Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Skkn chuyên đề tiếng nói tri âm trong độc tiểu thanh kí (nguyễn du), kính gửi cụ nguyễn du (tố hữu) và đàn ghi ta của lorca (thanh thảo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.99 KB, 25 trang )

Chun đề:
TIẾNG NĨI TRI ÂM TRONG
ĐỘC TIỂU THANH KÍ (NGUYỄN DU), KÍNH GỬI CỤ NGUYỄN DU (TỐ
HỮU)
VÀ ĐÀN GHITA CỦA LORCA (THANH THẢO)
 
Bùi Thị Phương Thúy
GV trường THPT chuyên Lào Cai
 
A. MỞ ĐẦU
 
I. Lí do chọn đề tài
     1. Thơ ca là tiếng nói của cảm xúc, là những rung động từ tâm hồn con người.
Điều mà thơ chú trọng là tình chứ khơng phải sự, là nét tâm hồn, nội tâm và những
xúc cảm của con người được cất lên từ thơ . Tác giả gửi trong những vần thơ là nỗi
niềm tâm sự, là cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, về mn hình nhân thế, là những
xúc cảm chợt hiện trong khoảnh khắc, cũng có thể là niềm ưu tư, khát vọng, những
nung nấu ấp ủ của cả một cuộc đời... Và tất cả những điều ấy đi vào cảm nhận, tạo
nên những rung cảm nơi trái tim người đọc. Đọc thơ, không chỉ thuần túy là nhận
thấy , hình dung ra những xúc cảm mà người viết đã trải qua, tâm sự mà người viết
đã gửi gắm qua thi phẩm mà người đọc cịn có thể sống lại những cảm giác, nỗi
niềm đã được nhà thơ gói lại trong câu chữ, sự trải nghiệm đó chính là sự gặp gỡ
của những tâm hồn, là đồng cảm, thấu hiểu.
     2. Đồng cảm, phương thức tồn tại giản đơn nhất của nó là cảm giác. Nhưng với
các thi nhân, trong vai trò người đọc, họ đã biến những cảm giác vốn vơ hình ấy
thành tiếng nói qua các thi phẩm. Người ta gọi đó là Tiếng nói tri âm trong thơ.
     3. Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu
và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) là những tiếng lòng của thế hệ sau, từ
phương trời khác trước những nỗi niềm tâm sự, những bi kịch của người xưa. Điều
đáng nói ở chỗ, sức sống của ba thi phẩm khơng vì lịng ngưỡng mộ cảm phục hay
lời tán tụng hoan ca, mà bởi Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo đã làm sống dậy


những thế giới tâm hồn, hiện hữu những bi kịch cuộc đời, bi kịch nội tâm một cách
tinh tế, sâu sắc mà sống động như trải nghiệm hiện tại của chính mình, khơi dậy sự

skkn


đồng cảm từ sâu thẳm tâm hồn người đọc với không phải một mà là hai cõi hồn, và
nhiều hơn thế nữa...
 
II. Lịch sử vấn đề
   Chưa có cơng trình nghiên cứu hoặc bài viết nào trực tiếp đề cập đến đề tài Tiếng
nói tri âm trong ba bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn
Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo), song về tri âm, về tiếng nói
tri âm trong thơ ca đã có một số tài liệu bàn đến một cách tương đối sâu sắc.
    Tác giả Lưu Hiệp (465-520) trong cuốn Văn Tâm Điêu Long- được nhiều người
đánh giá là một trong những tác phẩm lí luận phê bình hoàn chỉnh nhất trong hệ
thống mĩ học trung đại Trung Quốc có một chương bàn về "Tri âm" (thiên 48),
trong đó có bàn về nguồn gốc chữ tri âm, về tri âm trong văn chương, cụ thể là sự
tri âm của các nhà phê bình văn học với tác giả.
   Nhiều ý kiến, phát ngôn của các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình khẳng định tiếng
nói tri âm (với nhiều hình thức diễn đạt khác nhau: "sự cảm thơng chia sẻ giữa
người đọc và người viết", "sự đồng cảm", "chung tiếng lòng"...) là tiền đề căn bản
nhất tạo nên ý nghĩa nhân văn của thơ ca (Ý kiến phát biểu trực tiếp của Lê Quý
Đôn, Chế Lan Viên, Tố Hữu, Bùi Hiển...).
  Một số bài viết của các thầy cô giáo, các em học sinh cảm nhận về tiếng nói tri
âm được thể hiện trong một bài thơ cụ thể.
 
III. Phạm vi nghiên cứu
    Trong giới hạn một chuyên đề, người viết chỉ đề cập đến nội dung Tiếng nói tri
âm được thể hiện trong ba bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ

Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo). Từ những vấn đề
m ang tính lí luận về đặc trưng loại thể văn học, bàn luận về vấn đề tri âm trong thơ
ca, người viết tập trung làm nổi bật nét tương đồng và khác biệt giữa các tác giả từ
tác phẩm cụ thể.
 
B. NỘI DUNG
I. Tri âm và tiếng nói tri âm trong thơ
1. Tri âm

skkn


      Tri âm (hiểu âm nhạc) bắt nguồn từ một tích cổ: Bá Nha thời Xuân Thu có tài
chơi đàn tuyệt hay, thường than khơng có người hiểu được tiếng đàn của mình, một
lần đi sứ nước Sở trở về đến sơng Hàm Dương, sơn thủy hữu tình khiến trong lịng
dấy lên cảm xúc đã đem đàn ra gẩy. Bản nhạc đang da diết dây đàn bỗng ngừng
đứt. Đốn biết có người nghe trộm tiếng đàn, Bá Nha bèn sai quân lên bờ tìm, gặp
một tiều phu đang nấp sau lùm cây rậm tên Chung Tử Kì. Tử Kì thanh minh mình
khơng có ý đồ gì mờ ám, chỉ vì thấy tiếng đàn tuyệt hay nên dừng để trộm nghe.
Bá Nha chưa tin, hỏi: "Ngươi bảo nghe hiểu đàn ta, vậy ta vừa đàn bản gì đây?" Tử
Kì  trả lời: "Thưa, là bài Khổng Tử khóc Nhan Hồi". Bá Nha hết sức kinh ngạc, vì
chốn nước non hiu quạnh này lại có người nghe được tiếng đàn của mình, liền dạo
một khúc nhạc hướng về ý cao siêu, lòng hướng về cảnh núi non hùng vĩ, bản đàn
chưa dứt, Tử Kì đã reo: " Hay! Hay! Tiếng đàn ngài cao vút, tâm chí ngài vịi vọi
tại núi cao!" (Nga nga hồ chí tại cao sơn). Khi Bá Nha chuyển ý, nghĩ đến cảnh
mênh mang khống đãng. Tử Kì trầm tư : "Tâm chí ngài cuồn cuộn như nước
chảy" (Dương dương hồ chí tại lưu thủy). Bá Nha vơ cùng xúc động, vì có người
thấu tiếng đàn mà hiểu cả cõi lịng mình, bèn nguyện kết nghĩa tâm giao. Vì việc
quan cần gấp, Bá Nha phải từ biệt Tử Kì để về kinh, hẹn năm sau gặp lại cùng
thưởng đàn, nhưng khi Bá Nha trở lại, Tử Kì đã vì lâm bệnh nặng mà qua đời, mộ

đặt nơi bến sông để trọn lời hẹn khi xưa. Bá Nha đau khổ, đập vỡ cây đàn vì biết
rằng trên thế gian khơng cịn ai có thể hiểu được tiếng đàn của mình nữa.
Từ đó, hai tiếng tri âm được dùng để chỉ những người hiểu thấu lòng nhau, đồng
cảm với nhau dù có thể chỉ trong một thời khắc, một sự tình cờ; khơng cần biết đến
hồn cảnh, xuất thân, địa vị hay bất cứ một ngoại tố nào khác. Tri âm là nét đẹp
thiêng liêng trong mối tương giao giữa người với người, một người có thể bằng trái
tim mình để cảm thấu những nỗi niềm thầm kín của người khác, có thể làm hiện
hình những tâm sự chất chứa trong lòng người như trải nghiệm và xúc cảm của
chính mình. Thế nên, gặp được tri âm là hạnh phúc lớn lao của cuộc đời, và khơng
ít người đi hết cuộc đời mà cũng khơng gặp được kẻ tri âm...
Từ xưa đến nay, có biết bao tấm lòng tri âm khiến ta xúc động: Bá Nha và Chung
Tử Kì, Bạch Cư Dị và người ca nữ trên bến Tầm Dương, Nguyễn Khuyến với
Dương Khuê ... Tri âm, ấy là tiếng nói của những tâm hồn nhạy cảm, biết rung
động mãnh liệt trước nhân thế và tình người.
2. Tiếng nói tri âm trong thơ
Là tiếng lịng đồng điệu của hai tâm hồn, là sự đồng cảm và thấu hiểu của người
đọc thơ với người làm thơ được thể hiện trực tiếp trong một tác phẩm thơ.
Thơ ca là biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. Đó là những tâm
trạng, suy tư, xúc cảm, rung động của con người trước cuộc sống. Nhà thơ sáng tác
một tác phẩm, là gửi gắm vào đó tâm sự, cảm xúc của mình. Làm thơ, là để giãi
bày lịng mình, để tâm sự với chính mình và với cuộc đời. Thế nên, đọc thơ là đọc
ở đó niềm vui, nỗi buồn, băn khoăn, hờn giận, hạnh phúc hay khổ đau, cảm xúc

