SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HƯNG YÊN
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MỸ HÀO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dạy học văn bản
“Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo)
theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu Giang
Giáo viên trường THPT Mỹ Hào
Mỹ Hào, tháng 4 năm 2014
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………………………………2
1.1.Cơ sở lí luận………………………………………………………………………… 2
1.2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………….2
2.Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………4
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………………………4
4.Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………………….4
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA CHẤT THƠ TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH…….7
1.1. Quan niệm về chất thơ trong tác phẩm văn học………………………………………7
1.1.1. Chất thơ trong thơ trữ tình………………………………………………………………11
1.1.2. Chất thơ trong thơ mang dáng dấp tượng trưng, siêu thực……………………….13
1.1.3. Tác động tích cực của chất thơ trong tác phẩm văn chương đến hứng thú tiếp nhận
và cảm xúc thẩm mĩ của học sinh trong quá trình dạy học………………………………16
1.2. Đánh giá thực trạng dạy học bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” ở trường THPT chương
trình sách giáo khoa ngữ văn (Ban cơ bản)………………………………………………21
CHƯƠNG 2: CÁCH THỨC VẬN DỤNG CHẤT THƠ TRONG “ĐÀN GHI TA CỦA
LORCA” VÀO DẠY HỌC BÀI THƠ………………………………………………… 24
2.1. Biểủ hiện của chất thơ trong Đàn ghi ta của Lorca………………………………… 24
2.2. Một thế giới hình tượng, hình ảnh đa sắc màu văn hóa trong tư duy thơ của Thanh
Thảo……………………………………………………………………………………….24
2.3. Sự đồng điệu về tâm hồn giữa cái tôi trữ tình và đối tượng trữ tình………………… 30
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………………………………… 39
3.1. Mục đích thực nghiệm……………………………………………………………… 39
3.2. Yêu cầu thực nghiệm…………………………………………………………………39
3.3. Thời gian và địa bàn thực nghiệm……………………………………………………39
3.4. Nội dung và phương pháp tiến hành thực nghiệm………………………………… 39
3.5. Thiết kế giáo án thực nghiệm……………………………………………………… 40
3.6. Kết quả thực nghiệm…………………………………………………………………64
3.7. Đánh giá kết quả thực nghiệm……………………………………………………….64
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………66
PHẦN MỞ ĐẦU
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
2
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
1.Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
Thi phẩm “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) được lựa chọn và đưa vào chương
trình ngữ văn 12, tập I từ năm 2008 đến nay đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu văn học, giáo viên và học sinh. Đây là một bài thơ hay và độc đáo
cả về phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, là một thi phẩm xuất
sắc nhất của Thanh Thảo đồng thời là một sáng tác tiêu biểu cho xu hướng cách tân
thơ Việt trong giai đoạn văn học sau 1975. Tác phẩm được viết theo khuynh hướng
thơ tượng trưng, siêu thực với cách biểu đạt mới lạ. Nhưng để cảm hiểu được cái
hay, cái mới của bài thơ này lại là một thách thức không nhỏ với người dạy và
người học.Chính vì vậy, việc giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh về bài
thơ trên không dễ thành công. Đối với học sinh, bài thơ trên khó học bởi lối biểu đạt
và cách sử dụng ngôn từ hết sức lạ của Thanh thảo khiến các em lúng túng trong
cách giải mã ngôn từ, dẫn đến khó liên tưởng, tưởng tượng nhiều chi tiết, hình ảnh
trong tác phẩm. Đối với giáo viên, bài thơ trên khó dạy ở chỗ: đây là bài thơ có lối
sử dụng hình ảnh táo bạo, ngôn ngữ giàu giá trị biểu trưng có khả năng mở ra nhiều
tầng bậc ý nghĩa và liên tưởng phong phú. Nhiều giáo viên đã dạy bài thơ này như
dạy một truyện vì mải mê hướng dẫn học sinh tìm hiểu vẻ đẹp của hình tượng Lorca
mà quên mất đây là bài thơ của Thanh Thảo, là tấc lòng tri âm, tiếng nói cảm thông
sâu sắc, sự đánh giá cao của Thanh Thảo với Lorca… Việc xác định chủ đề tư
tưởng bài thơ và các tầng ý nghĩa của các hình ảnh thơ không hề đơn giản và không
dễ thống nhất nếu không đưa ra được cách cắt nghĩa, lí giải phù hợp. Thực tế cho
thấy đã có nhiều cách hiểu xa rời văn bản thậm chí sai lệch về giá trị đích thực của
bài thơ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việc giảng dạy môn văn trong nhà trường phổ thông trung học hiện nay còn nhiều
vấn đề cần suy ngẫm. Một trong những vấn đề nổi cộm là làm thế nào đưa môn văn
về đúng vị trí và vai trò của nó- là một môn học khoa học xã hội và nhân văn giàu
tính thẩm mĩ về nghệ thuật ngôn từ. Nghĩa là quan tâm đến sự tác động của chất thơ
đến cảm xúc thẩm mĩ của học sinh. Bởi chất thơ làm nên cái đẹp, lí tưởng, thơ
mộng, bay bổng của cuộc sống và tâm hồn con người. Biết phát hiện ở đối tượng
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
3
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
khách quan phần nên thơ của nó, cung cấp cho nó một dáng hình, một các giải
thích, một lí tưởng đẹp. Đó chính là nhiệm vụ chung của nghệ thuật và trực tiếp của
thi ca. Chất thơ của một tác phẩm văn học không phải là vấn đề dễ xác định nói như
nhà văn Nguyễn Tuân “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và toàn thập tôi
thấy cũng khó như định nghĩa chất uymua”. Nhưng khó không có nghĩa là không
thể có cách hiểu cụ thể về chất thơ bởi tác phẩm văn chương không phải là một cái
gì thần bí , siêu việt, văn học gắn liền với cuộc sống và là sản phẩm tinh thần của
người nghệ sỹ thì hành trình khám phá chất thơ trong tác phẩm văn học thực chất
là tìm hiểu cái đẹp làm xúc động lòng người đó cũng chính là bản chất của văn
chương muôn đời. Khám phá chất thơ của tác phẩm văn học trước hết phải bắt đầu
từ ngôn ngữ nghệ thuật của văn bản thơ văn. Bởi ngôn ngữ chính là chất liệu, là
phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học, ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên
mà nhà văn, nhà thơ sử dụng để sáng tạo ra tác phẩm, nói như Maiacôpxki:
Phải phí tốn ngàn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài
Và cũng chính từ những kí hiệu đầy bí ẩn ấy giúp cho chúng ta khám phá
những tầng bậc ý nghĩa sâu xa và định hướng đúng đắn giá trị đích thực của một tác
phẩm văn học. Thực tế trong rất nhiều giờ dạy văn hiện nay, giáo viên chưa thật sự
chú trọng đến điều này.Việc đọc văn bản chỉ được tiến hành trong một khoảng thời
gian rất hạn hẹp hoặc chỉ cho học sinh đọc lấy lệ. Điều này thể hiện rõ trong các
khâu thiết kế giáo án cho giờ dạy. Giáo viên chủ yếu giúp các em có kiến thức, biết
khai thác tác phẩm theo đặc trưng thể loại mà không chú ý nhiều đến chất văn, chất
thơ được thể hiện qua tác phẩm. Xuất phát từ những lí do trên, tôi nghiên cứu đề tài:
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất
thơ của tác phẩm. Với mong muốn có những đóng góp cho việc học tập và giảng
dạy tác phẩm được thành công hơn.
2.Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
4
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
2.1.Mục đích nghiên cứu
- Khẳng định giá trị về mặt nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của bài
thơ.
- Đề xuất cách thức dạy bài thơ này có hiệu quả.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu chất thơ của tác phẩm Đàn ghi ta của Lorca (Thanh Thảo)
- Hướng dẫn học sinh đọc, vận dụng chất thơ trong quá trình đọc- hiểu bài thơ
“Đàn ghi ta của Lorca”.
- Thiết kế giáo án theo những nội dung trên để thực hiện các nhiệm vụ dạy
học.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.Đối tượng nghiên cứu
- Cơ sở lí luận về nội dung chất thơ của tác phẩm “Đàn ghi ta của Lorca”
- Nghiên cứu, phân tích giáo án và giờ dạy của đồng nghiệp về văn bản Đàn
ghi ta của Lorca (Thanh Thảo) (Ngữ văn 12- tập I) tại trường THPT Mỹ Hào
– Tỉnh Hưng Yên
3.2.Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ SKKN của mình, chúng tôi tập trung nghiên cứu việc vận
dụng chất thơ của tác phẩm trong quá trình dạy đọc- hiểu bài thơ
4.Phương pháp nghiên cứu
- Tổng hợp, khái quát, lựa chọn lại những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
- Khảo sát thực tiễn dạy học bài thơ Đàn ghi ta của Lorca ở lớp 12 theo sách
giáo khoa ( Ban cơ bản)
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm (điều tra, phỏng vấn, phương pháp
chuyên gia….)
