện năm 2014 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về HĐBH tài sản, như khái niệm, đặc điểm
của HĐBH tài sản, phân biệt HĐBH tài sản với các loại HĐBH khác, khái quát lịch sử
của HĐBH tài sản, vai trò, ý nghĩa của HĐBH tài sản. Luận văn cũng làm rõ những vấn
đề pháp lý chủ yếu của HĐBH tài sản, như chủ thể, điều kiện của hiệu lực của HĐBH tài
sản, hình thức của HĐBH tài sản, quyền và nghĩa vụ của các bên trong HĐBH tài sản,
pháp luật điều chỉnh quan hệ HĐBH tài sản. Luận văn cũng làm rõ thực trạng pháp luật
Việt Nam về HĐBH tài sản với những chế định cơ bản như giao kết HĐBH tài sản,
chuyển nhượng HĐBH tài sản, giải quyết bồi thường thiệt hại trong HĐBH tài sản,
HĐBH trùng và giải quyết tranh chấp từ HĐBH tài sản. Từ những nghiên cứu này, luận
văn đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về HĐBH tài sản. Nội dung về phí trong
bảo hiểm tài sản chỉ được lồng ghép trong một số nội dung mà chưa có một nội dung
độc lập trong cơng trình nghiên cứu này.
- Luận văn thạc sĩ, “Pháp luật bảo hiểm tài sản - Thực trạng áp dụng và hướng

hoàn thiện”, thực hiện năm 2006 tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh của
tác giả Lý Minh Triết. Cơng trình này nghiên cứu chung về bảo hiểm tài sản trong một
số phần có đề cập đến vấn đề vể phí bảo hiểm tài sản tác giả đã chỉ ra một số hạn chế
trong quy định về phí bảo hiểm tài sản nhưng chưa đề cập sâu đến các tranh chấp Luận
văn này được thực hiện vào năm 2006. Tuy nhiên, trên thực tế giai đoạn 2006 đến
2015 rất nhiều tranh chấp về phí bảo hiểm diễn ra trên thực tế, đến năm 2010, 2019 khi


4
sửa đổi bổ sung Luật KDBH 2000 và Luật KDBH năm 2022 thì một số hạn chế vẫn
cịn tồn tại.
- Bài viết “Về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm và thời điểm phát sinh trách nhiệm
bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, đăng tải trên Tạp
chí Khoa học pháp lý số 5(42) năm 2007. Bài viết nghiên cứu cở sở lý luận của quy
định về nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm. Tác giả đánh giá sâu vai trò của hai phương diện
kinh tế và pháp lý là cơ sở để hình thành nên quy định về trách nhiệm đóng phí bảo
hiểm của bên mua bảo hiểm. cùng với đó, nghiên cứu giữa đơn bảo hiểm, thời điểm
giao kết HĐBH, giấy chứng nhận bảo hiểm trong mối quan hệ làm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm trên cơ sở Luật KDBH năm 2000 và đề xuất kiến nghị hoàn thiện.
Luận án tiến sĩ Kinh tế “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phí bảo hiểm
của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam” của tác giả Trần Hùng Dũng thực
hiện tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2009.
Sách tham khảo “Pháp luật kinh doanh bảo hiểm”, tác giả Bùi Thị Hằng Nga,
Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2015. Thơng qua các nội dung được
trình bày cụ thể, rõ ràng và hợp lý, sách đã khái quát được các nội dung của pháp luật
hiện hành điều chỉnh đối với hoạt động KDBH; quy định về chủ thể KDBH, HĐBH,
quản lý nhà nước đối với hoạt động KDBH.
- Sách tham khảo “Pháp luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam” của các tác giả
Bùi Thị Hằng Nga và Bạch Thị Nhã Nam, Xuẩt bản Đại học Quốc gia TP. HCM,
2020. Cuốn sách giới thiệu tổng quan về bảo hiểm và hoạt động KDBH, trình bày và

phân tích các ngun tắc pháp lý và quy định pháp luật điều chỉnh, quản lý hoạt động
KDBH và chế độ pháp lý đối với HĐBH cũng như một số HĐBH thông dụng.
- Bài viết “Chế định chuyển u cầu địi bồi hồn trong pháp luật bảo hiểm tài
sản” của các tác giả Nguyễn Thị Thủy, Đỗ Lệnh Quân” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
số 15 (439), tháng 8/2021, tr.14-20. Bài viết phân tích làm rõ cơ sở hình thành chế
định chuyển u cầu địi bồi hồn trong bảo hiểm tài sản; phân tích làm rõ các yếu tố
làm phát sinh việc chuyển yêu cầu đòi người thứ ba bồi hoàn trong bảo hiểm tài sản,
như: có HĐBH, có sự kiện bảo hiểm xảy ra, nguyên nhân dẫn đến tổn thất là do hành
vi có lỗi của người thứ ba gây ra đối với tài sản được bảo hiểm và phải nằm trong
phạm vi bảo hiểm, có thiệt hại thực tế xảy ra và có lỗi, doanh nghiệp KDBH phải hoàn
thành trách nhiệm bồi thường trước cho bên được bảo hiểm khi có thiệt hại do bên thứ
ba gây ra đối với tài sản được bảo hiểm. Bài viết cũng phân tích làm rõ các quy định