skkn


mong manh mơ hồ hay tình cảm thiết tha mãnh liệt... qua những biểu hiện cụ thể
của ngôn từ nghệ thuật. Một bài thơ bao giờ cũng được ra đời trong một bối cảnh
nội tâm và bối cảnh ngoại giới nhất định. Người đọc thơ có thể mường tượng ra
bối cảnh ấy qua thơ. Thế nhưng, cảm nhận về nội dung trữ tình trong một bài thơ ở

mỗi người đọc lại không giống nhau. Cảm nhận thơ phụ thuộc vào cá tính, trình
độ, quan điểm, và đặc biệt là tâm hồn của người đọc. Khi tâm hồn người đọc có sự
đồng cảm sâu sắc với tâm hồn nhà thơ, khi trái tim người đọc hòa cùng nhịp đập
trái tim của thi nhân, khi người đọc thấu hiểu và tha thiết với những nỗi niềm mà
người viết gửi gắm, khi ấy, ta thấy tấm lịng tri âm với thơ.
Văn chương nói chung, thơ ca nói riêng có dịng chảy theo quy luật riêng của nó,
khó có thể biết nơi khởi đầu và khơng thể xác định điểm kết. Trong dịng chảy với
những bí ẩn đầy sức mê hoặc ấy, xúc cảm thơ lắng đọng nơi hồn người đọc, và
cũng có khi từ tâm hồn người đọc lại được thăng hoa cất lên thành những vần thơ.
Khi ấy, ta có tiếng nói tri âm trong thơ.
Cần lắm một tấm lòng tri âm trong cuộc đời. Ca dao có câu:
    Mơng mênh góc bể chân trời
Biết trong thiên hạ ai người tri âm
Cổ thi có câu: Bất tích ca giả khổ, đãn thương tri âm hy nghĩa là: "Không tiếc
người hát khó nhọc, chỉ đau đớn người tri âm ít mà thơi". Thì ra, nỗi nhọc nhằn của
thế sự đâu có ý nghĩa gì, chỉ nỗi cơ đơn vì thiếu kẻ tri âm mới là điều đáng đau khổ
trên cõi đời. Thơ ca, nơi thổ lộ của những cõi lòng, lại càng cần biết bao nhiêu
những tâm hồn đồng điệu. Giả Đảo(788-843) đời Đường, trong ba năm ròng làm
được hai câu thơ tâm đắc, rồi lại ôm sầu thở than:
Nhị cú tam niên đắc,
Nhất ngâm song lệ lưu.
Tri âm như bất thưởng,
Quy ngọa cố sơn thu.
Điều gì khiến Giả Đảo muốn quay về làm bạn với núi thu, điều gì khiến Tam
Nguyên Yên Đổ trằn trọc "Câu thơ nghĩ đắn đo khơng viết"? Ấy chính là vì khơng
cịn tri âm. Nỗi quan hoài đau đáu của hai thi nhân như lời minh chứng: vắng tri
âm, người làm thơ sẽ rơi vào bi kịch bất tận của nỗi cô đơn. Nỗi lịng đang trải ra
trang giấy ấy, một mình mình biết, một mình mình hay, như một thanh âm lang
thang giữa khoảng không ngổn ngang thanh sắc. Và khao khát lắm một tiếng nói tri
âm.


skkn


Chủ nhân của tiếng nói tri âm trong thơ bao giờ cũng kinh qua hai trải nghiệm.
Trải nghiệm thứ nhất là trải nghiệm của người đọc thơ để lắng nghe tiếng lòng của
người, cảm nhận và thấu hiểu tâm sự của người, sống lại những tình cảm của người
trong cõi hồn mình. Trải nghiệm thứ hai là trải nghiệm của người làm thơ để tấu
lên khúc nhạc giao hòa giữa hai tâm hồn, để khơi gợi trong nhân thế thêm những
tiếng lịng tri âm.
Tiếng nói tri âm khơng phải là nhịp cầu đơn thuần giữa người làm thơ với người
đọc thơ. Bởi người đọc thơ thì nhiều vơ vàn, người u thơ cũng khơng ít, nhưng
tiếng nói tri âm trong thơ thật sự khơng dễ gặp. Bởi đó là tiếng nói của tư tưởng,
tâm hồn, tình cảm... mang tính cá thể vốn của những con người hoàn toàn xa lạ,
thậm chí có sự cách biệt vời vợi về cả khơng gian và thời gian nhưng lại cùng
chung cảm nhận, cách nhìn cuộc đời, có thể thấu suốt đáy hồn của nhau. Và nhìn
nhận một cách thấu đáo, thì đó là tiếng nói rất đáng được trân trọng, lắng nghe.
Thơ ca là xúc cảm mang tính chủ quan của mỗi người, nhưng những xúc cảm chủ
quan đó bao giờ cũng được nảy sinh từ hiện thực tâm hồn, hiện thực cuộc sống cụ
thể. Những hiện thực này không được miêu tả chi tiết mà được tái hiện một cách
gián tiếp qua thơ. Đây cũng là một yếu tố quan trọng để có được tiếng nói tri âm
trong thơ. Như vậy, tri âm khơng chỉ là cùng vui, cùng buồn, là khóc cười cùng
tiền nhân, bởi đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài ai cũng dễ dàng nhận thấy, mà
cốt yếu là thấu hiểu căn nguyên những tâm trạng ấy. Thấu hiểu để đến được với
đáy sâu tâm hồn mình đang đối diện, đến được với tâm tình thuộc những chân lí
phổ biến nhất của tồn tại con người  trong những suy tư mà người viết gửi gắm. Từ
đó, đem tiếng lịng mình cất lên thành những trang thơ. Thấu triệt là từ đó, đồng
cảm là từ đó, tri âm là từ đó, đáng quý, đáng trọng cũng là từ đó.
II. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ
Nguyễn Du (Tố Hữu) và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo).

1. Điểm gặp gỡ trong tiếng nói tri âm ở ba bài thơ
Thơ ca là xúc cảm mang tính chủ quan, và như vậy thơ mang tính cá nhân, cá thể.
Nhưng không phải thơ chỉ thể hiện những gì thuộc về tình cảm cá nhân riêng biệt
bởi cảm xúc của bất kì ai cũng mang những nét rất chung của loài người. Với
những tài thơ, những nhà thơ lớn, điều khiến cho sự nghiệp thơ ca của họ vượt qua
được thử thách của không gian, thời gian bao giờ cũng bởi tiếng nói nhân văn cao
đẹp, bởi tiếng lòng trong thơ đã làm rung động được tâm hồn của những thế hệ sau,
ở những nền văn hóa khác. Nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du, Gacxia Lorca là những
tài thơ như thế, họ đã tìm được tiếng nói tri âm từ thế hệ sau là Nguyễn Du, Tố
Hữu, Thanh Thảo. Và tiếng nói tri âm từ thế hệ sau đã làm sống dậy không chỉ một
trời thơ mà cả một cõi hồn, đã góp phần làm tiếng nói của yêu thương, khát vọng
trở nên bất tử, những bi kịch trở nên day dứt và đầy ám ảnh.