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
5
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ CỦA CHẤT THƠ TRONG DẠY HỌC THƠ TRỮ TÌNH
1.1. Quan niệm về chất thơ trong tác phẩm văn học
Trong sáng tác văn học nghệ thuật, chất thơ được xem như một đặc tính quan
trọng đem lại sự cuốn hút kì diệu cho hình tượng nghệ thuật và tác phẩm. Chất thơ
biểu hiện ở cái đẹp của ngôn ngữ và âm điệu, cái đẹp của cảm xúc và ý tưởng…
Chất thơ chính là sự khám phá cuộc sống bằng nghệ thuật đa dạng, độc đáo đem
lại vẻ đẹp và xúc động tâm hồn cho người đọc. Thông thường người ta cho rằng
chất thơ là một thuộc tính chỉ riêng thơ mới có. Nhưng thực ra chất thơ có thể tìm
thấy trong cả những thể loại văn học khác như văn xuôi ( tiểu thuyết, truyện ngắn,
tản văn….), kịch… Chất thơ được tạo nên từ những hình ảnh đẹp, giàu sức biểu
cảm, từ những ngôn từ giàu nhạc điệu, bay bổng thanh thoát….Vậy là “ cái chất trữ
tình bay bổng, diệu kì của hình ảnh , âm điệu, ngôn ngữ…vốn là của thơ ca, đến
một lúc nào đó lại có thể tìm thấy trong hầu hết các thể loại”
Tác phẩm văn chương chính là sự thẩm thấu của nhà văn về cái đẹp trong
cuộc sống và nghệ thuật. Người ta thường nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học
và trong đời sống, khi nói đến chất thơ là nói đến nhân tố thuộc nội dung, chất thơ
có thể nằm đây đó trong cuộc sống ở những mặt kết tinh tiêu biểu, hoặc ở trong văn
xuôi. Nhưng nói như thi hào Huy Gô, chất thơ bộc lộc một cách diễn cảm, mầu sắc
qua cấu trúc của ngôn ngữ thi ca.
Trong đời sống hàng ngày, khi nói đến chất thơ thường có thói quen nghĩ đến
cái gì đẹp, thơ mộng, lí tưởng, bay bổng như một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng,
sơn thủy hữu tình, một người con gái đẹp, một tâm hồn lãng mạn. Người ta ít nghĩ
hơn đến chất thơ trong những cảnh đời lam lũ, mệt nhọc hay những cảnh tượng bề
bộn, tăm tối. Quan niệm trên dường như đã trở thành một thói quen trong cảm nghĩ
của nhiều người, tuy có phần đúng nhưng chưa đủ. Cần thấy rằng có đối tượng nên
thơ và đối tượng không nên thơ, biết phát hiện ở đối tượng khách quan phần nên thơ
của nó, cung cấp cho nó một dáng hình, một cách giải thích, một lí tưởng đẹp. Đó là
nhiệm vụ chung của nghệ thuật và trực tiếp của thi ca.
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
7
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Khác với chất thơ trong đời sống thường được quan niệm như một cái gì đẹp,
thơ mộng, tồn tại khách quan, chất thơ trong nghệ thuật bao gồm sự thống nhất giữa
những phẩm chất của đối tượng khách quan với cảm hứng sáng tạo chủ quan của
nhà thơ. Thực tế khách quan được chọn lọc ở những mặt kết tinh tiêu biểu, ở những
chi tiết, hình ảnh chân thực là tiền đề trực tiếp để tạo nên chất thơ, chính hiện thực
phong phú đó có tác dụng gây cảm xúc và góp phần biểu hiện thành cảm xúc thẩm
mỹ. Nhưng nhân tố quan trọng hơn cả để tạo nên chất thơ chính là phần cảm xúc và
suy nghĩ chủ quan của người nghệ sĩ. Những hình tượng thơ ca chân chính đều chứa
đựng một lí tưởng đẹp, một sức tưởng tượng phong phú và những cảm xúc lắng
đọng sâu sắc. Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiểu nhân tố.
Những nhân tố này cũng có thể có trong nội dung cấu tạo của các thể loại khác,
nhưng ở thơ biểu hiện tập trung hơn và được hòa hợp, liên kết một cách vững chắc
tạo nên những phẩm chất mới.
Xác định chất thơ là một vấn đề khó, rất khó. Đúng như nhà văn Nguyễn
Tuân nhận xét “Định nghĩa về chất thơ cho thật chính xác và toàn thập, tôi thấy nó
cúng khó như định nghĩa cho chất uymua (humour). Nhưng khi chúng ta quan niệm
“thơ không phải là cái gì thần bí, siêu việt, thơ gắn liền với cuộc sống, với tâm hồn
con người và năng lực sáng tạo của người nghệ sĩ thì việc tìm hiểu chất thơ lại là
cần thiết và quan trọng để làm cơ sở lí luận đi vào địa hạt thơ ca.”
Chất thơ trong tác phẩm văn học trước hết gắn liền với sự rung động và cảm
xúc trực tiếp. Nếu xem bản chất giàu cảm xúc là một năng lực tinh thần thuộc về
bản chất của người nghệ sĩ thì điều đó trước hết phải có ở người thi sĩ, Nói như
Xuân Diệu :
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió.
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để linh hồn ràng buộc với muôn dây”
Cảm xúc là nhân tố quan trọng tạo nên hình tượng. Có nhiều cách để tạo nên
cảm xúc như qua miêu tả hình ảnh, hoặc qua liên tưởng, so sánh hoặc qua nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ. Nhưng điều quyết định chính là ở tấm lòng vì “thơ là tiếng
lòng” (Ngô Giang Tiệp- đời Thanh) “Thơ từ trái tim đi và trở về với trái tim”
(Worthworth).
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
8
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Chất thơ trước hết là ở tấm lòng nhưng chất thơ cũng bắt nguồn từ hiện thực
cuộc sống muôn màu. Một bức tranh thiên nhiên, một khung cảnh lao động của con
người, hay một cảnh đời lam lũ…. Cũng là tiền đề làm nên vẻ đẹp nên thơ của tác
phẩm văn học. Trong tác phẩm văn học nhất là trong thơ có nhiều câu được cấu tạo
nên chủ yếu bằng cảm xúc, bằng thuần túy chất liệu của tâm hồn
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
(Tố Hữu)
Tuy nhiên, những cảm nghĩ của nhà thơ phải lấy điểm tựa ở phần hiện thực
được chọn lọc. Trong thơ rất cần đến những bức tranh về đời sống hiện thực.Tuy
nhiên hiện thực đời sống đi vào trong thơ không theo diện mà theo điểm. Những
hình ảnh tiêu biểu nhất được chọn lọc để miêu tả và sẽ được liên kết trong nhận
thức và liên tưởng của người đọc thành những bức tranh giàu sức sống, sinh động
và chân thực. Đó là phần tiêu biểu của hiện thực, cái tính chất được chọn lựa, chắt
lọc ra từ đời sống và sẽ trực tiếp tạo thành chất thơ. Do đó, chất liệu và hình ảnh của
đời sống hiện thực chỉ có giá trị thơ khi nó có tính chất tiêu biểu, điển hình và có
khă năng gây xúc cảm. Đó là một quy luật chi phối rõ rệt đến việc sáng tạo hình ảnh
trong thơ. Có thể chỉ một hình ảnh vẫn có sức gợi cảm mạnh mẽ khi nó kết tinh
được nhiều sự sống. Cuộc sống được nói lên bằng hình ảnh và tâm trạng cũng bộc
lộc kín đáo đằng sau những hình ảnh được miêu tả như có vẻ khách quan. Hiện thực
ở những nét tinh chất đều có tác dụng gây cảm xúc mạnh mẽ và có khẳ năng nói lên
nhiều mặt tiêu biểu của đời sống. Chính đó là tiền đề của chất thơ và nhiều khi bản
thân nó là chất thơ cô đọng.
Chất thơ gắn liền với trí tưởng tượng, trí tưởng tượng là năng lực của tư duy
góp phần rất tích cực vào hoạt động nhận thức của con người, đặc biệt là nhận thức
nghệ thuật. Trí tưởng tượng là một đường dây nối liền những hiện tượng tưởng như
riêng rẽ, cách biệt nhau thành một nguồn mạch thống nhất. Trí tưởng tượng chắp cánh
cho tâm hồn bay lên vượt khỏi những giới hạn xác định của một địa điểm và thời điểm
cụ thể mà trở về với quá khứ, sống trong ước mơ với tương lai. Trí tưởng tượng là một
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
9
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
động lực tinh thần quyết định giờ phút nhổ neo cho con thuyền tìm về những mảnh đất
xa xôi và những bến bờ xa lạ, ở đấy một giấc mơ có khả năng trở thành một sự thực.