5
của pháp luật về chuyển u cầu địi bồi hồn trong bảo hiểm tài sản và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật.
- Bài viết “Mối quan hệ pháp lí giữa quyền lợi được bảo hiểm và hiệu lực của
hợp đồng bảo hiểm tài sản” của tác giả Nguyễn Thị Thủy đăng trên Tạp chí Luật học,
số 10/2016, tr. 52 - 61. Bài viết làm rõ quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài
sản, thời điểm cần có quyền lợi đối với tài sản bảo hiểm, hiệu lực pháp lí của HĐBH
tài sản khi bên mua bảo hiểm khơng có hoặc khơng cịn quyền lợi được bảo hiểm, từ
đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này, gồm kiến
nghí Luật KDBH cần đưa ra khái niệm về “quyền lợi được bảo hiểm” đối với bảo
hiểm tài sản, pháp luật cần quy định rõ quyền lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài
sản và bảo hiểm con người, Luật KDBH không nên quy định quyền tài sản là quyền
lợi được bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản, phần HĐBH tài sản của Luật KDBH nên có
điều khoản quy định về việc bắt buộc bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi được bảo
hiểm đối với tài sản khi tham gia quan hệ bảo hiểm tài sản, pháp luật KDBH cần có
điều luật quy định cụ thể bên mua bảo hiểm phải có quyền lợi được bảo hiểm từ thời

điểm nào.
- Khóa luận tốt nghiệp “Quy định pháp luật về phí bảo hiểm tài sản – Thực
trạng và giải pháp” thực hiện tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh năm 2013
của tác giả Trần Tôn Châu Giang. Tác giả đã nghiên cứu khái quát các quy định của
pháp luật Việt Nam về phí bảo hiểm tài sản và đi sâu nghiên cứu vấn đề này về mặt
thực trạng cơng trình này đề cập dưới góc độ cạnh tranh giữa các DNBH trên thị
trường bảo hiểm. Tuy nhiên, nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích luật để
đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật nên kết luận mang tính khả thi chưa
cao.
Ngồi ra, cịn một số cơng trình trong nghiên có đề cập đến phí bảo hiểm tài sản
như:
- Khóa luận tốt nghiệp “Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của doanh
nghiệp bảo hiểm”, tác giả Ngô Thị Hiền, thực hiện tại Trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh năm 2010;
- Khoa luận tốt nghiệp “Sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm tài sản”, tác giả Vũ
Thị Thu Huệ, thực hiện tại Trường Đại học Luật , Thành phố Hồ Chí Minh, 2015.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
- Sách chuyên khảo “Handbook of Insurance" (tạm dịch: Cẩm nang về bảo
hiểm), xuất bản lần thứ 2 do tác giả Georges Dionne biên tập, Nxb. Springer 2013.


6
Cuốn sách hơn 1000 trang với 37 chuyên để của các tác giả có liên quan đến bảo hiểm,
trong đó có những nội dung rất thiết thực như Học thuyết về nhu cầu bảo hiểm (The
Theory of Insurance Demand) của Harris Schlesinger từ trang 167 đến trang 184; Học
thuyết về rủi ro (The Theory of Risk Classification) của Keith J. Crocker và Arthur
Snow, từ trang 281 đến trang 313; Phân tích kinh tế về gian lận bảo hiểm (Economic
Analysis of Insurance Fraud) của Pierre Picard, từ trang 349 đến trang 395; Thông tin
bất cân xứng trong thị trường bảo hiểm (Asymmetric Information in Insurance
Markets: Predictions and Tests) của Pierre-André Chiappori và Bernard Salanié, từ

trang 397 đến trang 422; Yêu cầu đối với bảo hiểm doanh nghiệp: Sáng tạo giá trị (On
the Demand for Corporate Insurance: Creating Value) của Richard MacMinn và James
Garven, từ trang 487 đến trang 516. Cuốn sách trở thành cẩm nang, là nguồn tham
khảo rất có giá trị cho các giáo sư, nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh, nhà quản lý, nhà
tư vấn và người thực hành liên quan đến các vấn đề về bảo hiểm. Cuốn sách được thiết
kế bắt đầu với lịch sử và cơ sở của lý thuyết rủi ro và bảo hiểm, tiếp theo là tổng quan
về phịng ngừa, thơng tin bất cân xứng, quản lý rủi ro, định giá bảo hiểm, đổi mới tài
chính, tái bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp, phân bổ vốn, chứng khốn hóa, rủi ro hệ
thống, quy định bảo hiểm, tổ chức công nghiệp của thị trường bảo hiểm và các ứng
dụng thị trường bảo hiểm khác và kết thúc là kiến thức về bảo hiểm sức khỏe, rủi ro
tuổi thọ, bảo hiểm chăm sóc dài hạn, các sản phẩm tài chính bảo hiểm nhân thọ và bảo
hiểm xã hội.
- Bài viết “Price, information and product quality: Explaining index insurance
demand in Burkina Faso” (tạm dịch: Giải thích nhu cầu bảo hiểm theo các chỉ số : Giá
cả, thông tin và chất lượng sản phẩm ở Burkina Faso) của các tác giả Quentin Stoeffler
và Gülce Opuz, đăng trên Tạp chí Food Policy số 108 (2022) 102213, tr.1-21.
Cơng trình nghiên cứu về nhu cầu bảo hiểm dựa trên các chỉ số để xác định yếu
tố quyết định đến nhu cầu mua bảo hiểm của những người nông dân ở khu vực
Burkina Faso. Các nhà nghiên cứu đã cung cấp HĐBH đến 40 nhóm nơng dân trồng
bơng trong giai đoạn thí điểm năm 2014-2015, sau đó nhân rộng ra tồn quốc khoảng
7.000 nhóm vào năm 2018. Nhóm nghiên cứu đã khai thác các mơ hình để đo lường và
so sánh ảnh hưởng của giá cả, thông tin và chất lượng sản phẩm đối với nhu cầu bảo
hiểm của những người nông dân trồng bông ở Burkina Faso, một loại cây trồng có giá
trị thương mại cao, nhưng lại có nhiều rủi ro hơn các loại cây lương thực truyền thống.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, giá cả có ảnh hưởng quan trọng đến nhu cầu, trong khi
thơng tin cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, sự khác biệt về chất lượng
sản phẩm giữa các nhóm nơng dân khơng ảnh hưởng đến nhu cầu mua bảo hiểm. Quá