skkn


Ba bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu)
và Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) là tiếng nói thấu hiểu những bi kịch của
tiền nhân, đã tái hiện những bi kịch ấy một cách sâu sắc và đớn đau như sự trải
nghiệm của chính mình. Từ đó, các nhà thơ đã thể hiện thái độ cảm thơng, xót xa
trước những số phận đầy oan nghiệt, bi phẫn trước thời đại và xã hội đã vùi dập
khát vọng chính đáng và cao đẹp của con người. Đồng thời, Nguyễn Du, Tố Hữu,
Thanh Thảo đã nói lên tình cảm trân trọng trước cái đẹp, tài năng, trước những tấm
lòng. Một lần nữa, tiếng nói nhân văn lại được vút cao.
 Độc Tiểu Thanh kí, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Đàn Ghita của Lorca đã thể hiện
những trăn trở đầy tính nhân văn về tình người, tình đời, về khát vọng lí tưởng
sống cao đẹp của Nguyễn Du, Tố Hữu, Thanh Thảo. Ta gặp trong ba thi phẩm
tiếng nói đồng vọng của những tâm hồn mà điểm gặp gỡ chính là tâm sự nặng lịng
vì nhân thế, thiết tha đau đáu trước cái tài, cõi tình và những số phận. Đó chính là
tinh thần nhân văn cao cả  bởi chỉ tinh thần đó mới đủ sức mạnh để vượt qua được

mọi giới hạn về khơng gian, thời gian, thậm chí cả những khác biệt về văn hóa để
có thể chung hịa và cộng hưởng để tinh thần bất tử ấy vút cao trong thơ. Ta gặp
trong mỗi bài thơ hai tâm hồn đang giao hịa và tỏa sáng.
2. Tiếng nói tri âm trong mỗi bài thơ
2.1. Tiếng nói tri âm trong Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du)
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:
   Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Chữ tâm là tấm lịng, là tình người, là tình cảm thương yêu với cuộc đời, nhân thế.
Câu thơ khẳng định lòng người là điều quý giá và quan trọng nhất, là thước đo giá
trị của con người. Chữ tâm là điều mà Nguyễn Du tâm niệm và trăn trở suốt cả
cuộc đời. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, biết bao lần nhà văn đã xót xa
thương cảm cho những kiếp sống bất hạnh, khổ đau. Đó là nàng Kiều trong Đoạn
trường tân thanh, là người ca nữ trong Long thành cầm giả ca, là nàng Tiểu Thanh
trong Độc Tiểu Thanh kí... Với Độc Tiểu Thanh kí, ta nhận thấy trong đó khơng chỉ
là tình thương của Nguyễn Du với một kiếp sống đầy bi kịch, mà cịn gặp tiếng nói
tri âm đồng vọng của hai tâm hồn, điểm gặp gỡ của hai số phận Tiểu Thanh và
Nguyễn Du. Độc Tiểu Thanh kí là tiếng nói thương người, thương mình, thương
đời. Bài thơ mang tiếng nói tri âm sâu sắc và cảm động.
   Tây Hồ cảnh đẹp hóa gị hoang
Câu thơ mở đầu bài thơ đã đem đến cho người đọc một cảm nhận thật buồn, dù
hình thức của nó giản dị như một lời kể đơn thuần mang chất "sự": tả về cảnh vật.
Vẫn biết cuộc đời khơng có gì là vĩnh viễn, bất biến, song vẫn thấy lời thơ Nguyễn
Du sao xót xa đến hãi hùng. Một sự đối lập khắc nghiệt giữa quá khứ và hiện tại,

skkn


giữa vui và buồn, giữa có và khơng... Tây Hồ là một địa danh, nhưng trong câu thơ
nó mất đi vai trị chỉ một địa danh cụ thể mà có sức biểu tượng cao, chỉ nơi đẹp đẽ
rực rỡ huy hoàng. Nơi này đã trải qua một cuộc đổi thay, để rõ hơn về tính chất của

cuộc đổi thay, ta đọc lại câu phiên âm:
    Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Một vườn hoa nơi Tây Hồ, cảnh đẹp của hương sắc đất trời vốn lộng lẫy huy hoàng
là thế bỗng chốc hoang phế tiêu điều thành một gò hoang. Câu thơ bảy chữ, mỗi
chữ đều đắt giá và hàm súc. Nguyễn Du không dùng biến, hóa, thành... để nói sự
đổi thay dù những chữ đó đều là từ Hán- Việt, mà nói tẫn. Tẫn chỉ sự thay đổi hết,
thay đổi triệt để khơng cịn sót lại dấu vết của quá khứ, một sự thay đổi bao hàm
trong nó nỗi dằn vặt nhức nhối. Hai hình ảnh chỉ sự vật đối lập là hoa
uyển và thành khư là những hình ảnh rất cụ thể: vườn hoa và gị hoang. Những
hình ảnh sống động đó có sức lay động mạnh mẽ, cho người đọc cảm nhận rõ rệt
về cuộc đổi thay đến xót xa của tạo vật. Một là cái đẹp, gợi nên sức sống thanh
xuân dạt dào đầy sức mê hoặc, còn một là sự lụi tàn hoang vắng, xác xơ. Sự đối lập
được đẩy đến tuyệt đối để thấy được cái nghiệt ngã của cuộc đời và nỗi đau của
lòng người.
Sự đổi thay bởi quy luật nghiệt ngã của thời gian, của cuộc đời bao giờ cũng gợi
nỗi buồn se sắt trong hồn người. Những cuộc bể dâu (Nguyễn Du), cuộc hí
trường (Bà Huyện Thanh Quan) thương hải biến vi tang điền... cất lên đầy ám ảnh.
Ám ảnh bởi đó đâu chỉ là cái nhìn của thi nhân về ngoại giới, mà đó chính là cảm
nhận về cuộc đời đầy rẫy những đổi thay bất trắc, là tiếng thở dài  trước thời thế
khi đành ngậm ngùi buông xuôi, bất lực, mang tâm trạng của kẻ "bất phùng thời".
Ở thế kỉ XVIII, thời huy hoàng của chế độ Phong kiến chỉ còn là dĩ vãng, còn hiện
tại rối ren khủng hoảng khiến những con người mang lí tưởng sống cao đẹp rơi vào
bế tắc vì khơng tìm được con đường thực thi chí nguyện của mình. Vậy có khác
gì hoa uyển tẫn thành khư?
Câu thơ là nỗi niềm trước đổi thay của cuộc đời, trước một Tiểu Thanh tài sắc khi
xưa giờ khơng cịn nữa, hay trước bi kịch của chính cuộc đời Nguyễn Du? Khơng
thể đặt ra ranh giới phân định để trả lời cho câu hỏi trên. Ngay câu thơ mở đầu, ta
đã thấy sự gặp gỡ về số phận của hai con người trong cảm nhận của Nguyễn Du.
Câu thơ thứ hai gợi tâm thế của Nguyễn Du khi tìm đến với cuộc đời đầy đau khổ
của Tiểu Thanh:

       Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Câu thơ dịch cụ thể hóa tâm trạng (thổn thức), nhưng lại làm mờ đi tâm thế của thi
nhân. Độc điếu song tiền nhất chỉ thư - Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước
cửa sổ. Câu thơ gợi cho chúng ta nhớ đến cuộc đời Tiểu Thanh, người con gái tài
sắc mang một số phận oan nghiệt: phải làm lẽ nhà người, rồi vì bị ghen ghét phải

skkn


sống một mình trên núi Cơ Sơn, buồn tủi mà chết. Những vần thơ bầu bạn cùng
nàng trong ngày tháng cô đơn, những lời của trái tim đau khổ bị chà đạp... cũng bị
đốt bỏ bởi bàn tay đố kị tàn nhẫn, chỉ cịn lại phần dư cảo ít ỏi. Nguyễn Du tìm về
với Tiểu Thanh- một kiếp đời bi kịch bởi tình thương u con người mơng mênh
vượt qua giới hạn của thời gian ba trăm năm, giới hạn của khơng gian biên giới dân
tộc; Nguyễn Du cịn tìm về với Tiểu Thanh bởi ơng nhìn thấy trong bi kịch của
Tiểu Thanh bi kịch của chính cuộc đời mình.
Có hai chữ mang ý "một" được nhắc đến trong câu thơ: "độc" và "nhất". Đặc biệt,
chữ "độc" được dùng rất tài tình: chỉ viếng hay chỉ có ta viếng nàng? "điếu" là hình
thức duy nhất để có thể tương giao giữa hai con người giờ đã có sự cách biệt của
hai thế giới, là cầu nối giữa "nhất chỉ thư" - chỉ sự hiện diện của nàng và "độc
điếu" là tâm thế của ta. Hai chữ một gợi nên nỗi cô đơn miên viễn, một tâm hồn cơ
đơn tìm về với một kiếp cô đơn...
  Hai câu thơ là những nét phác họa giản đơn, tưởng như có ngoại cảnh mà thực
chất chỉ có tâm cảnh.  Đó là cõi hồn trĩu nặng ưu tư trước cuộc đời đầy dâu bể, là
nỗi thương cảm đồng vọng chân thành với một kiếp tài hoa bạc mệnh. Ta thấy ở đó
tấm lịng tri âm của Nguyễn Du với kiếp người xưa.
Nguyễn Du đã đọc được gì, cảm nhận được gì từ di cảo của Tiểu Thanh:
       Son phấn có thần chơn vẫn hận
       Văn chương khơng mệnh đốt còn vương
Son phấn và văn chương, cộng hưởng lại là cái đẹp toàn vẹn của con người.  Son