Tưởng tượng cũng chính là them vào cái có thật phần nên có và sẽ có, là sự chuẩn bị
tích cực cho một hành động sáng tạo và bản thân nó là một sự sáng tạo.
Nói đến thơ ca là nói đến sức tưởng tượng. Nhà thơ Sóng Hồng đã chỉ ra đặc
điểm quan trọng này của thơ “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng
tượng”. Apooline đã có lí khi nhận xét: “Cái lĩnh vực phong phú, ít được biết đến
nhất, cái lĩnh vực có một chiều rộng không ngờ là tưởng tượng, vì vậy không có gì
lạ nếu người ta đã dành danh hiệu nhà thơ chủ yếu cho những người đi tìm những
niềm vui mới rải rác trên những không gian đồ sộ của tưởng tượng”
Chất thơ cũng gắn liền với cái đẹp. Thơ không phải chỉ nói đến cái đẹp trong
cuộc sống mà nói về cuộc sống với một lí tưởng đẹp. Không phải ngẫu nhiên
Etgapô cho rằng: “Cái đẹp là địa hạt hợp pháp của thơ ca”. Còn Bô-đơ-le xem thơ là
“ước mong của con người vươn tới một cái cao đẹp cao thượng”. Chúng ta có thể
kể thêm nhiều quan niệm khác và cách nói nhiều khi thiếu mức độ và quá đi như
quan niệm của Seli “Thơ ca biến mọi vật thành đẹp, nó làm tăng vẻ đẹp của những
cài gì đẹp nhất, nó đem lại vẻ đẹpcho những cái gì xấu xí nhất”.Cái đẹp là phẩm
chất và cũng là quy luật chung của sự nhận thức và sáng tạo trong nghệ thuật.
Toàn bộ những phẩm chất trên hợp thành chất thơ trong sáng tạo của nghệ
thuật. Chất thơ của mỗi nhà thơ được hình thành với những đặc điểm riêng do trình
độ và năng lực tinh thần, do hoàn cảnh từng cá nhân qui định. Có thể thông qua
thành phần cấu tạo của chất thơ mà tìm hiểu những mặt nhất định của phong cách
thơ của từng tác giả. Cái đẹp trong thơ là sự thống nhất thẩm mĩ giữa những phẩm
chất của thực tại khách quan với cái đẹp trong tâm hồn người nghệ sỹ. Do đó, tuy
có nhiều quan niệm khác nhau về chất thơ trong văn học nhưng có thể tổng hợp các
ý kiến đó trong cách hiểu sau: “Với trí tưởng tượng phong phú và những rung động
sâu xa của tâm hồn, nhà thơ phản ánh hiện thực xã hội và tâm trạng con người
thông qua hệ thống những cảm nghĩ và những hình ảnh tiêu biểu cho đời sống trên
cơ sở của ngôn ngữ gợi cảm chọn lọc và giàu nhịp điệu”. Chất thơ trong tác phẩm
văn học tạo nên nguồn cảm hứng lãng mạn, khẳng định “cái tôi” đầy tình cảm, cảm
xúc hướng tới lí tưởng. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người vượt lên
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
10
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
hiện thực khổ đau, đen tối, gian khổ để hướng tới một tương lai tươi sáng. Cảm
hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo không chỉ trong thơ mà còn còn trong
nhiều thể loại văn học khác để người ta có thể nói tới chất thơ của nó.
1.1.1. Chất thơ trong thơ trữ tình
Người ta thường nói đến chất thơ trong tác phẩm văn học nhưng chất thơ biểu
hiện đậm đặc và sâu sắc nhất là trong thơ trữ tình. Có lẽ đó là điều dễ hiểu bởi “Từ thời
cổ đại đến nay, văn chương nhân loại có các loại thơ: thơ sử thi, thơ bi kịch, thơ tự sự,
thơ trữ tình, thơ trào phúng, phúng thích, thơ thế sự, thơ quảng bá ý tưởng, tuyên
truyền, quảng cáo, thơ thoại trong kịch Mỗi khi bàn về thơ, người ta chỉ bàn về thơ
trữ tình, mặc nhiên coi nó là tiêu biểu của thơ…” Điểm mấu chốt để phân biệt thơ trữ
tình với những thể thơ khác là ở mục đích và phương thức biểu đạt riêng. Thơ trữ tình
không chỉ có mục đích “ viết ra nhằm biểu đạt tình cảm ,cảm xúc, sự đánh giá của con
người đối với xung quanh” mà còn để bày tỏ về chính mình trong những “rung động cụ
thể, cảm tính, hình ảnh, giàu màu sắc nhạc tính”
Nếu nói văn học phản ánh hiện thực thì hiện thực trong thơ trữ tình chủ yếu
là hiện thực tâm hồn của chính nhà thơ, người tạo ra văn bản. Hay nói cách khác
chất thơ trong thơ trữ tình trước hết được thể hiện ở cảm xúc trực tiếp của chủ thể
tác giả- người sáng tác ra văn bản thơ. Những cung bậc tình cảm của nhà thơ dù là
một niềm vui hồ hởi hay một nỗi buồn sâu lắng, thiết tha, dù kéo dài triền miên, trĩu
nặng tâm hồn hay thoáng qua trong giây lát đều gắn liền với một cái gì đó của đời
sống bên ngoài nhưng sâu xa hơn là tiếng nói thầm kín của trái tim và tâm hồn
người nghệ sĩ. Phải thâm nhập vào thế giới tâm hồn của chủ thể, hình dung được
trạng thái xúc cảm của tác giả trong quá trình hình thành văn bản chứ không phải
nhìn vào nội dung được nói tới của bài thơ ấy sau khi nó đã hoàn thành. Muốn thế
phải thâm nhập vào tiếng nói của chủ thể để cảm thông, lắng nghe, hình dung… và
phải đọc lên cho cảm xúc hiện ra trong hình ảnh, nhịp điệu. Thơ trữ tình chính là
những nỗi niềm tâm sự riêng của tác giả. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng
trung tâm, là cái tôi bao quát trong toàn bộ sáng tác. Có nhiều cuộc đời thi sĩ gắn
liền với đời thơ như hình với bóng, những sự kiện, hành động và tâm tình trong
cuộc đời riêng cũng in lại đậm nét trong thơ. Nói như Hàn Mặc Tử:
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
11
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Garxia Lorca cũng nói một cách cảm động về mối quan hệ giữa nhà thơ và
đời thơ
“Mỗi bài thơ mà hôm nay tôi trao vào tay bạn đọc thân mến là nảy sinh
cùng với mầm mống trên cái cây xao động của cuộc đời đang nở hoa. Coi thường
quyển sách này sẽ là tàn nhẫn bởi vì nó gắn liền khăng khít với bản thân cuộc đời
tôi. Ở ngay sự yếu đuối của nó, sự nghèo nàn mà tôi thừa nhận vẫn có một sức
mạnh của nó trong số những sức mạnh khác mà chỉ có tôi mới phát hiện được”.
Sự thống nhất giữa cuộc đời nhà thơ và cái tôi trữ tình trong sáng tác là một
hiện tượng khá phổ biến. Thơ trữ tình từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến Hồ
Xuân Hương, Cao Bá Quát, Tú Xương, Phan Bội Châu, Tố Hữu ….đều biểu hiện rõ
nét sự thống nhất trên. Thái độ bất bình với những xấu xa và lố lăng của xã hội, nụ
cười mỉa mai và trào lộng đều có những liên hệ khá trực tiếp với cuộc đời riêng của
Tú Xương, nhà nho yêu nước, long đong chuyện thi cử, và cái nghèo năm tháng
quẩn quanh. Tuy nhiên cần lưu ý là không thể đồng nhất cái tôi của nhà thơ trong
đời sống với cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Có những trường hợp cái tôi trữ tình
trong thơ khác biệt đến xa lạ với con người thuộc cuộc sống thực của nhà thơ. Có
thể kể ra đây ví dụ: Veclen con người lang thang trong các quán rượu đắm chìm
trong những mộng tưởng xa lạ, với Vélen- nhà thơ có những vần thơ tỉnh táo ca
ngợi Ba- lê công xã. Do đó: Cái tôi trữ tình không phải bao giờ cũng là cái tôi của
tác giả sáng tác ra bài thơ, nhưng nó lại là cơ sở trực tiếp nhất sáng tạo nên thi ca.
Đi vào thế giới của chủ thể chính là đi vào bản chất, cốt lõi của thơ vậy.