7

trình mở rộng quy mơ nghiên cứu chỉ ra nhu cầu mua bảo hiểm thấp hơn nhiều so với
giai đoạn thí điểm. Điều này cho thấy nỗ lực thực hiện trong q trình thí điểm cũng
đóng vai trị rất quan trọng trong việc thúc đẩy người nông dân tham gia bảo hiểm.
Những phát hiện này cho thấy rằng các sản phẩm bảo hiểm theo chỉ số chất lượng cao
có thể hấp dẫn đối với nông dân, nhưng giá cả cùng với các yếu tố khác, vẫn là những
rào cản lớn đối với việc thúc đẩy họ tham gia các HĐBH. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy rằng nông dân quy mô nhỏ không hiểu đầy đủ về các công cụ tài chính phức
tạp được cung cấp cho họ về mặt thương mại, với những chính sách để thúc đẩy khả
năng phục hồi sản xuất.
- Bài viết “The evolution of cyber-insurance industry and market: An
institutional analysis The cyber-insurance (CI) market is at a nascent stage” của Nir
Kshetri (Tạm dịch: Sự phát triển của thị trường và ngành công nghiệp bảo hiểm điện
tử: Phân tích thể chế thị trường bảo hiểm điện tử (CI) ở giai đoạn sơ khai) của Nir
Kshetri, đăng trên Tạp chí Telecommunications Policy, số 44 (2020) 102007, trang 114. Bài viết nghiên cứu làm rõ bản chất, nguồn gốc và tác động của các thể chế liên
quan đến thị trường bảo hiểm điện tử; giải thích về mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa
các trụ cột thể chế có liên quan đến thị trường bảo hiểm điện tử; chỉ rõ các yếu tố có
ảnh hưởng đến cung cầu thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường đầy tiềm năng này.
Tuy nhiên, một thực tế là hầu hết các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức được tầm quan
trọng của thị trường này. Một nghiên cứu chỉ ra rằng trong năm 2017, chỉ có hơn 75%
doanh nghiệp lớn có sản phẩm bảo hiểm điện tử ở một số danh mục bảo hiểm, ít hơn
5% so với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một khảo sát các doanh nghiệp ở Vương quốc
Anh đầu năm 2020 cho thấy chỉ có 32% số doanh nghiệp có sản phẩm bảo hiểm điện
tử. Tương tự như vậy, ở Hoa Kỳ năm 2020 chỉ có khoảng gần 20% doanh nghiệp nhỏ
có sản phẩm bảo hiểm điện tử. Mấu chốt của vấn đề này là sự thiếu quy định của pháp
luật và rủi ro trong bảo hiểm điện tử là rất lớn. Ví dụ, vào tháng 6 năm 2017, công ty
thực phẩm quốc tế Mondelez International đã trở thành nạn nhân của cuộc tấn công
mạng NotPetya, một loại ransomware mã hóa lần đầu tiên được tìm thấy vào năm
2016. Cuộc tấn công đã ảnh hưởng đến 1700 máy chủ và 24.000 máy tính xách tay của
Mondelez, làm các máy tính này bị hỏng và khơng khơi phục được. Mondelez cho
rằng mất mát do tài sản bị thiệt hại, do gián đoạn trong việc cung cấp và phân phối

thương mại và khơng có khả năng đáp ứng các đơn đặt hàng của khách hàng, từ đó
giảm tỷ suất lợi nhuận và các tổn thất khác đã vượt quá 100 triệu đô la Mỹ. Mondelez
đã đệ đơn khiếu nại với cơng ty bảo hiểm của mình là Zurich American Insurance yêu


8
cầu bồi thường những thiệt hại này. Kể từ tháng 3 năm 2020, vụ kiện vẫn đang tiếp
tiếp tục được giải quyết.
- Bài viết “Pricing and return strategy of online retailers based on return
insurance” (Tạm dịch: Chiến lược định giá và hoàn trả đối với các nhà bán lẻ trực
tuyến dựa trên bảo hiểm hồn trả), đăng trên Tạp chí Journal of Retailing and
Consumer Services số Volume 59, March 2021, 102350 của các tác giả Minglun Rena,
Jiqiong Liuabc, Shuai Fengabc và Aifeng Yanga.
Nội dung bài viết đề cập đến sự phát triển của thương mại điện tử, dẫn đến việc
mua sắm trực tuyến ngày càng trở nên phổ biến và trong bối cảnh đó, người tiêu dùng
khơng thể tránh khỏi vấn đề đổi, trả lại hàng hóa. Theo các danh mục sản phẩm khác
nhau, tỷ lệ hồn trả trung bình khi mua hàng trực tuyến là khoảng 15–40%, cao gấp 34 lần tỷ lệ hoàn trả 5–10% của các cửa hàng thực. Tỷ lệ hoàn trả đối với quần áo và
giày dép mua trực tuyến thường là 30–40%. Chính sách hồn trả ngày càng phổ biến
với người tiêu dùng vì họ có thể trả lại các sản phẩm khơng đạt yêu cầu và được hoàn
lại toàn bộ tiền. Tuy nhiên, việc xử lý trả lại của khách hàng là rất tốn kém đối với các
nhà bán lẻ trực tuyến. Tổn thất từ doanh thu trực tuyến ở Hoa Kỳ vào năm 2019 ước
tính chiếm 9,6% tổng doanh số bán lẻ trực tuyến, khiến các nhà bán lẻ trực tuyến mất
41 tỷ đô la doanh thu. Tuy nhiên, chiến lược dịch vụ hồn trả lại mang đến sự hài lịng
của người tiêu dùng và thúc đẩy doanh số bán hàng, một số nhà bán lẻ trực tuyến
không muốn áp dụng chiến lược này, do các vấn đề ngày càng tăng với việc trả hàng
của khách hàng. Tobin Moore, Giám đốc điều hành của Optoro chỉ ra rằng trong vài
năm tới, với sự phát triển của thương mại điện tử toàn cầu, số tiền thu về sẽ hơn một
nghìn tỷ đơ la mỗi năm. Chi phí trả lại sản phẩm cũng liên quan đến chi phí ẩn của q
trình trả hàng, khơng chỉ bao gồm chi phí đóng gói lại, xử lý tân trang và giải phóng
hàng tồn kho mà cịn cả chi phí hậu cần ngược lại.