phấn là cái đẹp nhan sắc, văn chương là cái đẹp nội tâm, trí tuệ, tài năng. Cái đẹp,
thời nào cũng đáng được trân trọng, người có cái đẹp hoàn thiện, lẽ thường xứng
đáng được hưởng hạnh phúc, bởi họ đã đạt được đỉnh cao trong chuẩn mực nhân
văn nhất của con người! Thế nhưng, bất hạnh thay, cái đẹp ấy bị cuộc đời đang tâm
vùi dập.  Cái chết, bị đốt bỏ là hiện thực được nhắc tới trong hai câu thơ, đã khắc
họa sự nghiệt ngã trong số mệnh của cái đẹp. Nói là số mệnh, nhưng không phải là
sự rủi ro ngẫu nhiên mà bởi một thế lực bạo tàn hữu hình hủy hoại. Nguyễn Du
nhắc nhớ về bi kịch cuộc đời bị đày đọa đến phải chết vì buồn khổ của nàng Tiểu
Thanh. Niềm đồng cảm phải chăng có căn nguyên từ số phận của một "tài tử đa
cùng" khóc một "hồng nhan đa truân"?
Trong cuộc đời, cái đẹp vốn mong manh và khó thấy, nhưng nó có linh hồn và sức
sống riêng của nó. Hai câu thơ là giả thiết mà cũng là lời khẳng định của Nguyễn
Du. Son phấn có linh hồn, văn chương có số mệnh, và nó khơng bao giờ chết. Cái
đẹp có quy luật tồn tại riêng, đó là sự tồn tại trong trái tim con người. Với những
người như Nguyễn Du, son phấn và văn chương vẫn là giá trị cao quý mà ông
ngưỡng mộ và trân trọng. Khơng chỉ thế, Nguyễn Du cịn thấu cả tâm sự, linh hồn
và đau cho số mệnh của cái đẹp qua cảm nhận "liên tử hậu", "lụy phần

skkn


dư". Liên và lụy chính là sợi dây nối cái đẹp của quá khứ với lịng cảm thơng, trân
trọng và đồng cảm của hiện tại. Nguyễn Du đã tìm về với phần dư cảo của Tiểu
Thanh, đã đau đớn trăn trở trước số mệnh nghiệt ngã của nàng, cảm thấu nỗi niềm
của người tài sắc. Với Nguyễn Du, bi kịch của Tiểu Thanh đâu phải là bi kịch của
một người xa lạ, cách biệt ông cả về biên giới quốc gia dân tộc, cả về thời gian vời
vợi ba trăm năm! Bi kịch đời nàng là bi kịch chung của cái đẹp, cái tài trong buổi
"tài mệnh tương đố", "tài tử đa cùng, hồng nhan đa truân", "tài cao phận thấp", "tài
tình chi lắm cho trời đất ghen"... Nguyễn Du đã cảm nhận và tái hiện bi kịch của
Tiểu Thanh bằng chính con tim đau khổ đang nếm trải bi kịch của chính mình.

Nguyễn Du là một tài năng lớn, một tấm lòng thương yêu con người cao cả mêng
mông, nhưng cả cuộc đời truân chuyên lận đận, chưa từng được thanh thản, bình
yên một phút giây. Thế nên, lời thơ xót xa, day dứt trước nghịch lí trái ngang
nhưng khơng thể thay đổi đang ngang nhiên tồn tại trong thời đại Nguyễn Du.
Hai câu thơ tiếp theo vừa là lời suy ngẫm về Tiểu Thanh và cuộc đời, cũng là lời
bộc bạch trực tiếp tấm lòng của Nguyễn Du:
    Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
    Cái án phong lưu khách tự mang.
Trong Nguyễn Du, trong trái tim những con người tài hoa bạc mệnh, trong những
tấm lịng giàu thương u, nghịch lí vừa được Nguyễn Du đưa ra nhức nhối ở hai
câu thơ trước chính là "nỗi hờn kim cổ". Cách nói của Nguyễn Du gợi nên độ chất
chứa ngùn ngụt, độ dồn nén đến chật căng nỗi oán hận của bao kiếp người đau khổ.
Nỗi hờn, nỗi hận vốn là cảm xúc mạnh, lại thêm sự chồng chất dai dẳng của thời
gian nối tiếp nhau. Năm tháng qua đi, những đau khổ oan khiên thêm chồng chất.
Dãy tên trong "Sổ đoạn trường" cứ dài thêm một cách vơ tình. Bi kịch của ba trăm
năm trước, Nguyễn Du vẫn thấy trong hôm nay, cịn trước đó, và sau này? "Cái
điều bạc mệnh có chừa ai đâu"- chỉ có thể trả lời bằng lời thơ ai ốn đó! Khơng
một lối thốt cho hồn cảnh. Một nét văn hóa của người Phương đơng là khi bế tắc,
người ta gọi, kêu trời. Đó chỉ là giải pháp tinh thần, xoa dịu, vỗ về rằng nỗi niềm
ấy sẽ được lắng nghe, để con người có thể bình tâm lại. Nhưng mối hận của kẻ tài
hoa bạc mệnh thì trời không thấu, thế nên kẻ bạc mệnh chỉ đành ôm mối hận trong
nỗi cô đơn thăm thẳm mà thôi. Nỗi hờn ấy vì thế càng thêm chồng chất, những tấn
bi kịch càng trở nên đau đớn. Đó đâu chỉ là phận của riêng một Tiểu Thanh, đó là
số phận chung của cái đẹp trong thời đại mà cái đẹp như một tội đồ. Nguyễn Du
cũng khơng ngồi quy luật nghiệt ngã đó. Than cho mối oan của Tiểu Thanh,
Nguyễn Du đau đớn cho nàng mà cũng thương cho mình nên lời thơ uất nghẹn, có
thể lời thơ ấy khơng vọng được đến trời xanh, nhưng nó đã vọng đến lòng người,
đánh thức niềm rung cảm sâu xa trước cái đẹp cuộc đời và nỗi đau nhân thế.
Kết tinh nhất của tiếng nói tri âm trong bài thơ chính là câu "Cái án phong lưu
khách tự mang", bởi ở đây, sự đồng cảm đã đạt đến mức tri âm tri kỉ.


skkn


Oan khiên, vốn là điều bất thường của cuộc đời. Trong câu thơ, Nguyễn Du đã
khắc sâu sự bất thường ấy bởi cách nói "kì oan"- mối oan kì lạ. "Phong vận kì oan"
- mắc oan vì nết phong nhã! Phong nhã là cái đẹp của con người, là điều căn bản
để mang lại hạnh phúc cho con người, vậy mà, cái đẹp ấy lại chính là nguyên do
đẩy con người vào nỗi oan đời.
Điều đáng nói ở đây, Nguyễn Du nhìn thấy, biết trước cái án dành cho kẻ phong
vận ấy mà khơng sợ hãi hay né tránh nó, ngược lại, ông tự biết, tự cho mình là
người cùng mắc nỗi oan của Tiểu Thanh. "Ngã tự cư"- ta tự nguyện mang. Nguyễn
Du tự coi mình là người cùng hội cùng thuyền với nàng Tiểu Thanh. Là người
đồng cảnh, Nguyễn Du khơng chỉ hiểu và thương Tiểu Thanh mà cịn có thể đồng
cảm sâu sắc với những nỗi niềm tâm sự của nàng. Bằng trái tim giàu thương yêu,
Nguyễn Du đã xót cho người, thương cho mình và đau cho đời. Tiểu Thanh dù chỉ
có một kiếp sống ngắn ngủi đầy đau khổ, và giờ đây chỉ cịn sót lại chút dư cảo,
nhưng với nét phong vận nàng đã có thể nói với cuộc đời, đến được với tấm lòng
biết yêu thương. Nguyễn Du tự nhận mình mang "phong vận kì oan" để có thể gửi
nỗi lịng mình cho mai hậu.
Ngồi tình u thương cao cả vượt qua mọi giới hạn, còn những căn nguyên khác
khiến Nguyễn Du coi mình cùng mắc nỗi oan với Tiểu Thanh: đó phải chăng là sự
đồng thanh của những kẻ "Cùng một lứa bên trời lận đận" như Bạch Cư Dị và
người cô phụ trên bến Tầm Dương năm xưa? Phải chăng đó là sự đồng cảm của
những con người hội tụ bao vẻ đẹp quý giá: tài năng, nhân phẩm, tình người? Phải
chăng đó là "đồng bệnh" của những trái tim thiết tha đến đau đớn với cái đẹp của
cõi nhân sinh?
Nói câu thơ là đỉnh cao của tiếng nói nhân văn trong bài thơ, vì đến đây, ta khơng
cịn thấy một Nguyễn Du của hậu thế đứng bên ngoài cuộc đời của Tiểu Thanh, chỉ
viếng nàng qua dư cảo nữa, mà một cách thấm thía và sâu lắng, Nguyễn Du đã