Nếu nội dung chủ yếu trong thơ trữ tình là thế giới tâm
hồn chủ thể tác giả thì yếu tố biểu đạt nội dung đó không gì hiệu quả hơn là giọng
điệu. Giọng điệu vốn là yếu tố thể hiện linh hồn, phong cách… trong tác phẩm văn
học nói chung. Riêng với thơ, thì giọng điệu còn là một trong những yếu tố quan
trọng nhất làm nên chất thơ trong thơ trữ tình, cũng là yếu tố giúp ta nhận ra cảm
hứng chủ đạo của tác phẩm.
Nói về sức mạnh biểu cảm của yếu tố âm nhạc trong thơ, một nhà mĩ học
Bun-ga-ri từng nói: “Trong thơ ca, nhạc tính xuyên thấm không chỉ hình thức,
không chỉ âm thanh mà cả tư tưởng chủ đạo, và không một ai lại có thể bằng các
khái niệm logic trình bày cho hết được ấn tượng của mình trước một tự thuật trữ
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
12
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
tình. Ý nghĩa, hình ảnh, tâm trạng…chỉ trở thành năng sản đối với thơ ca khi chúng
có màu sắc nhạc tính”.
1.1.2. Chất thơ trong thơ mang dáng dấp tượng trưng, siêu thực
Chủ nghĩa tượng trưng (Tiếng Pháp : le symbolism) ra đời ngay từ thời kì cuối
thế kỉ XIX với những tên tuổi lớn như Bô-đơ-le, Vec-len, Rim-bô, Ma-lac-me…
Các nhà tượng trưng nhấn mạnh: Mọi nghệ thuật đều mang tính tượng trưng và
nhấn mạnh cái tượng trưng bao giờ cũng gắn với cái kinh nghiệm, cái trần thế gắn
với thế giới khác bằng sự trải nghiệm cá nhân thể hiện qua chiều sâu của tâm hồn,
của nhận thức và của cái vĩnh cửu. Hình tượng trong thơ tượng trưng mang tính
chất đa nghĩa, bất định vì nó ghi lại cảm xúc của con người trong sự tồn tại của “
khu vực bí ẩn” như cách nói của Ma-lac-mê hay như cách diễn đạt của Mê-tec-linh.
Thơ tượng trưng yêu cầu thơ “trước hết phải có nhạc tính” (Vec-len). “Quan niệm
tượng trưng như là hình tượng có khả năng không chỉ biểu đạt những sự tương hợp
của các khách thể và hiện tượng mà trước hết có khả năng truyền đạt “nội dung thể
nghiệm của ý thức” (Bê-Lưi). Về cấu trúc, thơ tượng trưng hay thơ siêu thực đều
không sử dụng hình thức tuyến tính mà chuyển sang hình thức bề nổi có thể cảm
nhận bằng kĩ thuật in ấn hay hình thức âm thanh , đi vào cấu trúc không gian với
cách thức biểu hiện là không vần (non ver), và cách thức đảo lộn ngữ pháp cổ điển,
cắt rời câu chữ để tạo một trật tự mới, tạo ra loại ngôn ngữ mang màu sắc mới trên
cơ sở các ngữ căn sẵn có.
Chủ nghĩa siêu thực (tiếng Pháp: le surealisme) xuất hiện vào năm 1922,
trước hết là tiếng nói phản kháng của lịch sử. Các giá trị đạo đức và tinh thần truyền
thống đang đứng trước nguy cơ tan vỡ hoặc sụp đổ; các cá nhân mà nhậy cảm nhất
là văn nghệ sỹ bị đặt trước một thực tế trần trụi phũ phàng. Họ không còn cách nào
khác là chạy trốn vào các giấc mơ, đi tìm một hiện thực khác, cao hơn (siêu thực)
nằm ngoài, nằm bên tren cái hiện thực đang tồn tại. Chủ nghĩa siêu thực đề ra một
hệ thống quan điểm mỹ học gồm: Đề cao, chú trọng khai thác cái ngẫu hứng, cái
bất ngờ trong thế giới vô thức; Đề cao vai trò của cái hỗn độn , phi logic, phi luận lí
vì vậy các nhà siêu thực đã không ngần ngại gạt borỏ mọi quy tắc ngữ pháp, không
tuân thủ các quy tắc về cú pháp, không sử dụng các dấu chấm câu, gạt bỏ mọi
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
13
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
nguyên tắc logic của lí tính; Các nhà siêu thực chủ trương phá vỡ sự ngăn cách giữa
khách thể và chủ thể.
Nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng như đã nói ở trên là sự tương
giao, tương hợp. Baudelaire quan niệm: Vũ trụ là một thể thống nhất, trong đó tất cả
đều tương ứng với nhau. Có sự tương ứng giữa tự nhiên và cái siêu nhiên, có sự
tương ứng giữa thế giới này với thế giới đằng sau đầy bí ẩn, đặc biệt là sự tương
ứng giữa các giác quan “Mùi hương, màu sắc và âm thanh tương giao cùng nhau”,
“Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con, ngọt ngào như tiếng sáo, xanh mượt
như cỏ non” (Baudelaire - Tương ứng). Tìm ra những câu, những đoạn thể hiện sự
tương hợp này trong thơ Việt Nam không khó. Vì thực ra, thuyết tương giao giữa vũ
trụ và con người của chủ nghĩa tượng trưng lại rất gần với tư tưởng “vũ trụ vạn vật
nhất thể” trong triết lý phương Đông Đó là một sự tương giao tổng thể. Tương
giao giữa thiên nhiên, con người, thơ, hoạ và nhạc, hương, vị và cả mọi giác quan:
“Gió đi chới với trong khung trắng/ Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca”, “Nàng hé môi
ra. Bay điệu nhạc/ Mát như xuân mà ngọt tợ hương” Một sự tương giao đan xéo,
bện chặt với nhau khó lòng tách biệt, ta chỉ có thể nhận ra sự “HIỆN HÌNH” này
bằng trực giác. Còn rất nhiều bài, nhiều đoạn như thế trong thơ Bích Khê nói lên sự
ảnh hưởng của nguyên tắc mỹ học và đặc điểm của thơ tượng trưng. Văn học Việt
Nam hiện đại đã tiếp thu quan niệm mỹ học nói trên của hai trường phái thơ tượng
trưng, siêu thực chặng đường đầu vào những năm 30 của thế kỉ XX.
Chủ nghĩa tượng trưng đề cao âm nhạc trong thơ vì họ quan niệm âm nhạc là
nghệ thuật cao siêu nhất. Thật ra, ở phương Đông, truyền thống “trung thi hữu
nhạc” cũng đã xuất hiện từ lâu, song yếu tố nhạc trong thơ phương Đông truyền
thống chỉ xuất hiện bên cạnh các yếu tố khác. Còn trong thơ lãng mạn, từ yếu tố
nhạc truyền thống, các nhà thơ đã ảnh hưởng chủ nghĩa tượng trưng nên có xu
hướng biến mỗi từ trong thơ thành một bán âm của nhạc.
Một đặc điểm nổi bật của thơ tượng trưng, siêu thực là những biểu tượng đa
nghĩa được tác giả xây dựng dựa trên sự liên thông về ý nghĩa với nhau. Văn học
Việt Nam hiện đại sau năm 1975, từ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến
chống Mĩ như Thanh Thảo, Y Phương đến các cây bút trẻ sau này như Nguyễn Việt
Chiến, Vi Thuỳ Linh, Nguyễn Vĩnh Tiến… đều có ảnh hưởng ít nhiều màu sắc
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
14
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
tượng trưng. Chính lối viết này đã thu hút được người đọc bởi khả năng biểu cảm và
tính đa nghĩa của hình tượng. Điều đó lí giải tại sao ngôn ngữ thơ mang mầu sắc
tượng trưng lại chiếm một số số lượng lớn trong các thi phẩm ở giai đoạn này. Nhà
thơ Thanh Thảo là một đại diện tiêu biểu cho khuynh hướng này và cũng là nhà thơ
sử dụng khá thành công ngôn ngữ thơ tượng trưng. Những biểu tượng đã thành kinh
điển trong thế giới nghệ thuật như: áo choàng đỏ, ghi ta, vầng trăng, đáy giếng đã
được làm mới, được gia cố, trang bị thêm những ý nghĩa mới để trở thành những
biểu tượng mới lạ. thể hiện khả năng biểu đạt của ngôn ngữ thơ tượng trưng: Tây-
ban-nha áo choàng đỏ gắt (gợi hình ảnh dũng sĩ đấu bò tót của Tây Ban Nha), tiếng
ghi ta nâu (gợi sức sống của nghệ thuật luôn gắn bó với cuộc sống ), giọt nước mắt
vầng trăng (gợi sự thương cảm của nhân loại với người nghệ sĩ Lorca sau khi ông bị
sát hại…)
Lối diễn đạt khác lạ bằng những cú pháp mới gợi chất tượng trưng
Thơ Việt Nam ở những giai đoạn trước thường có những kiểu cú pháp thơ đơn giản
như: Trời xanh đây là của chúng ta/ Núi rừng đây là của chúng ta (Nguyễn Đình
Thi); Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc rét, nước làng em lo (Tố Hữu). Đặc
điểm chung của những kiểu cú pháp này là khả năng cắt nghĩa, thuyết minh, tường
minh nghĩa hàm ẩn nhằm đạt hiệu quả thẩm mĩ. Hiệu quả thẩm mĩ đó được hiểu là
sức cổ vũ, tuyên truyền nhằm kêu gọi tinh thần yêu nước, gắn kết khối đoàn kết dân
tộc.