Để giải quyết mâu thuẫn này, vào ngày 9 tháng 11 năm 2010, Tập đoàn Bảo
hiểm Huatai của Trung Quốc, kết hợp với nền tảng Taobao, đã tung ra sản phẩm bảo
hiểm Internet thực sự đầu tiên ở Trung Quốc là “Bảo hiểm tổn thất hàng hóa hồn trả
trong mua sắm trực tuyến” (gọi tắt là “bảo hiểm hoàn trả”). Bảo hiểm hoàn trả là một
loại bảo hiểm trực tuyến được kết hợp hoàn toàn với mua sắm trực tuyến, có thể giúp
các nhà bán lẻ trực tuyến cung cấp các chính sách hồn trả thoải mái hơn và giúp
người tiêu dùng giảm tổn thất khi trả lại hàng. Bảo hiểm hoàn trả do Tập đoàn Bảo
hiểm Huatai và nền tảng Taobao đồng khởi chạy bao gồm phiên bản của người bán và
phiên bản của người mua. Theo bảo hiểm hoàn trả của người bán, nhà bán lẻ trực
tuyến cung cấp dịch vụ trả hàng với bảo hiểm hồn trả miễn phí cho người tiêu dùng


9
và người tiêu dùng được bồi thường cho khoản phí vận chuyển ngược lại do cơng ty
bảo hiểm thanh tốn sau khi trả hàng, điều này có thể làm tăng khả năng mua hàng của
người tiêu dùng. Người tiêu dùng cũng có thể mua bảo hiểm hồn trả của người mua
khi nhà bán lẻ trực tuyến cung cấp dịch vụ hồn trả nhưng khơng cung cấp bảo hiểm
trả lại miễn phí. Trong trường hợp này, chỉ có thể nhận được khoản bồi thường vận
chuyển ngược lại do công ty bảo hiểm chi trả sau khi người tiêu dùng mua bảo hiểm
hoàn trả của người mua.
Bài viết tập trung làm rõ bốn nội dung sau:
+ Khi nào các nhà bán lẻ trực tuyến nên chọn cung cấp dịch vụ hoàn trả hàng và
loại chiến lược hồn trả hàng nào có thể làm tăng thị phần và lợi nhuận của các nhà
bán lẻ trực tuyến?
+ Lợi nhuận của người tiêu dùng, phí bảo hiểm hồn trả và bồi thường vận
chuyển hàng hóa hoàn trả ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động của các nhà bán lẻ
trực tuyến và thặng dư của người tiêu dung?
+ Các nhà bán lẻ trực tuyến có nên cung cấp cho người tiêu dùng bảo hiểm
hoàn trả hàng miễn phí khơng? Nếu khơng, người tiêu dùng có nên tự mua bảo hiểm
hồn trả khơng? Có sự khác biệt đối với người mua bảo hiểm hoàn trả với người

không mua?
+ Hiệu quả hoạt động của nhà cung cấp bảo hiểm có liên quan đến chủ hợp
đồng là ai không?
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khi giá trị còn lại của một sản phẩm bị trả lại là
dương, nhà bán lẻ trực tuyến nên cung cấp chính sách hoàn trả và nhà bán lẻ trực
tuyến nên cố gắng cải thiện giá trị còn lại của sản phẩm bị hoàn trả trong kênh trực
tuyến bằng cách giảm lỗ từ việc xử lý hàng trả lại của người tiêu dùng, vì việc cải
thiện giá trị cịn lại của sản phẩm bị trả lại và làm cho giá trị đó trở nên tích cực có thể
giúp các nhà bán lẻ trực tuyến hưởng lợi từ việc thực hiện chiến lược hoàn trả hàng
hóa.
- Bài viết “Connected automated vehicles and insurance: Analysing future
market-structure from a business ecosystem perspective” (Tạm dịch: Phương tiện giao
thông kết nối tự động với bảo hiểm), đăng trên Tạp chí Technology in Society,
Volume 59, November 2019, 101182 của các tác giả Fabian Pützab, Finbarr Murphya,
Martin Mullinsa và Lisa O'Malley.


10
Việc đẩy mạnh tự động hóa và kết nối phương tiện giao thơng sẽ vừa tăng
cường an tồn giao thơng vừa tạo ra các lợi ích xã hội và cá nhân khác như cải thiện
dịch vụ di chuyển cho người khuyết tật hoặc tăng sự thoải mái cho mọi người khi đi
lại. Sự kết nối tự động của các phương tiện giao thơng giúp chúng có thể giao tiếp với
nhau và với cơ sở hạ tầng để cung cấp thông tin về vị trí, tốc độ, v.v. Điều này đã tác
động sâu sắc đến các mơ hình kinh doanh hiện tại và dịng doanh thu trong lĩnh vực ơ
tơ và vận tải. Vì thứ nhất, điều này là do sự thay đổi xã hội về việc đi lại, chuyển từ mơ
hình di chuyển dựa trên sở hữu sang sử dụng dịch vụ dựa trên các ưu đãi di chuyển
chung. Thứ hai, cơ hội tạo ra các nền tảng hệ sinh thái kinh doanh kỹ thuật số xung
quanh sản phẩm cốt lõi vật lý là phương tiện ô tô nảy sinh từ sự kết nối với nhau của
các phương tiện hiện đại.
Những thay đổi này có ý nghĩa sâu rộng đối với lĩnh vực ô tô và vận tải nhưng