nhập thân, nhập hồn vào bi kịch của Tiểu Thanh, cảm nhận nỗi buồn, niềm đau của
nàng như của chính mình. Cũng từ đây, tiếng nói nhân đạo, nhân văn đạt đến một
đỉnh cao mới: trong cuộc đời, tồn tại rất nhiều giới hạn, song tình u thương con
người, lịng u cái đẹp có sức mạnh bất chấp tất cả mọi giới hạn. Sức mạnh thiêng
liêng ấy là nền tảng tạo nên ý nghĩa của cuộc sống.
Từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du khóc cho người, khóc cho đời, rồi
khóc cho mình:
      Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
      Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Ba trăm năm sau thời Tiểu Thanh sống, có Tố Như đến khóc cho nàng bằng tấm
lịng đồng cảm của kẻ tri âm. Nguyễn Du trăn trở, không biết rồi ba trăm năm sau,

skkn


liệu có ai khóc cho Nguyễn Du khơng? . "Khóc" ở đây, ta hiểu là tiếng nói thấu
hiểu, cảm thơng, lịng thương cảm chân thành của con người.
Đó là nỗi trăn trở đầy tính nhân văn của Nguyễn Du về cuộc đời.
Có nhiều người đánh giá rất cao chữ "Tố Như" ở phương diện cho rằng Nguyễn
Du đã táo bạo, đã khẳng định mạnh mẽ cái tôi cá nhân khi đưa tên mình vào thơ.
Phải chăng là như vậy? Đấy đâu phải Nguyễn Du! Cái tên Tố Như ấy là sự nhân
danh cho biết bao kiếp người tài hoa mà đường đời long đong chìm nổi. Ba trăm
năm là một khoảng thời gian rất dài, cuộc đời dâu bể đầy bất trắc đổi thay có thể
xóa nhịa, cuốn trơi đi bao điều. Từ thời của Tiểu Thanh đến thời của Nguyễn Du
là thế, từ thời Nguyễn Du đến hậu thế cũng như vậy. Vượt qua những biến đổi ấy,
tấm lòng vẫn tìm về với những tấm lịng, chỉ cần con người có tình u thương, mở
lịng ra với cuộc đời.
Trăn trở của Nguyễn Du đâu phải cho bản thân mình. Cũng giống như Nguyễn Du,
với Tiểu Thanh, Nguyễn Du không coi đó là một số phận mang tính cá biệt mà chỉ
là một trong số vô vàn những bi kịch đang tồn tại đầy rẫy trong thời đại mình.

Khóc cho Tiểu Thanh, Nguyễn Du thương cho bao kiếp người oan trái và đã đau
đời bằng chính nỗi đau của con tim mình. Nguyễn Du cũng là một kiếp sống đầy bi
kịch, dù là người tài năng kiệt xuất và có tấm lòng nhân ái bao la. Thi nhân khao
khát cuộc đời vẫn cịn có những trái tim biết tìm đến với những số phận khổ đau để
cảm thông, thấu hiểu và an ủi họ bằng ngọn lửa yêu thương của trái tim mình. Đó
là khát vọng- là tấm lịng dành cho cuộc đời của Nguyễn Du.
Lịng đồng cảm, tiếng nói tri âm tạo nên sức rung động sâu xa của bài thơ.
Trong Truyện Kiều, trước số mệnh nàng Đạm Tiên hồng nhan bạc phận, Kiều đã
"đầm đầm châu sa" và "Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần". Ấy là tấc lòng tri âm
của Thúy Kiều với Đạm Tiên. Rồi chính bi kịch của Đạm Tiên cứ đeo đẳng suốt
cuộc đời Kiều. Nhưng số mệnh của Tiểu Thanh và Nguyễn Du có một điểm khác
biệt căn bản: Sau thời của Tiểu Thanh ba trăm năm, có một Nguyễn Du đơn độc
khóc nàng trong niềm đồng vọng của nỗi cơ đơn. Sau thời Nguyễn Du sống chưa
đến ba trăm năm, không phải là một, mà có biết bao trái tim hướng về ơng với lịng
cảm phục, trân trọng và sự tri âm chân thành. Làm nên sự đổi thay kì diệu đó,
khơng thể khơng kể đến một ngun nhân: tiếng nói nhân văn trong các sáng tác
của Nguyễn Du đã đi vào lịng người, soi sáng lên tình u thương vốn là một vẻ
đẹp nhân bản của con người.
 
 
2.2. Tiếng nói tri âm trong Kính gửi cụ Nguyễn Du (Tố Hữu)

skkn


Gần ba trăm năm trước, Nguyễn Du trăn trở: Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như (Không biết hơn ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc
Tố Như? ) thì gần ba trăm năm sau, có thi nhân đã nói lên tiếng lịng đồng vọng tha
thiết của mình, của thế hệ và dân tộc mình với cuộc đời Nguyễn Du và tâm sự của
ơng gửi gắm trong kiệt tác Truyện Kiều. Đó là tiếng nói tri âm của Tố Hữu trong

bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du.
Dọc suốt bài thơ là cảm nhận của Tố Hữu về số phận và vẻ đẹp của nàng Kiều, tấm
lòng nhân đạo và tâm sự của Nguyễ Du, là lời đồng cảm và hưởng ứng tinh thần
nhân đạo mà Nguyễn Du đã gửi gắm trong sự nghiệp của mình.
Mở đầu bài thơ, Tố Hữu đưa ta cùng ngược thời gian trở về với người xưa:
      Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều .
Câu thơ giản dị, mộc mạc như một lời kể nhưng đủ sức gợi nên tâm thế trữ tình
cho bài thơ. Gợi đến sự kiện năm 1965 kỉ niệm 200 ngày sinh Nguyễn Du và
chuyến đi thực tế vào tuyến lửa khu IV của Tố Hữu. Câu thơ có khơng gian, có
thời gian, và có cả tâm trạng. Tâm trạng bâng khng nhớ và thương là xúc cảm về
kí ức, về sự và tình đã sẵn có trong tâm tưởng. Phải chăng Nguyễn Du, nàng Kiều
là những cái tên mà Tố Hữu ln cất giấu trong trái tim mình, để đến một thời khắc
nỗi nhớ niềm thương thao thức, thiết tha, cất lên thành tiếng nói tri âm- tiếng nói tri
âm với Nguyễn Du qua Truyện Kiều, số phận của nàng Kiều.
Tố Hữu xót xa, thấu hiểu bi kịch của Thúy Kiều, một người con gái giàu tình
thương yêu, hiếu tình trọn vẹn mà phải chịu một số phận đầy bi kịch
     Hỡi lòng tê tái thương yêu
Giữa dòng trong đục, cánh bèo lênh đênh
     Ngổn ngang bên nghĩa bên tình
Trời đêm đâu biết gửi mình nơi nao
     Ngẩn ngơ trơng ngọn cờ đào
Đành như thân gái sóng xao Tiền Đường!
Những dịng thơ đã tái hiện một cách xót xa về số phận của Kiều trong cảm nhận
của Tố Hữu. Những từ láy đặc tả tâm trạng, cảnh ngộ liên tiếp được sử dụng: tê tái,
lênh đênh, ngổn ngang, ngẩn ngơ... đã làm sống dậy không chỉ số phận mà cả tâm
trạng bi kịch đau đớn của Kiều trong kiếp sống đầy rẫy oan trái, khổ đau: tháng
ngày nổi trôi phiêu dạt trong dòng đời trong đục, bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh

skkn



thần mà tương lai mịt mờ như khói bụi; lựa chọn khơng hề dễ dàng, thanh thản
giữa tình và hiếu; nỗi tuyệt vọng đến cùng cực chỉ có thể giải thoát bằng cái chết...
Là Kiều của Nguyễn Du, là nhân vật mà Nguyễn Du sáng tạo trong tác phẩm của
mình, nhưng đó cũng là chính Nguyễn Du! Bởi Kiều là hình tượng để Nguyễn Du
gửi gắm tâm sự và cảm nhận về cuộc đời thế sự. Cảm thương kiếp sống bị vùi dập
đọa đày của Kiều cũng là cảm thương số phận gió bụi đầy thăng trầm của Nguyễn
Du, nỗi đau của Kiều là nỗi đau của Nguyễn Du, thương Kiều cũng chính là Tố
Hữu thương Nguyễn Du. Thương một cuộc đời bế tắc trong thời đại mình, khơng
thể tìm được lối thốt, đường đi, đành ơm mối sầu hận. Nỗi đau ấy được hậu thế
ghi lại trong những vần thơ đầy xúc động (Cha ông ta đấm nát tay trước cửa cuộc
đời/ Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa ( Chế Lan Viên), Đau đời có cứu được đời
đâu (Huy Cận)) . Tố Hữu đã rất tinh tế và tài tình khi tái hiện hình tượng trong thơ,
xóa nhịa đi ranh giới cụ thể giữa tác giả và nhân vật, cũng chính là đã bắt đúng cái
hồn của truyện Kiều, là tri âm được với Nguyễn Du.
Điều làm nên sự bất tử của tên tuổi Nguyễn Du và Truyện Kiều chính là tấm lòng
nhân ái của một nghệ sĩ lớn. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
             Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài...
Tấm lịng, tình cảm là điều mà Nguyễn Du tâm niệm trong suốt cuộc đời và day
dứt trong mỗi tác phẩm của mình. Tố Hữu đã tri âm với tấm lịng nhân đạo cao cả
mênh mơng ấy của Nguyễn Du qua những vương tơ lịng, nhân tình, tấm lịng
thơ...
Với hình thức tập Kiều khéo léo, Tố Hữu đã mượn những câu Kiều vốn ăn sâu
trong tâm khảm mình để nói lên chính những tâm sự của Nguyễn Du, mượn thơ
Nguyễn Du để lồng vào đó tinh thần của thời đại mà Tố Hữu đang sống. Hình thức
này tạo nên mối dây liên hệ bền chặt giữa quá khứ với hiện tại, giữa Kiều với
Nguyễn Du với Tố Hữu và cuộc đời. Với Tố Hữu, Kiều không phải là một số phận
cá biệt của người phụ nữ, mà là điển hình cho nỗi đau khổ của con người. "Ai khen
Nguyễn Du tài cũng rất đúng, nhưng tôi quý Nguyễn Du vì ơng u thương con