Trong giai đoạn sau 1975, với sự xuất hiện của tinh thần tự vấn, ý thức về cái
tôi công dân hướng đến những câu hỏi nội tâm. Đó vừa là những bi kịch tâm trạng
của mỗi cá nhân, cũng là niềm trăn trở của một thời đại mới. Kéo theo nó là một cú
pháp thơ bình đẳng trong sự hô ứng, cú pháp không cần đến liên kết từ:
Giọt nước mắt vầng trăng
Long lanh trong đáy giếng
(Đàn ghi ta của Lorca - Thanh Thảo)
Đó là kiểu cú pháp gợi nhiều đáp án. Người đọc có thể lí giải theo nhiều cách
sau: nước mắt của vầng trăng, nước mắt và vầng trăng, nước mắt trong vầng trăng,
nước mắt từ vầng trăng…
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
15
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Màu sắc tượng trưng trong thơ sau 1975 tuy không một lần nữa tạo ra sự
“sốc”, hay choáng như tượng trưng của Thơ mới thuở nào nhưng cũng đủ tạo nên
hiệu ứng nghệ thuật. Người làm thơ đã thực sự chuyên tâm với chữ và tự biết làm
sang cho những con chữ của mình từ hướng đi ấy.
1.1.3. Tác động tích cực của chất thơ trong tác phẩm văn chương đến hứng thú
tiếp nhận và cảm xúc thẩm mĩ của học sinh trong quá trình dạy học
1.1.3.1. Cảm xúc thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương
Cảm xúc thẩm mĩ là cảm xúc mang tính nhân văn, là dạng xúc cảm cao cấp
chỉ có ở con người.Chúng là những rung cảm của con người trước cái đẹp.Tác
phẩm văn chương là sản phẩm tinh thần của con người.Chúng là sản phẩm nghệ
thuật độc đáo bằng ngôn từ, chúng kết tinh tư tưởng, tình cảm, cách nhìn nhận
khám phá đời sống của nhà văn. Vì thế trong tác phẩm văn chương cảm xúc thẩm
mĩ được thể hiện tập trung nhất, cô đọng, sâu sắc và mãnh liệt nhất. Và vì thế cảm
xúc thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương có khả năng tác động mạnh đến cảm xúc
thẩm mĩ của người tiếp nhận.
Tác phẩm văn chương là nơi kết tinh, hội tụ cái đẹp trong đời sống,
trong thế giới tự nhiên. Bên cạnh đó trong quá trình sáng tác nghệ thuật các nhà văn
không chỉ sáng tạo, không chỉ thể hiện tài năng, sự nhạy cảm của bản thân trong tác
phẩm mà hơn ai hết họ đem đến cho tác phẩm của mình một tâm hồn giàu cảm xúc,
một trực giác nhạy bén. Bằng những rung động và cảm xúc mãnh liệt trước cuộc
sống người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm văn chương, xây dựng hình tượng văn học,
tạo nên mỗi dòng thơ, trang viết day dứt, xúc động lòng người. Điều ấy tạo nên sự
lôi cuốn hấp dẫn cho tác phẩm, khiến cho tác phẩm văn chương nhanh chóng có
được tiếng nói đồng cảm, đồng tình, đồng điệu với người đọc. Nếu nhà văn có tư
tưởng mới lạ,có cánh khám phá đời sống tinh tế, sâu sắc nhưng tác phẩm ấy không
được viết bằng cảm xúc chân thành mãnh liệt của người nghệ sĩ thì tác phẩm ấy sẽ
thật khô khan, nhạt nhẽo khó đến được với đông đảo người tiếp nhận, khó lay động
được những cảm xúc sâu sa trong lòng người đọc.
Chính vì thế tác phẩm văn chương có thể khơi dậy ở người đọc những cảm
xúc xã hội tích cực, thỏa mãn ở người đọc cái nhu cầu nếm trải sự sống. Chúng có
khả năng tác động, khơi gợi cảm xúc thẩm mĩ ở con người. Tác phẩm văn chương
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
16
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
không chỉ phản ánh cái đẹp trong tự nhiên, trong đời sống theo một quy tắc nhất
định mà chúng còn sáng tạo ra cái đẹp mới. Bên cạnh việc thõa mãn nhu cầu về cái
đẹp, tác phẩm văn học còn là trường học của những năng lực sáng tạo thẩm mĩ, là
nơi bồi dưỡng cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ của con người. Trong quá trình rèn luyện
và sáng tạo nghệ thuật thị giác và thính giác cùng các giác quan thẩm mĩ của con
người ngày càng tinh tế nhạy bén. Các năng lực quan sát, cảm nhận, khái quát ngày
càng phát triển. Tác phẩm văn học cũng như nghệ thuật nói chung là nơi nuôi
dưỡng cảm xúc thẩm mĩ của con người, nơi giữ gìn và phát triển chất nghệ sĩ vốn
có trong tâm hồn, khơi dậy và tiếp sức cho những rung động về cái đẹp, nơi giữ cho
tâm hồn con người không chai sạn đi mà luôn mới mẻ, nhạy cảm với cái đẹp. Do đó
mà cũng không bao giờ nguội lạnh, thờ ơ với số phận con người, luôn căm phẫn,
đau đớn, xót xa vì cái xấu cái ác, tha thiết yêu thương hướng về cái tốt cái đẹp. Tác
phẩm văn học chân chính trong khi bồi đắp cảm xúc thẩm mĩ của con người thêm
phong phú, đồng thời cũng làm cho nó trở lên lành mạnh và cao đẹp. Nó có khả
năng cải tao, nâng cao lí tưởng thẩm mĩ và thị hiếu thẩm mĩ cho con người. Tác
phẩm văn chương có khả năng trực tiếp tiến hành giáo dục thẩm mĩ cho HS trong
quá trình dạy học.
Cái đẹp trong tác phẩm văn chương là một khách thể thẩm mĩ hoàn hảo, cảm
xúc thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương mãnh liệt, sâu sắc vì thế tác phẩm văn
chương có thể thỏa mãn nhu cầu thẫm mĩ, phát triển cảm xúc thẩm mĩ, nâng cao
năng lực thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ cho con người.
1.1.3.2. Tác động tích cực của chất thơ trong tác phẩm văn chương đến hứng thú
tiếp nhận và cảm xúc thẩm mĩ của học sinh trong quá trình dạy học
Ngày nay trong khoa học nghiên cứu về giáo dục học, tâm lí học, lí luận văn
học hiện đại chúng ta đề cập đến khái niệm: hứng thú, cảm xúc thẩm mĩ, năng lực
văn thực chất là nhu cầu đồng cảm trong văn chương giữa người sáng tác với
người đọc, giữa người dạy văn với học sinh. Đây là một đòi hỏi da diết, mạnh mẽ
và sâu sắc , chẳng thế mà Nguyễn Du từng phải thốt lên: “ Bất tri tam bách dư niên
hậu.Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Trong dạy học văn vấn đề đồ ng cảm, hay
cộng hưởng cảm xúc có hay không là dấu hiệu của khả năng xóa bỏ được ngăn cách
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
17
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
trong cảm thụ. Đặt ra vấn đề về nhận thức một giờ dạy văn, tác phẩm văn chương
không phải là một thông tin thẩm mỹ, tình cảm mà chỉ còn là một vấn đề về lịch sử,
chính trị, luân lí, đạo đức, giờ văn chỉ tác động đến lí trí mà không lay động đến tâm
hồn, không rung động học sinh. Trong giờ văn HS lạnh lùng thờ ơ với số phận các
nhân vật, xa lạ với những rung động của nhà văn trước những số phận, trước những
cuộc đời con người. Vô hình chung giờ văn trở thành gánh nặng đối với tâm lí của
người học. Sức mạnh của văn học bị tước bỏ một cách vô ý thức từ năm học này
đến năm học khác, từ thầy cô này đến thầy cô khác. Và dĩ nhiên, học văn không còn
là một niềm say mê, hứng thú đối với học sinh. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để văn
chương trong nhà trường trở về đúng vị trí của nó là một bộ một khoa học xã hội và
nhân văn, một môn học về nghệ thuật ngôn từ.