các thị trường mạnh mẽ. Trên thực tế, lĩnh vực bảo hiểm là một trong những bên liên
quan chặt chẽ đến sự phát triển của việc kết nối tự động của các phương tiện giao
thông. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan đến lý luận và thực tiễn về việc kết nối tự
động của các phương tiện giao thông và bảo hiểm chủ yếu tập trung vào tác động tiềm
tàng của công nghệ kết nối tự động của các phương tiện giao thông đối và trách nhiệm
pháp lý do tai nạn cũng như tác động của rủi ro tai nạn vốn có của việc kết nối tự động
của các phương tiện giao thơng đối với doanh số phí bảo hiểm chung của thị trường
bảo hiểm phương tiện giao thông. Việc nghiên cứu các tác động đến mơ hình KDBH
hiện tại và tương lai chưa được chú trọng. Các phân tích về các khía cạnh liên quan
đến bảo hiểm của hệ sinh thái kết nối tự động của các phương tiện giao thông mới chỉ
được giải quyết một phần liên quan đến thực tiễn. Bài nghiên cứu tập trung làm rõ
chiến lược quan trọng đối với các công ty bảo hiểm xe máy, liên quan đến các nền
tảng hệ sinh thái kinh doanh cũng như phân tích làm rõ tác động của việc kết nối tự
động của các phương tiện giao thông đến môi trường cạnh tranh trong tương lai của thị
trường bảo hiểm xe máy.
2.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngồi cho thấy, phần
lớn các cơng trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài mới chỉ đi sâu nghiên cứu về
lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo hiểm tài sản nói
chung và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tài sản và nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hiểm tài sản. Những kết quả nghiên cứu này sẽ
được tác giả luận văn kế thừa có chọn lọc trong cơng trình nghiên cứu của mình.


11
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về tranh chấp
và giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản. Vì vậy hướng nghiên cứu của luận
văn về thực trạng tranh chấp về phí trong bảo hiểm tài sản là một vấn đề hoàn tồn
mới và khơng trùng lắp với bất kỳ cơng trình nào trong nước và nước ngồi. Trong
cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả sẽ đi sâu nghiên cứu các nội dung chính sau

đây:
- Một là, làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến phí bảo hiểm tài sản;
- Hai là, phân tích làm rõ thực trạng quy định của pháp luật về phí bảo hiểm tài
sản và pháp luật giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản;
- Ba là, làm rõ thực trạng tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản và thực tiễn giải
quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản tại tịa án trong giai đoạn 2005-2022, chỉ ra
những hạn chế trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản và nguyên
nhân của những hạn chế, từ đó đưa ra giải pháp hướng hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả giải quyết tranh chấp về phí trong bảo hiểm tài sản.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Thơng qua việc làm rõ những vấn đề lý luận về phí BH trong BHTS, phân tích
làm rõ các hạn chế trong các quy định pháp luật về phí BH trong BHTS và hạn chế
trong giải quyết tranh chấp về phí BH trong BHTS, luận văn có mục đích đưa ra một
số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của pháp luật về phí bảo hiểm tài sản.
3.2 Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết ba nhiệm vụ
chính sau đây:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về phí và pháp luật về phí bảo hiểm
trong HĐBH tài sản;
- Phân tích làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp về phí
bảo hiểm trong HĐBH tài sản;
- Đưa ra giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phí bảo hiểm tài sản và
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về phí bảo hiểm tài sản.


12
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về phí bảo hiểm tài
sản; các quy định của pháp luật về phí bảo hiểm trong HĐBH tài sản trên cơ sở Luật
KDBH số 24/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 4 năm 2001; Luật số 61/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH, có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 7 năm 2011; Luật số 42/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Quốc hội
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH, Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 11 năm 2019. Luật KDBH số 08/2022/QH15 ngày 16 tháng 6 năm
2022, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 1 năm 2022; Bô Luật dân sự Luật số
91/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015 có hiệu lực ngày 01 tháng 7 năm 2017;
Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật KDBH và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KDBH, có
hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, được sửa đổi, bổ sung bởi: Nghị định số
151/2018/NĐ-CP ngày 07 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
Nghị định quy định về điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ Tài chính, có hiệu lực kể từ ngày 07 tháng 11 năm 2018. Nghị định số
80/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Luật KDBH và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
KDBH; Nghị định số 98/2013/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH, kinh doanh xổ số đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 48/2018/NĐ-CP ngày 21 tháng 3 năm
2018 của Chính phủ, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2019; cũng như
các văn bản pháp luật có liên quan đến phí bảo hiểm trong HĐBH tài sản; Đối tượng
nghiên cứu của luận văn cũng bao gồm thực tiễn giải quyết các tranh chấp về HĐBH
tài sản tại các Tòa án Nhân dân (TAND) các cấp tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam về phí bảo hiểm trong HĐBH tài sản.
- Phạm vi về thời gian: Tác giả nghiên cứu thực trạng pháp luật kể từ thời

điểm Luật KDBH năm 2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019) và Luật KDBH năm
2022 và các văn bản pháp luật có liên quan được ban hành cho đến nay; về thực tiễn