người. "Đau đớn thay phận đàn bà", câu ấy có gì là "tài"? Vậy mà nghe xốn xang
nhức nhối. Đau đớn kia đâu phải của riêng một phận đàn bà. Đàn bà xưa chỉ là
điển hình đau khổ của con người. Người đàn ơng đau khổ nào cũng gặp mình trong
người đàn bà đau khổ đó" (Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chíTạp chí Văn nghệ số 48, tháng 5, 1961).
       Nỗi niềm xưa, nghĩ mà thương
   Dẫu lìa ngó ý, cịn vương tơ lịng...
Câu thơ là nỗi khơng đành lịng, đành tâm của Kiều khi phải phụ nghĩa chàng Kim,
tình u cịn vương vít khơng cách nào rũ bỏ nhưng đành phải chấp nhận để làm
trịn đạo hiếu. Đó cũng là tấm lịng đầy thương u của Nguyễn Du ln hướng về

skkn


cuộc đời, về quần chúng nhân dân mặc dù Nguyễn Du không thể chọn được con
đường thực sự đúng đắn và tích cực để đến được với quần chúng do yếu tố thời
đại. Nguyễn Du đã phải chứng kiến một giai đoạn lịch sử đầy biến động, trong
khoảng ba mươi năm ông đã chứng kiến bao phen thay đổi sơn hà: Chúa Nguyễn,
Chúa Trịnh, Nhà Lê, Tây Sơn- Nhà Nguyễn. Trong lòng Nguyễn Du bao lần băn
khoăn, do dự, hãi hùng, trong đời Nguyễn Du bao phen phiêu bạt, thăng trầm.
Trong cảm nhận của Tố Hữu, nỗi niềm xưa là nỗi niềm của nàng Kiều, cũng là nỗi
niềm đau đáu của Nguyễn Du. Bi kịch của Kiều hay chính bi kịch của cuộc đời
Nguyễn Du? Câu thơ thể hiện niềm cảm thương sâu sắc của Tố Hữu với Nguyễn
Du, không những thế cịn thể hiện sự tri âm của mình đối với Nguyễn Du qua cái
nhìn thấu hiểu, sâu sắc về cuộc đời của một trái tim yêu thương con người tha thiết
cháy bỏng nhưng lại bế tắc trước cuộc đời. 
Câu hỏi mà Nguyễn Du đặt ra cho mình gần ba trăm năm trước đã tìm được câu trả
lời trong câu thơ của Tố Hữu:   Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?. Đã bao thế hệ
độc giả khóc Tố Như, khóc một kiếp người tài hoa mà lận đận gian trn. Bây giờ,
khơng cịn khóc cho riêng một Tố Như, mà có Tố Hữu, có biết bao trái tim đã rung
động cảm thương cho những kiếp người đau khổ, trân trọng và đồng cảm với tiếng

nói nhân đạo mà Nguyễn Du đã róng lên thiết tha mãnh liệt trong Truyện Kiều,
Độc Tiểu Thanh kí, Long Thành cầm giả ca, Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến
hành... và cả sự nghiệp thơ văn của mình; có biết bao con tim đồng cảm cùng với
Tố Như tha thiết thương yêu con người. Bằng một câu thơ mà Tố Hữu gợi lên cả
nỗi đau đời quặn thắt trong khúc "Đoạn trường tân thanh"- tiếng kêu đứt ruột
trước tình trạng con người bị lăng nhục, nỗi đau ấy khiến Nguyễn Du "nhắm mắt
chưa xong" , đau đáu trăn trở. Tố Hữu đã từng viết:
    Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều...
 Điều mà Tố Hữu cảm nhận được từ trái tim Nguyễn Du cũng giống như trong lời
nhận xét của Mộng Liên Đường năm xưa: " Tố Như tử, dụng tâm đã khổ, tự sự đã
khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu khơng có con mắt trơng thấu cả sáu
cõi, tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy". Những câu thơ
Nguyễn Du đã hòa vào lòng người, tan chảy trong con tim yêu thương của nhân
thế: Tiếng đàn xưa đứt ngang dây/ Hai trăm năm lại càng say lịng người/ Trải bao
gió dập sóng dồi/ Tấm lịng thơ vẫn tình đời thiết tha... Thơi thúc con người hôm
nay biết đấu tranh loại trừ tàn ác, xấu xa để bảo vệ điều nhân văn, tốt đẹp trong
cuộc đời. Cụ thể ở đây là thế lực đen tối phản cách mạng bè lũ đế quốc, là giặc Mĩ.
Tiếng nói tri âm cất lên thiết tha vang vọng trong lời khẳng định sức sống diệu kì
của Nguyễn Du và Truyện Kiều:
    Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

skkn


    Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Những câu lục bát với giọng tâm tình sâu lắng thiết tha, ngơn từ giản dị nhưng
mang sức gợi sâu xa, hàm súc. Tố Hữu trân trọng và đánh giá rất cao về sự nghiệp
văn chương của Nguyễn Du: tiếng thơ Nguyễn Du là kết tinh của nghìn năm văn

hiến của dân tộc, của tiếng nói ngàn kiếp người xưa vang dội đến hôm nay và vang
vọng mãi mai sau, vượt qua quy luật băng hoại của thời gian. Bởi đó là tiếng nói
của tình đời, tình người, mà đỉnh cao là ý nghĩa nhân văn cao cả. Tiếng thơ trở
thành tiếng nói truyền thống nhân đạo của dân tộc, như tiếng mẹ ru gần gũi thân
thương mà thiêng liêng cao cả đã ăn sâu vào tâm khảm con người Việt Nam từ độ
ấu thơ, là di sản tinh thần quý giá của dân tộc. Truyện Kiều đã tô điểm cho non
sông đất nước bằng giá trị văn hóa, nhân đạo, nhân văn.
Kết thúc bài thơ, là hình ảnh diễm lệ của non sơng và khơng khí hào hùng của thời
đại:                                   Sông Lam nước chảy bên đồi
                                Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân
Tiếng trống giục thơi thúc vừa gợi lại nét cổ kính xa xăm, vừa gợi nhuệ khí  thời
đại đánh Mĩ. Đồn qn ra trận hơm nay cịn mang sứ mệnh cao cả là hoàn thành
ước nguyện, khát khao của bao thế hệ cha ông, trong đó có Nguyễn Du là bảo vệ
quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người, tiếp nối truyền thống nhân đạo.
Kính gửi của Nguyễn Du đã kết tinh những nét phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
(Thơ trữ tình chính trị được diễn đạt bằng hình thức tâm tình, tâm sự, màu sắc dân
tộc đậm đà...). Tố Hữu đã sử dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo lối "tập kiều" làm sống
lại cả thế giới tinh thần của thiên truyện. Nhưng điều tạo nên giá trị đặc sắc của bài
thơ không nằm ở những yếu tố nghệ thuật ấy, mà chính là cái tình, là tiếng nói tri
âm sâu sắc của Tố Hữu đối với Nguyễn Du.
 