Hứng thú tiếp nhận và cảm xúc thẩm mĩ mà chất thơ trong tác phẩm văn học
mang lại cho HS tập trung thể hiện ở hứng thú nhận thức, hứng thú đánh giá và
hứng thú thưởng thức cái đẹp mà văn chương mang lại cho tâm hồn các em. Điều
đó thể hiện ở sự rung động của các em trước vẻ đẹp của tác phẩm văn học, các em
nhận ra và biết rung động với vẻ đẹp của những bức tranh thiên nhiên, rung động
trước những số phận con người, những câu chuyện giàu tính nhân văn … Theo
thống kê phần lớn HS trong các lớp học không chuyên, các em có thể dễ dàng phát
hiện ra cái đẹp trong nghệ thuật, các em cảm thấy rung động trước những kiếp
người đau khổ, rung cảm trước những bản nhạc trữ tình, những bức tranh muôn
màu về thiên nhiên và cuộc sống con người. Nhìn một ngôi nhà đẹp, một hành vi,
cử chỉ đẹp tâm hồn các em bỗng tràn đầy cảm xúc thẩm mĩ. Nhìn chung, các em
thường rung động, xúc cảm trước những vẻ đẹp ấn tượng, độc đáo tác động trực
tiếp vào thị giác, thính giác. Tuy nhiên, có nhiều HS không dễ phát hiện ra cái đẹp
trong nghệ thuật, các em có thể nhận ra nó hay, nó đẹp nhưng không dễ tự phân
tích, chỉ ra cụ thể cái hay,cái đẹp tinh tế tiềm ẩn trong nghệ thuật đặc biệt trong một
tác phẩm văn chương. Bên cạnh đó,có những em rất nhậy cảm, rất tinh tế, hay xúc
động trước những tác động của cái đẹp trong nghệ thuật và tác phẩm văn chương.
Các em có thể đọc một câu chuyện hay sau đó kể lại và nói về những cái hay, cái
đẹp trong tác phẩm khiến hứng thú của bản thân lan truyền cảm xúc sang người đối
thoại. Biểu hiện về sự rung cảm nghệ thuật, hứng thú của HS trước các tác phẩm
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
18
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
văn chương rất khác nhau. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bởi tâm lí học chỉ
ra rằng nếu có khách thể thẩm mĩ tác động nhưng chủ thể thẩm mĩ không có năng
lực cảm thụ tiếp nhận các kích thích đó như năng lực của các giác quan thẩm mĩ,
vốn văn hóa chung, văn hóa thẩm mĩ, vốn kinh nghiệm sống, trình độ học vấn thì
cũng không thể có hứng thú và xúc động thẩm mĩ.
Tác động tích cực của chất thơ trong tác phẩm văn chương đến hứng thú tiếp
nhận và cảm xúc thẩm mĩ của HS được thể hiện trước hết qua lớp vỏ âm thanh của
ngôn ngữ. Vì tác phẩm văn chương vẫn được hiểu như là một hệ thống cấu tạo
nhiều tầng lớp. Con đường tiếp cận và tiếp nhận tác phẩm bao giờ cũng là một quá
trình đi từ những kí hiệu ngôn ngữ, từ lớp âm thanh - nhịp điệu, từ vựng- ngữ nghĩa,
đề tài, chủ đề và tư tưởng cảm xúc. Nói như Hemingway: tảng băng có phần nổi
bên trên và phần chìm xuống dưới. Dạy văn không thể chỉ dừng lại ở chỗ “độc
diễn” mà cần có sự “cộng hưởng cảm xúc” biến tác phẩm văn chương từ chỗ là một
đối tượng thẩm mĩ trở thành một nguồn sống khơi động quá trình chuyển biến và
chuyển hóa tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của HS. Sức hấp dẫn của một giờ văn nói
chung và giờ dạy thơ trữ tình nói riêng ở chỗ người GV cần làm bật lên “chất thơ’
trong tâm hồn của người nghệ sĩ được thể hiện qua tác phẩm văn chương. Chất thơ
trong tác phẩm văn học chính là cái đẹp của nghệ thuật “chứa đựng trong hệ thống
ngôn ngữ, hệ thống kí hiệu”. Do đó, cảm xúc thẩm mĩ mà chất thơ mang lại cho học
sinh trước hết thông qua kĩ năng đọc văn bản. Tại sao khẳng định như vậy vì văn
hóa đọc là hoạt động gắn với công dân, với xã hội, gắn bó với thói quen, tập tục,
phông tri thức văn hóa trong cảm nhận trong giao tiếp của mỗi người và toàn xã hội.
Kĩ năng đọc của HS liên quan đến đọc đúng vần, đúng ngữ điệu rồi đến giai điệu
hay giọng điệu của từng đoạn và của cả văn bản là tiền đề cho việc cảm nhận cái
hay, cái đẹp của hình tượng trong tác phẩm văn học. Phương pháp đọc sáng tạo
được sử dụng hầu như thường trực trong tiết dạy học ngay từ khi vào bài đến lúc kết
thúc tiết dạy. Trung tâm của phương pháp đọc sáng tạo là đọc diễn cảm, là đọc để
diễn tả sự cảm thụ chứ không chỉ dừng lại ở mức thể hiện cảm xúc, mà có cả sự
hiểu biết của người đọc, sự tri âm với tác giả. ….đọc diễn cảm thực chất là sự cộng
hưởng giữa tâm hồn và cảm xúc, hiểu biết của người đọc với tác phẩm thông qua hệ
thống kí hiệu nghệ thuật ở văn bản. Điều đó cho thấy chất thơ của tác phẩm văn
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
19
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
học được gợi lên ngay từ những con chữ tưởng như vô hình, nó kích thích sự tưởng
tượng của HS về hình tượng văn học qua kênh thính giác, khơi dậy năng lực văn
chương ở người dạy và người học. Hiệu quả cảm thụ chỉ có được khi khoảng cách
giữa nhà văn, người dạy và người học được xóa bỏ dần. Hay nói một cách khác, đọc
thành công trong một giờ dạy văn sẽ là con đường rút ngắn khoảng cách giữa tác
giả và học sinh.
Chất thơ trong tác phẩm văn học còn mang đến cho HS có cơ hội được nâng
cao sự trải nghiệm của bản thân. Có thể lấy ra đây một ví dụ về sự trải nghiệm của
HS khi đọc khổ thơ đầu bài thơ Đây thôn Vĩ Giạ của Hàn Mặc Tử. Trong khổ thơ
trên “anh” là đối tượng được nói tới xét trên bề mặt văn bản, vậy chủ thể trữ tình
phải là em. Nhưng thực chất xúc cảm trên là của tác giả, nhà thơ mượn cô gái để
bày tỏ cảm xúc của mình. Đây là hình thức chuyển cảm xúc của chủ thể cho khách
thể. Cách bày tỏ cảm xúc của tác giả cũng thật tế nhị và đằm thắm: mở đầu bài thơ
là một câu hỏi giản dị như một lời nói thường “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”,
biết bao nhiêu sắc thái biểu cảm trong câu nói thường ấy
Một lời mời chào?
Một lời trách móc?
Một nỗi nhớ mong?
Một câu hỏi?
Một khát khao, ao ước, chờ đợi?
Thôn Vĩ có gì khiến nhà thơ có nhiều nỗi niềm đến vậy? Có một từ “ai”
phiếm chỉ thấp thoáng sau bức tranh thiên nhiên kia đã làm cho ánh nắng, sắc trời
của thôn Vĩ trở nên trong xanh, huyền diệu…và đại từ phiếm chỉ ‘ai” theo suốt hành
trình của bài thơ khiến cho cảnh, người thôn Vĩ vốn đã đẹp lung linh, lại thêm
huyền hoặc, bí ẩn. Trong đó đẹp nhất, lắng đọng nhất là tình yêu của chủ thể, là tác
giả. Một tình yêu đơn phương với người con gái xứ Huế cùng với tấm bưu ảnh mà
nàng gửi cho nhà thơ là nguồn cảm hứng và thi tứ cho bài thơ này. Đọc có vang lên
được cái giọng điệu tha thiết mà diết gióng ấy mới cảm hiểu được cõi thơ, cõi tình
trong thơ Hàn. Cái đẹp trong khổ thơ đầu của thi phẩm ở sự hòa quyện giữa cái đẹp
khách thể là khu vườn thôn Vĩ với cái đẹp trong những rung cảm nghệ thuật tinh tế
của nhà thơ. Điều đó, dẫn dắt học sinh nhập định vào thế giới đặc biệt của thơ Hàn
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
20
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Mặc Tử, hồn thơ của một con người trẻ tuổi, tình yêu cuộc sống đang dào dạt, trào
dâng… và sự giày vò, giằng xé của bệnh tật trong đớn đau, quằn quại. Học sinh
được rung cảm trước cái đẹp của cuộc đời, được chia sẻ niềm yêu sống của thi
nhân, và cũng được xót xa nỗi đau của con người.