13
tác giả nghiên cứu các tranh chấp về phí trong HĐBH tài sản được TAND các cấp giải
quyết từ năm 2005 đến năm 2022.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện đề tài và đạt được mục đích như mong muốn tác giả sử dụng
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử để giải quyết các vấn
đề khách quan. Đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác như: tổng hợp,
phân tích, so sánh… và các phương pháp khác.
5.1. Phương pháp luận
- Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong quy định về phí bảo hiểm tài
sản và trong giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản, trong đó tơn trọng tối đa
nguyên tắc pháp chế XHCH, tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân, cá nhân, tổ chức đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Để đạt được mục đích đã đề ra, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, so sánh, suy
luận logic, phân tích quy phạm pháp luật, nghiên cứu điển hình…
- Các phương pháp nghiên cứu như phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, so
sánh, suy luận logic, phân tích quy phạm pháp luật được sử dụng trong chương 1 để
làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng quy định của pháp luật về phí trong HĐBH
tài sản, từ đó chỉ ra những hạn chế trong quy định về phí bảo hiểm tài sản.
- Các phương pháp phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, suy luận logic,
nghiên cứu điển hình được sử dụng trong chương 2 để phân tích làm rõ thực tiễn tranh
chấp và giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản, chỉ ra những hạn chế và nguyên
nhân của hạn chế trong giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản, từ đó đưa ra kiến

nghị hồn thiện pháp luật về phí bảo hiểm tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định của pháp luật về phí bảo hiểm tài sản.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần bổ sung và hồn thiện những vấn đề lý luận về phí trong
HĐBH tài sản, qua đó góp phần nghiên cứu và thống nhất áp dụng quy định của pháp
luật về phí trong HĐBH tài sản.


14
- Giá trị ứng dụng
Những giải pháp, kiến nghị của đề tài có thể tham khảo trong thực tiễn giải
quyết tranh chấp và góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật;
Đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập
đối với những độc giả quan tâm đến phí bảo hiểm tài sản cũng như làm tài liệu tham
khảo trong giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm tài sản.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn bao gồm: Mục lục, Lời mở đầu, Phần nội dung, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo. Trong đó, Phần nội dung được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về phí bảo hiểm
trong hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về phí bảo hiểm trong hợp đồng bảo
hiểm tài sản và giải pháp hoàn thiện.


15
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ PHÍ BẢO HIỂM TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN
1.1. Khái quát về phí bảo hiểm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản

1.1.1. Khái niệm về phí bảo hiểm và phí bảo hiểm tài sản
Bảo hiểm ra đời là lĩnh vực ra đời từ khá sớm song đến nay vẫn chưa có một
khái niệm thống nhất, bởi lẽ dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau các tác giả lại đưa
ra một khái niệm thể hiệm góc nhìn về bảo hiểm.
Dước góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm. “Bảo hiểm là một
nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí
bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để
trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác
là người bảo hiểm,người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt
hại theo Luật Thống Kê7”.
Theo Dennis Kenssler.Risque No 17.Jan-Mars 1994 - Mỹ “Bảo hiểm là sự đóng
góp của số đơng vào sự bất hạnh của số ít8”.
Dưới góc độ kinh tế học, TS. Hoàng Văn Châu định nghĩa: “Bảo hiểm là
phương pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít người cho nhiều người
cùng có khả năng gặp những tổn thất như vậy, bằng cách thu của họ một số tiền nào
đấy tuỳ theo mức độ rủi ro (xác suất tổn thất) mà họ có thể gặp để lập ra một quỹ
chung và khi có thiên tai hoặc tai nạn bất ngờ thì từ quỹ chung đó bồi thường cho họ
những tổn thất mà họ phải chịu. Nhờ cách chia nhỏ như vậy, những tổn thất lẽ ra rất
nặng nề và nghiêm trọng đối với một người, một số ít người sẽ trở nên ít nghiêm trọng
hơn, ít nặng nề hơn, thậm chí khơng đáng kể đối với cả cộng đồng những người tham
gia bảo hiểm9”.
Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam định nghĩa: “Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ
rủi ro của một người hay một số ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng
gặp rủi ro cùng loại bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định
vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho các thành viên trong cộng
đồng không may bị thiệt hại do những rủi ro đó gây ra10”.
Bảo hiểm tài sản là loại hình bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm “thiệt hại”. Theo
Luật KDBH năm 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010 và sửa đổi bổ sung 2019) (sửa đổi bổ
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), “Giáo trình bảo hiểm”, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, tr.10.
Trường Đại học Cơng nghiệp TP.HCM (2008) “Giáo trình ngun lý bảo hiểm” (7), Nxb. Thống kê, tr.21.

9
Hoàng Văn (2002), “Bảo hiểm trong kinh doanh”, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, tr.08.
10
Nguyễn Thị Thủy (2017), tlđd (4), tr.9.
7
8


16
sung 2010,2019) “Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách
nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ11”.
Luật KDBH năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019 định nghĩa: “Kinh
doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp
nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm
để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm12”.
Để đưa ra đinh nghĩa về bảo hiểm dưới góc độ phù hợp với bản chất, cơ chế
kinh tế trong mối quan hệ pháp lý với HĐBH bảo hiệm. Theo tác giả, bảo hiểm là hoạt
động tạo lập quỹ tiền tệ của bên bảo hiểm được hình thành chủ yếu từ nguồn thu phí
(ngồi ra cịn nguồn khác như vốn, lợi nhuận… của DNBH được trích lập) bảo hiểm
của bên mua bảo hiểm. Bên bảo hiểm (DNBH) sử dụng quỹ này để chi trả hoặc bồi
thường cho những trường hợp thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo cam kết và theo quy
định của pháp luật. Như vậy trong định nghĩa đã thể hiện mối quan hệ giữa “quỹ tiền
tệ”, “phí bảo hiểm” và “sự kiện bảo hiểm” với trách nhiệm trả tiền hoặc bồi thường
bảo hiểm của nhà bảo hiểm.
Hiện nay, khái niệm về phí bảo hiểm được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Phí bảo hiểm là một bộ phận cấu thành nên mối quan hệ giữa các bên trong
HĐBH mối quan hệ này thể hiện tính chất pháp lý bởi lẽ, “hợp đồng bảo hiểm là sự
thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng
phí bảo hiểm, doanh nghiệp phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi

thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm13”.
Dưới góc độ pháp lý tiếp cận về thuật ngữ “phí” thì “phí là khoản tiền mà tổ
chức, cá nhân phải trả nhằm cơ bản bù đắp chi phí và mang tính phục vụ khi được cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giao cung cấp dịch vụ cơng được quy định trong Danh mục phí ban hành kèm
theo Luật này14”. Theo đó, phí được hiểu là một khoản tiền phải trả của các tổ chức, cá
nhân để bù đáp chi phí các hoạt động của các để bù đắp chi phí hoạt động của các cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghệp công lập và tổ chức được nhà nước giao thẩm quyền.
Như vậy, cơ sở để thu phí là một bên cung cấp dịch vụ và một bên sử dụng dịch vụ
khoản tiền phải tra là trả cho dịch vụ được bên nhận dịch vụ sử dụng, phí được xem là

Khoản 18, Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019.
Khoản 1 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019.
13
Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019.
11
12

14

Khoản 1, Điều 3 Luật phí và lệ phí năm 2015.


17
khoản thu để trang trải cho cơ sở hạ tầng, kỹ thuật cung cấp dịch vụ và bộ máy hoạt
động. Phí mang tính chất tự nguyện và đối giá.
Theo từ điển Oxford phí bảo hiểm được hiểu là: “phí bảo hiểm là một số tiền
phải trả cho một hợp đồng bảo hiểm15”. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (IAV) định
nghĩa phí bảo hiểm là giá cả của dịch vụ bảo hiểm (sản phẩm bảo hiểm), là số tiền mà
bên mua bảo hiểm phải trả theo hợp đồng để DNBH đảm bảo cho họ trước các rủi ro16.

Theo các tác giả của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Phí bảo hiểm (còn
được gọi là giá cả của sản phẩm bảo hiểm) là một số tiền mà người tham gia bảo hiểm
phải trả cho công ty bảo hiểm để đổi lấy sự đảm bảo trước các rủi ro chuyển sang cho
công ty bảo hiểm17. Thuật ngữ phí bảo hiểm thường được dùng trong các cơng ty bảo
hiểm, trong khi đó các tổ chức hay hội tương hỗ lại sử dụng thuật ngữ “mức đóng
góp”.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam khái niệm phí bảo hiểm được các nhà
lập pháp Việt Nam ghi nhận trong Bộ Luật Dân sự 1995 và Bộ Luật Dân sự 2005
(BLDS) trong Mục Hợp đồng bảo hiểm18. Tuy nhiên, khi ban hành Bộ Luật Dân sự
2015 thì quy định này đã bãi bỏ. Hiện nay khái niệm về phí được ghi nhận trong Luật
KDBH năm 2000, (sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019). Theo đó, phí bảo hiểm là khoản
tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho DNBH theo thời hạn và phương thức do các
bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm19.
Thực tế hiện nay, đối với phí bảo hiểm tài sản khơng có định nghĩa nào về phí
bảo hiểm tài sản tác giả dựa vào định nghĩa về phí, phí bảo hiểm và bản chất của
HĐBH tài sản xin được đưa ra định nghĩa về phí bảo hiểm tài sản. “Phí bảo hiểm tài
sản là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm tài sản phải trả cho Doanh nghiệp bảo hiểm
theo thời hạn và phương thức các bên thỏa thuận trong hợp đồng, đây là nguồn thu
chủ yếu để Doanh nghiệp bảo hiểm tạo lập quỹ bảo hiểm”.
1.1.2. Đặc điểm của phí bảo hiểm tài sản
Phí bảo hiểm thể hiện mối quan hệ tài chính giữa bên cung cấp dịch vụ và bên
sử dụng dịch vụ trong mối quan hệ này quyền lợi ích của mỗi bên được thể hiện bởi
được thực hiện bởi bên kia và ngược lại xuất phát từ yêu cầu đó phí bảo hiểm có
những đặc điểm sau:

“Premium is an amount to be paid for a contract of insurance”.
( cập nhật ngày 23/8/2019).
17
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2008), tlđd (7), Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, tr.123.
18

Điều 576 Bộ Luật Dân sự 1995 và Điều 572 Bộ Luật Dân sự 2005.
19
Khoản 11, Điều 3 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019.
15
16


18
Thứ nhất, phí bảo hiểm được cơ cấu gồm hai phần, từ cơ cấu phí xác lập một
khoản tiền cụ thể mà bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ phải thanh tốn cho DNBH.
Một là, phí thuần thường mang tính tương đối, là khoản phí phải thu cho phép
cơng ty bảo hiểm đảm bảo chi trả, bồi thường cho các khoản tổn thất được bảo hiểm
khi nó xảy ra. Khoản phí này thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng phí tồn bộ và được
tính tốn dựa trên các căn cứ như: (i) Xác suất xảy ra rủi ro (khả năng xảy ra tổn thất
phải bồi thường); (ii) Cường độ tổn thất (tính khốc liệt, mức độ trầm trọng của tổn
thất); (iii) Số tiền bảo hiểm; (iv) Thời hạn bảo hiểm (Thời hạn bảo hiểm là khoảng thời
gian DNBH thực hiện trách nhiệm bảo hiểm); (v) Lãi suất đầu tư (thông thường đây là
yếu tố chi phối rất nhiều đến phí thuần trong bảo hiểm nhân thọ);
Hai là, phụ phí được biểu hiện rõ thường được xác lập thành con số cho các sản
phẩm cụ thể, là khoản chi phí cần thiết để công ty bảo hiểm đảm bảo cho các hoạt
động nghiệp vụ bảo hiểm như chi hoa hồng, chi quản lý hành chính, chi đề phịng hạn
chế tổn thất, chi thuế nhà nước, …
Từ cơ cấu phí như trên cơng thức tính phí được xác lập như sau:
P = f + d (trong đó P là phí bảo hiểm tồn bộ; f là phí thuần; d là phụ phí).
Tuy nhiên từ thực tế đối với từng nhóm tài sản cụ thể và rủi ro được tính tốn,
khi tham gia bảo hiểm mà nhà bảo hiểm xác lập công thức tính phí thực tế như sau:
P = STBH x R = STBH x (R1+R2) (trong đó STBH là số tiền bảo hiểm; R tỷ
lệ phí bảo hiểm tài sản; R1 tỷ lệ phí thuần cho nhóm tài sản đó; R2 tỷ lệ phụ phí)
Ví dụ, Một tài sản là đối tượng của HĐBH tài sản có giá trị là 5000.000.000
đồng; tài sản này tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm là 500.000.000 đồng; thời