 2.3 Tiếng nói tri âm trong Đàn ghita của Lor- ca (Thanh Thảo)
 
Thanh Thảo là một hồn thơ giàu chất triết lí, ln tìm đến với những vẻ đẹp nhân
cách cao cả bằng hệ thống thi ảnh và ngơn từ mới mẻ. Thơ Thanh Thảo vừa có sức
lắng đọng, vừa có khả năng lan tỏa kì lạ trong hồn người. Đọc thơ ông, không thể
đọc lướt, đọc qua mà cần chậm rãi, nghiền ngẫm và suy tư cùng nhà thơ như nhâm
nhi một thứ trà đặc biệt để cảm nhận được vị ngọt sau cùng. Đàn Ghi ta của
Lorca là bài thơ như thế. Đọc nhan đề bài thơ, tưởng chừng tác phẩm viết về cây
đàn hay một người nghệ sĩ, nhưng sức hút, sức sống của tác phẩm không chỉ giản


skkn


đơn như vậy, mà bởi thơng qua đó,  ý nghĩa của bài thơ đã chạm đến những giá trị
cao cả, thiêng liêng, là triết lí về cái đẹp, về sức sống của nghệ thuật chân chính
bằng tiếng nói tri âm của Thanh Thảo đối với người nghệ sĩ Tây Ban Nha Gar-xi-a
Lor-ca.
Cùng với những cái tên Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê- nhin..., Lor-ca đã
đến với Thanh Thảo khơng phải như một cuộc gặp ngẫu nhiên, tình cờ. Hồn thơ
Thanh Thảo đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp của lòng nhân ái, bao dung, can đảm,
trung thực và yêu tự do. Và thế là, như một duyên nợ, Thanh Thảo đã tìm đến với
thế giới nghệ thuật của Lor-ca, với cuộc đời Lor-ca như một tri âm tìm đến một tri
âm.
G. Lor-ca (1898-1936)- nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha, có đóng góp quan trọng và
ảnh hưởng tích cực đến nền thơ ca hiện đại Tây Ban Nha với những cách tân nghệ
thuật tiến bộ, đã đấu tranh ngoan cường vì nền dân chủ và sự tiến bộ của nghệ
thuật chân chính đến hơi thở cuối cùng. Lor-ca là người có số phận bi kịch, sống
trong đất nước Tây Ban Nha những năm đầu thế kỉ XX dưới bầu khơng khí chính
trị ngột ngạt, đen tối của nền độc tài Pri-nơ đê Ri-vê-a. Vì những ảnh hưởng mạnh
mẽ của Lor-ca đến phong trào đấu tranh dân chủ và cách tân nghệ thuật rộng khắp
Tây Ban Nha và cả khu vực Tây Âu rộng lớn, bè lũ thân phát xít Phrăng-cô đã sát
hại Lor-ca. Nhưng với nhân dân Tây Ban Nha, với những người yêu tự do trên toàn
thế giới, với Thanh Thảo, Lor-ca chưa bao giờ chết.
    Đàn ghita của Lor-ca được viết bằng hình thức thơ tự do với những sáng tạo độc
đáo của Thanh Thảo: Bài thơ không dấu câu, khơng viết hoa đầu mỗi dịng thơ, cả
bài thơ như một mạch tâm cảm nối liền bởi những hình ảnh đầy tính tượng
trưng.       Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo là giàu chất
suy tư, triết lí, ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực.
  Mở đầu bài thơ, bằng lời đề từ, Thanh Thảo dẫn ta đến với thế giới nghệ thuật của

Lor-ca qua một dịng thơ: "Khi tơi chết, hãy chơn tôi với cây đàn" .
Một câu thơ rất nổi tiếng của Lor-ca, đã từng là khởi nguồn cảm hứng nghệ thuật
của nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ước vọng làm một điều gì đó sau khi chết thường
khơng là bình thường, nhỏ nhặt mà thường là điều tâm nguyện, ấp ủ của cả một
cuộc đời.Vậy lời đề nghị, ước vọng ấy của Lor-ca là gì?
   Ở đây, hình ảnh cây đàn cần được hiểu rộng hơn một nhạc cụ quen thuộc, nó là
biểu tượng cho sự nghiệp nghệ thuật của Lor-ca và những đóng góp của ông trên
lĩnh vực nghệ thuật, bởi cùng với cây đàn đó, Lor-ca đã tấu lên bài ca tự do, thôi
thúc nhân dân đến với tự do và nghệ thuật tiến bộ chân chính. Chơn cây đàn cùng
tác giả thể hiện niềm đam mê, khát vọng theo đuổi nghệ thuật vĩnh cửu của Lor-ca,
kể cả khi cái chết đã cướp đi sinh mạng của ơng. Đồng thời nói chơn tác giả cùng
cây đàn khơng có nghĩa là phủ nhận mọi giá trị sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca mà là
để thế giới nghệ thuật của Lor-ca ngủ yên, không là đỉnh cao không thể vượt qua

skkn


hay thành vật cản với những sáng tạo nghệ thuật sau này, để nghệ thuật của ngày
mai vượt trội hơn những gì là mới mà Lor-ca đã tạo ra hơm nay, như thế mới chứng
tỏ được sức sống và sức mạnh của nghệ thuật, tương lai ln đón chờ những điều
mới mẻ... Đây chính là tư tưởng cách tân nghệ thuật tiến bộ và phóng khống của
Lor-ca. Nhà thơ Thanh Thảo đã thật sự cảm thông đến tận cùng với Lor- ca. Nghệ sĩ
Lor- ca  ra đi bất ngờ khiến hành trình cách tân nghệ thuật của ơng bị dang dở và
con đường ông đã đi qua ở thời đại ông không nhiều người thực sự hiểu . Lor- ca đã
dặn "Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn", lời dặn đó thể hiện nhân cách nghệ
sĩ ,tình u say đắm với nghệ thuật và tình yêu tha thiết với đất nước Tây Ban Nha.
Thanh Thảo đã thấu hiểu điều đó khi trang trọng đặt câu thơ của Lor-ca làm lời đề
từ cho bài thơ của mình.
      Từ tốn và sâu lắng, Thanh Thảo cẩn trọng gỡ tấm mành cách bức về thời gian,
về khơng gian, về văn hóa cho chúng ta đến với khơng gian văn hóa, chính trị của

đất nước Tây Ban Nha những năm đầu thế kỉ XX và đến với trái tim cùng số phận
nghiệt ngã của Lor-ca .
           Dòng thơ đầu tiên là cảm nhận của Thanh Thảo về hình ảnh của Lor-ca- một
cảm nhận rất riêng:
       những tiếng đàn bọt nước
  Sự xuất hiện của Lor-ca không phải với cái tên Lor-ca hay sự tái hiện trực tiếp mà
qua hình tượng tiếng đàn bọt nước. Thanh Thảo đã hữu hình hóa cái vơ hình, khiến
tiếng đàn có thể được cảm nhận bằng thị giác. Gửi gắm trong đó là sự ngưỡng
vọng và trân trọng đối với những giá trị nghệ thuật của Lor-ca: Tiếng đàn mong
manh mà huyền diệu, như thực như mơ, khơng dễ gì nắm bắt, chiếm lĩnh và thấu
hiểu, chính điều đó tạo nên sức mê huặc kì diệu trong nghệ thuật của Lor-ca.   Bọt
nước là sự vật rất mơ hồ, vừa lung linh hiện hữu đã có thể tan biến hồ vào dịng
chảy vĩnh cửu, nhưng cũng ngay tức khắc có thể tái sinh... Sự hiện hữu trong
khoảnh khắc đó là một số phận, và nó đã làm trịn sứ mệnh với cuộc đời này. Đó
phải chăng cũng chính là số mệnh thế giới nghệ thuật của Lor-ca?
       Dùng hình ảnh tiếng đàn bọt nước để nói đến thế giới nghệ thuật của Lor-ca là
cách nói vừa hình ảnh, vừa sâu sắc và cũng là cảm nhận từ trái tim của Thanh Thảo.
       Đối lập hồn tồn với hình ảnh thơ đầu tiên, câu thơ tiếp theo gợi sự đấu tranh
ngoan cường của Lor-ca trong bối cảnh khốc liệt của thời đại :
       Tây Ban Nha áo chồng đỏ gắt
   Thanh Thảo đã chọn hình ảnh áo chồng đỏ với ý nghĩa tượng trưng có sức biểu
đạt phong phú, bất ngờ. Hình ảnh này nhắc tới mơn đấu bị tót, một sinh hoạt văn
hóa Tây Ban Nha nổi tiếng tồn thế giới mà sức hấp dẫn của nó là thử thách bản
lĩnh, ý chí và sức mạnh của con người. Hình ảnh áo chồng đỏ gắt cịn giúp ta liên

skkn


tưởng đến khung cảnh của một đấu trường. Rộng hơn hình ảnh cụ thể một đấu
trường truyền thống của văn hóa Tây ban Nha là đấu trường quyết liệt giữa công