Chất thơ, sức mạnh của văn học nằm chính ở những điều đó. Nhiệm vụ của
người dạy văn là khơi gợi, đánh thức hứng thú và những cảm xúc thẩm mĩ của HS.
Bên cạnh việc thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp, tác phẩm văn học còn là trường học của
những năng lực sáng tạo thẩm mĩ, là nơi bồi dưỡng cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ của
con người. Trong quá trình rèn luyện và sáng tạo nghệ thuật thị giác và thính giác
cùng các giác quan thẩm mĩ của con người ngày càng tinh tế nhạy bén. Các năng
lực quan sát, cảm nhận, khái quát ngày càng phát triển. Tác phẩm văn học cũng như
nghệ thuật nói chung là nơi nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ của con người, nơi giữ
gìn và phát triển chất nghệ sĩ vốn có trong tâm hồn, khơi dậy và tiếp xúc cho những
rung động về cái đẹp, nơi giữ cho tâm hồn con người không chai sạn đi mà luôn
mới mẻ, nhạy cảm với cái đẹp.
1.2. Đánh giá thực trạng dạy học bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” ở trường
THPT chương trình sách giáo khoa ngữ văn (Ban cơ bản)
Bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca” được lựa chọn và đưa vào chương trình ngữ văn
12 từ năm 2008 đến nay đã được 6 năm nhưng vẫm là một thi phẩm khó gây nhiều
tranh luận trong giới chuyên môn, thu hút được sự quan tâm của GV và HS. Có thể
khẳng định với lối thơ tượng trưng, siêu thực “Đàn ghi ta của Lorca” dường như khá
mới mẻ so với dòng thơ lãng mạn, hiện thực và cách mạng vốn quen thuộc với HS ở
bậc THPT. Do đó để cảm hiểu được vẻ đẹp của thi phẩm này cũng đòi hỏi tư duy thơ
sáng tạo và mới mẻ hơn. Nhưng trên thực tế phần lớn GV chưa thật sự đào sâu và
khám phá hết nét mới lạ và độc đáo của tác phẩm nên thực trạng dạy học bài thơ theo
hướng khái thác chất thơ của tác phẩm chưa thật sự đạt kết quả tốt. Theo chúng tôi, có
một số lí do sau dẫn đến khó tiếp nhận bài thơ trong quá trình dạy học.
1.2.1. Về thể loại thơ
Thanh Thảo viết về con người và nghệ thuật của Lorca bằng một loại hình
thơ không dễ nắm bắt và ít được làm quen trong chương trình phổ thông- loại hình
thơ tượng trưng, siêu thực. Phần lớn lấy chất liệu trong thơ Lorca để xây dựng biểu
tượng. Quy luật tồn tại liên văn bản của tác phẩm văn học (đặc biệt ở thi phẩm này)
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
21
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Thanh Thảo đòi hỏi người đọc thơ phải đi tìm và giải mã cuộc đời và sáng tác của
Lorca, có được vốn liếng tri thức cơ bản về con người và sáng tác của Lorca, rồi
mới có cơ sở tiến tới giải mã nghệ thuật bài thơ của Thanh Thảo.
Quy luật tiếp nhận văn học gắn với loại hình, loại thể đòi hỏi người đọc phải
có hiểu biết về loại hình thơ tượng trưng, kinh nghiệm đọc thơ tượng trưng mới
mong thâm nhập được vào thế giới nghệ thuật của bài thơ.
1.2.2. Về phía giáo viên
Xuất phát từ bản thân là một GV dạy ngữ văn và của đồng nghiệp khi tìm
hiểu và nghiên cứu thiết kế giáo án bài thơ này, chúng tôi đều phải đối diện với
những khó khăn: Những hiểu biết hạn chế về chủ nghĩa tượng trưng siêu thực trong
thơ, hiểu biết hạn chế về Lorca và thế giới nghệ thuật cũng như những cách tân sáng
tạo trong thơ ông. Phần lớn những tiết giảng bài thơ này mà tôi trực tiếp dự giảng
đều khai thác vẻ đẹp bài thơ theo hướng cắt ngang theo kết cấu tác phẩm để từ đó
làm bật lên hình tượng Lorca. Một số giáo viên đã dạy bài thơ này như dạy một tác
phẩm truyện vì mải mê hướng dẫn học sinh tìm hiểu vẻ đẹp của hình tượng Lorca
mà quên mất đây là bài thơ của Thanh Thảo, là tấc lòng tri âm, tiếng nói cảm thông
sâu sắc, sự đánh giá cao của Thanh Thảo với Lorca. Có giáo viên lại “tung hỏa mù”
theo kiểu lại đưa ra hàng loạt các ý kiến, cách hiểu khác nhau mà không hề hướng
cho học sinh.
Nhưng thực tế, nét độc đáo trong thi phẩm này là sự đan cài và nhiều khi là
song trùng 3 hình tượng: Cây đàn ghi ta, hình tượng Lorca và hình tượng cái tôi nội
cảm của nhà thơ. Vẻ đẹp của những hình tượng ấy được thể hiện qua ngôn ngữ và
hình ảnh giàu chất thơ, chất nhạc. Điều đó cho thấy thực trạng dạy học bài thơ Đàn
ghi ta của Lorca trong trường THPT hiện nay tuy đã hướng HS hiểu đúng bài thơ
nhưng chưa thấy được chất thơ trong hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật- vốn là vẻ
đẹp không thể thiếu trong một tác phẩm văn chương.
1.2.3. Về phía học sinh
Khi học bài thơ này nhiều em cảm thấy xa lạ và khó hiểu. Không có nhiều HS
hiểu cặn kẽ về giá trị của bài thơ (thường chỉ nắm bắt được tinh thần chung, đại khái
nhất là những hình ảnh tượng trưng, siêu thực, những câu thơ có nhiều chỗ “cong” thì
chưa hiểu đúng hoặc suy luận vô căn cứ. Có thể nói đây là điều có thể lí giải được vì
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
22
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
thực tế HS không có nhiều tài liệu liên quan đến Thanh Thảo, Lorca và thơ ông nên
nhận thức của các em rất thụ động. phần lớn những tri thức các em có được đều do GV
cung cấp và hướng dẫn nên các em thiếu không gian để tìm hiểu. Vì vậy thờ ơ và xa lạ
là điều dễ hiểu. nhưng có một thực tế khác mà chúng ta phải quan tâm là sau khi học
xong bài thơ, GV yêu cầu các em làm bài tập liên quan đến các vấn đề trong tác phẩm
như: Phân tích hình tượng đàn ghi ta và Lorca. HS cảm thấy rất lúng túng và thông
thường các em sẽ phân tích hai hình tượng này tách bạch. Do đó khi đọc bài làm của
HS, tôi có cảm giác hụt hẫng và mất đi tất cả cái hay, cái “dư ba” mà tác phẩm này
mang lại cho người đọc đó là sự ám ảnh khôn nguôi về người nghệ sĩ đã gửi linh hồn
vào cây đàn ghi ta- cây đàn chính là sinh mệnh của Lorca.
Điều đó, chỉ ra cho người dạy tác phẩm này cần phải định hướng về sự tiếp
cận văn hóa của bài thơ. Nên chăng chúng ta cần quay trở về cái gốc của văn
chương muôn thủa chính là chất thơ trong tác phẩm văn học. Chỉ có khai thác chất
thơ như một nội dung văn hóa thẩm mĩ của văn bản mới là con đường gần nhất đưa
người đọc tiệm cận với tâm hồn thi nhân và vẻ đẹp của “Đàn ghi ta của Lorca”.
CHƯƠNG 2
CÁCH THỨC VẬN DỤNG CHẤT THƠ TRONG
“ĐÀN GHI TA CỦA LORCA” VÀO DẠY HỌC BÀI THƠ
2.1. Biểủ hiện của chất thơ trong Đàn ghi ta của Lorca
Đàn ghi ta của Lorca là một bài thơ hay, khó, mới mẻ, vẫn đang là một thách
thức với cả người học và người dạy. Đi tìm chất thơ của thi phẩm là công việc cần
thiết để phát hiện và cảm nhận được nguồn cảm hứng thẩm mĩ thi ca của một nhà
thơ tài hoa về một người nghệ sĩ bậc thầy. Chất thơ trong Đàn ghi ta của Lorca cũng
là chiếc chìa khóa giúp người dạy và người học bài thơ này mở ra cánh cửa bí mật
đến gần hơn với đời sống riêng “vạm vỡ” và “tươi xanh” của tác phẩm trên thi đàn
thơ hiện đại Việt Nam.