hạn bảo hiểm là 1 năm. DNBH tính tốn tỷ lệ phí thuần theo sắp suất thông kê là
1%/năm. Như vậy, bên mua bảo hiểm phải nộp phí thuần là 1% x 500.000.000đ =
50.000.000đ/năm; (R2) DNBH tính tốn với một tỷ lệ % phần so với số tiền bảo hiểm.
Tổng tỷ lệ phí (R) được hiểu là tỷ lệ % so với số tiền bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm
và DNBH thỏa thuận, cần lưu ý số tiền bảo hiểm không được vượt quá giá trị tài sản
tham gia bảo hiểm20, phương pháp tính phí thay đổi linh hoạt với từng nghiệp vụ, sản
phẩm cụ thể.
Từ cấu trúc về phí bảo hiểm ở trên cho thấy phí bản hiểm về bản chất là nghĩa
vụ của bên mua bảo hiểm đối với DNBH nghĩa vụ này được xác lập trên cơ sở HĐBH.
Theo Khoản 1, Điều 12 Luật KDBH năm 2000 sửa đổi bổ sung năm 2010, 2019.
HĐBH là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và DNBH, theo đó bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi
20

Điều 42 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung 2010, 2019.


19
thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm21. Nghĩa vụ đóng phí
bảo hiểm của của bên mua bảo hiểm được xác lập và thể hiện mối quan hệ song vụ với
nghĩa vụ bồi thường trong HĐBH tài sản của DNBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Cần
thể hiểu rằng hoạt động KDBH là hoạt động cung ứng dịch vụ của DNBH cho bên
mua bảo hiểm. Theo Khoản 9, Điều 3 Luật thương mại 2005. Cung ứng dịch vụ là hoạt
động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ
thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây
gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh tốn cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch
vụ theo thỏa thuận22. Thương mại dich vụ với tư cách là hoạt động thương mại dùng
để chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ mà thực chất là việc cung ứng
các dịch vụ nhằm mục đích tiềm kiếm lợi nhuận23. Cung ứng dịch vụ là việc thực hiện
một hoặc một số cơng việc có tính chất chun mơn theo u cầu của người khác

nhằm mục đích hưởng thù lao. Trong hoạt động KDBH dịch vụ được cung ứng của
DNBH chính là dịch vụ bảo hiểm, đối tượng kinh doanh là rủi ro, chính vì vậy có thể
xem, sản phẩm bảo hiểm mà DNBH (bên cung ứng dịch vụ) cung cấp là dịch vụ bảo
hiểm với lời cam kết bồi thường để khắc phục lại tình trạng bị thiệt hại về tài sản của
bên mua bảo hiểm (nhận cung cung ứng dịch vụ). Phí biểu hiểm được xem là giá cả
của dịch vụ. Điểm đặc biệt của mối quan hệ giữa bên cung ứng dịch vụ và bên nhận
cung ứng dịch vụ này là cho dù bên nhận cung ứng dịch vụ phải trả một khoản tiền để
được cung ứng dịch vụ nhưng không muốn sự kiện thỏa thuận xảy ra tức là dù phải trả
tiền phí bảo hiểm nhưng không mong muốn sự kiện bảo hiểm xảy ra cho dù khi sự
kiệm xảy ra DNBH phải bồi thường một khoản tiền lớn hơn rất nhiều so với số tiền phí
mà bên mua bảo hiểm đã đóng. Để đảm bảo chi phí và lợi nhuận của bên cung ứng
dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ phải có nghĩa vụ thanh toán tiền sử dụng dịch vụ mà
trong mối quan hệ này đó là tiền phí bảo hiểm.
Thứ hai, phí bảo hiểm tài sản là nguồn thu chủ yếu để tạo lập quỹ bảo hiểm,
DNBH sử dụng quỹ này để bồi thường khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Hoạt động KDBH “là hoạt động mang tính chất cộng đồng, theo quy luật lấy số
đơng bù trừ số ít”, tức là lấy số đông người tham gia bảo hiểm bù trừ cho số ít người
khơng may bị rủi ro gây nên những tổn thất. Chính vì vậy, một đặc điểm nổi bật của
hoạt động KDBH là hoạt động tạo lập quỹ bảo hiểm, nguồn để tạo lập quỹ này chủ yếu
từ nguồn thu từ phí bảo hiểm. Nguồn thu từ phí giúp DNBH trích lập dự phịng cho
Khoản 1, Điều 12 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 sửa đổi, bổ sung năm 2010, 2019.
Khoản 9, Điều 3 Luật thương mại năm 2005.
23
Nguyễn Thị Mơ (2004) “Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở cửa về dịch vụ thương mại”, Nxb. Lý
luận chính trị, tr.21.
21
22



×