dân Lor-ca cùng khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật
già nua Tây Ban Nha với nghệ thuật cách tân của Lor-ca. Áo chồng đỏ chính là
hình ảnh của đấu sĩ Lor-ca trên trường đấu vì tự do và tiến bộ nghệ thuật. Một đấu sĩ
dũng cảm, đầy chí khí, dám đương đầu và khơng bao giờ lùi bước. Và vũ khí đấu
tranh của người nghệ sĩ ấy chính là:
       li-la li-la li-la
     Là tiếng đàn vang vọng, là thế giới nghệ thuật đang lan tỏa hay sắc tím bình n
lãng mạn đang triền miên trong tâm thức của một lồi linh hoa? Có lẽ cũng khơng
cần đến một câu trả lời rõ ràng minh xác. Bởi đây là cảm nhận của Thanh Thảo về
một Tây Ban Nha huyền bí, về một Lor-ca tài hoa khơng mệt mỏi cùng cây đàn cất
lên những khúc ca yêu thương và tranh đấu.
     đi lang thang về miền đơn độc
     với vầng trăng chếnh chống
     trên n ngựa mỏi mịn
   Mở ra trước mắt ta là miền đất của cuộc sống gần gũi với thiên nhiên, phóng
túng, tự do, đầy chất nghệ sĩ. Những hình ảnh này gợi tư duy liên tưởng của người
đọc hướng tới đất nước Tây Ban Nha với khơng gian phóng túng, hoang sơ, với
những con người có tâm hồn phong phú, lãng tử,  đam mê dạt dào với cuộc sống.
Và ở đây, Thanh Thảo đã nhìn thấy một Lor-ca cơ đơn, cơ đơn trên hành trình đi
tìm tự do và yêu thương cho con người. Những từ láy mang sắc thái biểu lộ tâm
trạng liên tục xuất hiện trong ba dịng thơ: lang thang, đơn độc, chếnh chống, mỏi
mịn tái hiện bước chân phiêu lãng của tâm hồn hồn tồn tự do giữa đất trời, đó
cũng là bầu trời tự do mà lor-ca mở ra trong thế giới nghệ thuật của mình song rồi
cũng khơng vượt thốt được nỗi cô đơn trong thời đại mà cái xấu, cái ác, cái phản
tiến bộ đang bủa vây. Một bi kịch bắt đầu được hé lộ.
     Điều ám ảnh Thanh Thảo cũng như mỗi chúng ta khi đối diện với số phận của
Lor-ca chính là cái chết oan khuất của ơng. Lor-ca chết khi đang bước đi trên con
đường tranh đấu cho sự tiến bộ của nghệ thuật và nền dân chủ Tây Ban Nha. Bài
thơ này được khởi nguồn bởi cảm xúc của thanh Thảo trước cái chết đầy bi phẫn
của Lor-ca.

        Tây Ban Nha
        hát nghêu ngao
        bỗng kinh hoàng

skkn


        áo choàng bê bết đỏ
   Tiếng hát trong câu thơ mang ý nghĩa tượng trưng: hát nghêu ngao - đó là thanh
âm của tự do, của tình yêu đời hồn nhiên nồng nhiệt, của tâm hồn bay bổng say
sưa. Tiếng hát đó là tinh túy của sự sống. Và tiếng hát đột nhiên vụt tắt. Câu
thơ bỗng kinh hoàng  với hai từ bỗng và kinh hoàng bổ trợ cho nhau, diễn tả cảm
xúc bàng hoàng, đau đớn cực độ trước cái chết đột ngột đầy bi phẫn của lor-ca.
Một lần nữa hình ảnh áo chồng đỏ lại xuất hiện, nhưng không phải sắc đỏ gắt của
cuộc đấu khốc liệt, mà là màu bê bết đỏ bi thương của đổ máu, của cái chết.
     Tái hiện cái chết oan khuất của Lor-ca, Thanh Thảo khơng hề tả, chỉ gợi lên bởi
những hình ảnh mang màu sắc tượng trưng. Thanh Thảo biết đến Lor-ca qua
những bài thơ của Lor-ca và huyền thoại về ông. Vậy mà đọc đoạn thơ nói về cái
chết của Lor-ca, ta như cảm nhận rõ nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn linh hồn. Nỗi
đau hiện hữu bởi nỗi kinh hoàng, bởi sắc áo choàng bê bết đỏ. Phải chăng niềm
cảm thương, nỗi xót xa của Thanh Thảo trước cái chết oan nghiệt của lor-ca đã tạo
nên sức ám ảnh đến day dứt của những vần thơ này?
      Lor-ca bị điệu về bãi bắn
      chàng đi như người mộng du
  Trái tim nhạy cảm và lòng đồng cảm sâu sắc đã giúp thanh Thảo dựng lại hình
ảnh của Lor-ca khi đến với cái chết. Trong rất nhiều bài thơ của mình, Lor-ca nhắc
đến cái chết như một ám ảnh khôn nguôi, như một dấu hiệu báo trước, những linh
cảm chẳng lành. Hình ảnh đi như người mộng du cho thấy, dù bước chân đưa ông
vào cõi chết, nhưng trái tim vẫn thổn thức với những nhịp đập yêu thương của cuộc
sống. Bọn phát xít chỉ có thể đẩy thể xác ơng xuống mồ mà bất lực trước tâm hồn

tự do, tình yêu và khát vọng cao cả của Lor-ca. Tinh thần của Lor-ca là bất tử. Bởi
cả khi Lor-ca cái chết đã chấm dứt cuộc đời ngắn ngủi của ơng thì hình ảnh cây
đàn của Lor-ca, những vần thơ của Lor-ca vẫn thơi thúc ý chí đấu tranh của dân
tộc, những thanh âm tiếng đàn tự do của Lor-ca vẫn vang vọng mãi ngàn sau…
           tiếng ghi ta nâu
           bầu trời cô gái ấy
           tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
           tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
           tiếng ghi ta ròng ròng
           máu chảy

skkn


  Đoạn thơ là suy nghiệm về sức lay động của tiếng đàn và thân phận của nó trong
thế giới bạo tàn.
    Với điệp khúc dồn dập, những dòng thơ ngắn: điệp  tiếng ghi ta ngân lên như nốt
nhạc ghita, như những tiếng thổn thức đau đớn phẫn nộ chân thành của Thanh Thảo
trước cái chết oan khuất của Lor-ca.
   Bằng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hình ảnh tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi
ta lá xanh đã làm nổi bật tình yêu, cái đẹp, sức sống kì diệu của tiếng đàn Lor-ca
trong cảm nhận thật tinh tế và sâu sắc của Thanh Thảo. Thanh Thảo đã cảm nhận
được từ thế giới nghệ thuật của lor-ca thơng điệp ơng để lại đời, cũng chính là điều
mà Thanh Thảo ấp ủ, trân trọng và nâng niu: khát vọng với tự do, lòng yêu cuộc
sống và ý chí đấu tranh. Đây chính là giao điểm của mối tương giao kì lạ giữa hai
nhà thơ vốn rất cách biệt về khoảng cách đời thường: không gian xa xơi, thời gian
vời vợi, hai nền văn hóa hồn tồn xa lạ... nhưng lại dường như rất gần gũi về tâm
hồn, tư tưởng. Thanh Thảo đã tìm đến Lor-ca và khẳng định sức sống kì diệu của
sự nghiệp nghệ thuật mà Lor-ca để lại.
       Với Thanh Thảo, nghệ thuật của Lor-ca, thế giới tinh thần của Lor-ca, số phận

của Lor-ca ... đều có thể biểu lộ thơng qua hình tượng tiếng đàn. Tiếng đàn ấy là
sinh thể có linh hồn, có thân phận:
                    tiếng ghi ta trịn bọt nước vỡ tan
                    tiếng ghi ta ròng ròng
                    máu chảy
    Vỡ tan và ròng ròng/máu chảy là cách nói đầy sức ám ảnh về cái chết đau đớn
oan khuất của Lor-ca. Đối diện với nỗi đau mà Thanh Thảo tái hiện, trong ta hiện
hữu hai trạng thái cảm xúc: nỗi xót xa đến tê tái cho nỗi đau của lor-ca và nỗi căm
phẫn đến uất nghẹn đối với bọn phát xít tàn ác hủy diệt tài năng và tư tưởng tiến bộ
của thời đại. Có thể cảm nhận rõ rệt sự tương phản đối lập giữa sắc nâu bình yên
của đất, màu xanh dịu dàng đầy sức sống của lá với hình ảnh rịng rịng máu
chảy đau đớn của những liên tưởng. Đó cũng chính là nghịch lí giữa lí tưởng sống
cao đẹp, thế giới nghệ thuật và số phận bi thảm oan khuất của ông. Như vậy, tiếng
đàn là tâm hồn, là vẻ đẹp của nghệ thuật Lor-ca, tiếng đàn cũng chính là thân phận
của Lor-ca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực tại mà cái ác
ngự trị.
          không ai chôn cất tiếng đàn
          tiếng đàn như cỏ mọc hoang
          giọt nước mắt vầng trăng

skkn



×