2.2. Một thế giới hình tượng, hình ảnh đa sắc màu văn hóa trong tư duy thơ của
Thanh Thảo
Đàn ghi ta của Lorca – một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo,
một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một suy nghiệm
thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
23
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
cho cái đẹp. Lor ca là một nhà thơ nổi tiếng, ông còn là tiếng nói, là niềm vui nỗi
buồn của đất nước mình. Nhờ những vần thơ tài hoa của ông mang đậm chất dân
gian, mà người ta nghe thấy tiếng hoàng hôn than khóc ánh bình minh, tiếng đôi
thằn lằn thì thầm bên tảng đá ven sông, tiếng cát lạo sạo dưới chân cặp người yêu
bên nhau. Cũng nhờ tiếng thơ của ông, đất nước TBN hiện lên với chiều dài lịch sử
với những sắc màu độc đáo nồng nhiệt. Nhưng vẫn phảng phất đâu đó những nỗi
buồn. Nhân cách cao đẹp và số phận oan khốc của Lorca đã khiến Thanh Thảo
ngưỡng mộ và xúc động sâu sắc, tạo được sự đồng cảm giữa người sáng tác và
người đọc, gợi được những nét đặc trưng của văn hóa TBN, nơi nuôi dưỡng tâm
hồn của Lorca.
a. Hình tượng cây đàn trong thơ Lorca và trong bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”
Hình tượng trung tâm của tác phẩm là hình tượng đàn ghi ta và Lorca.Vì đàn
ghi ta chính là thơ Lorca, là bản mệnh của Lorca. Đọc thơ Lorca ta thương bắt gặp
hình tượng một chàng kĩ sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi rạng
ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh…Ta cũng thường ngập mình trong
phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na đa thuộc
xứ Anđa-lu-xi-a, ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo
choàng đỏ, có những cô gái Digan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những
vườn cam, những rặng ôliu xanh màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt ở đó luôn vang
vọng tiếng đàn ghi ta âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh,
tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể
bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta….) Thanh Thảo quả đã nhập thần vào
thế giới thơ Lorca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh
bồn chồn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự
trích dẫn tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quang biểu tượng
trung tâm là cây đàn mà xét theo “nguồn gốc”, vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt
trong thơ Lorca “người mê dân ca, chàng hát rong thời trung cổ” “con sơn ca xứ
An-đa-lu-xi-a”. Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo
gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải
đối với quê hương. Đến Thanh Thảo nó đã nhập vào làm một với hình tượng Lorca,
hay nói cách khác nó đã trở thành hình tượng “song trùng” với hình tượng Lorca.
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
24
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lorca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần
thơ Lorca, là linh hồn và cao hơn là cả số phận của nhà thơ vĩ đại này, cho sáng tạo
nghệ thuật.Bởi thế có một sự hòa điệu “song trùng” giữa thế giới nghệ thuật của
Lorca với thế giới nghệ thuật thơ thanh Thảo.Tác giả muốn làm sống dậy hình
tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc
sống tự do, phóng khoáng.
Những hình ảnh biểu tượng vốn có trong thơ Lorca được làm mới để chuyên
chở những cảm nhận về chính thơ Lorca và về thân phận của các nhà thơ trong thời
hoành hành của bạo lực.Có thể khẳng định có một thế giới đa sắc màu văn hóa
trong Đàn ghi ta của Lorca. Câu thơ “những tiếng đàn bọt nước” đem lại sự cảm thụ
vừa bằng thính giác, vừa bằng thị giác, mà sáng tạo các hình ảnh thị giác là điều mà
các nhà siêu thực thường quan tâm. Khác với quan niệm thông thường khi cảm
nhận thơ thường chỉ nhấn mạnh âm vận, nhạc điệu, nhạc tính với bút pháp quen
thuộc là tả và tự sự trữ tình, Thanh Thảo sử dụng các hình tượng nghệ thuật mang
tính tượng trưng và siêu thực. Tiếng đàn thì ai cũng có lần được nghe, cũng như bọt
nước được tạo ra qua các cơn mưa thì ai cũng từng thấy nhưng kết hợp lại thành
“tiếng đàn bọt nước” thì lại tạo ra một cách nhìn khác lạ.Trong cái quen thuộc hiện
ra cái xa lạ. Nếu kết nối câu thơ “những tiếng đàn bọt nước với những câu thơ khác
về tiếng đàn trong bài thơ “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” “tiếng ghi ròng ròng
máu chảy” thì tiếng đàn với những âm thanh tuôn trào sôi động không chỉ là âm
thanh mà còn là tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới
chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo , tiếng đàn cũng
có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi
tiếng đàn chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng
đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ
Lorca và là sinh quyển văn hóa, sinh quyển chính trị xã hội bao quanh cuộc đời, sự
nghiệp Lorca.
b.Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt”
Một hình ảnh mang đậm bản sắc của TBN chính là hình ảnh áo choàng đỏ.
Hình ảnh “áo choàng đỏ” nhắc nhở môn đấu bò tót, một hoạt động văn hóa khiến
TBN nổi tiếng thế giới. Nhưng đây không phải đấu trường giữa đấu sĩ với bò tót mà
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
25
Dạy học văn bản “Đàn ghi ta của Lorca” (Thanh Thảo) theo hướng khai thác chất thơ của tác phẩm
là đấu trường đặc biệt giữa khát vọng đấu tranh dân chủ của công dân Lorca với nền
chính trị độc tài của khát vọng cách tân nghệ thuật trong chàng nghệ sĩ Lorca với
nền nghệ thuật già nua. Màu áo đỏ gắt tráng lệ, bỗng biến thành bê bết đỏ, màu đỏ
đau thương đã nhốm máu thi nhân, đã hủy diệt cái đẹp. Màu đỏ gắt của tấm áo
choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Đây là hình ảnh có sự kết
hợp giữa cái thực là truyền thống đấu bò tót của Tây Ba Nha, mà theo đó các hiệp sĩ
đấu bò bao giờ cũng mặc áo choàng đỏ để chọc tức con bò hoang, để lôi nó vào
cuộc chiến. Nhưng cái khác thường là cái màu “đỏ gắt” là màu máu tươi, lại gắn với
cụm từ Tây Ban Nha ở đầu câu thì sẽ thấy tình hình chính trị với những cuộc đàn áp
khốc liệt của chính quyền độc tài ở đây về tinh thần đấu tranh quyết liệt của nhân
dân cách mạng vùng lên. Như vậy có thể hiểu, cả Tây Ban Nha đang trở thành một
đấu trường, không phải giữa người với bò mà giữa người với người, giữa dân chủ
và độc tài, giữa tự do bị bóp nghẹt và thể chế chính trị hà khắc. Cả TBN phải đổ
máu phải đổ máu để giàng lại những quyền cơ bản của con người. Cuộc đấu tranh
đó đang diễn ra từng giờ, từng phút, diễn ra hàng ngày như tính chất đơn điệu của
nền chính trị TBN.
Nhìn theo góc độ nào cũng chỉ thấy con người tự do, nhà cách tân nghệ thuật
mong manh, đơn độc đi tìm cái đẹp trong thế giới bạo tàn, trong niềm cảm thông
của nhà thơ Việt Nam- Thanh Thảo.
c. Hình ảnh“Vầng trăng”, “yên ngựa”, “cô gái Di-gan”
Ngoài ra các hình ảnh: “Vầng trăng”, “yên ngựa”, “cô gái Di-gan” cũng gợi
một không gian văn hóa đậm đà bản sắc TBN. Hình tượng Lorca nổi bật trên cái
nền văn hóa đó thật cao quý. Đó là một chàng kị sĩ lang thang đơn độc, một ca sĩ
dân gian TBN hát nghêu ngao. Bởi Lorca không chỉ đơn độc trong sáng tạo nghệ thuật,
mà còn đơn độc trong mục đích đấu tranh chân chính. Đất nước TBN với nền chính trị
độc tài, vẫn không ngừng ngêu ngao những âm thanh cùng mục đích với Lorca. Dù nỗi
bất hạnh của cuộc đời ai cũng cảm thấy nhưng tất cả như muốn ngóng chờ địa vị đó ở
Lorca. Vì thế TBN trở nên kinh hoàng khi nghe tin Lorca bị giết hại. Hình ảnh Lorca bị
điệu về bãi bắn với cây đàn, chàng đã như người mộng du.
Cùng với bầu trời đồng cỏ, dòng sông tạo một ấn tượng đau xót về hình ảnh
một con người chân chính đang chập chờn đi vào cõi chết. Chàng nghệ sĩ đi đến cái
Nguyễn Thị Thu Giang- GV trường THPT Mỹ Hào
26