Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Điều tra những cây gỗ tái sinh và các mô hình trồng cây trên núi đá vôi ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 79 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

b nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp
--------------------

Nguyễn Thị Hồng Diệp

Điều tra những cây gỗ tái sinh và các mô hình
trồng cây trên núi đá vôi ở huyện đồng văn
tỉnh hà giang nhằm bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Nội - Năm 2009


Bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp
--------------------------------

Nguyễn Thị Hồng Diệp

Điều tra những cây gỗ tái sinh và các mô hình
trồng cây trên núi đá vôi ở huyện đồng văn
tỉnh hà giang nhằm bảo vệ môi trường


và phát triển bền vững

Chuyên ngành: Quản lý tài nguyên rừng và môi trường
MÃ số: 60 62 68

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn khoa học
1. GS- TSKH. Nguyễn Nghĩa Thìn

Hà Nội - Năm 2009



1

MỞ ĐẦU

Việt Nam nằm trên bán đảo Đơng Dương, có diện tích tự nhiên
32.894.398 ha, trong đó núi đá 1.012.625 ha (chiếm gần 5,4% tổng diện tích
đất lâm nghiệp cả nước) phần lớn là núi đá vôi. (Theo số liệu thống kê tài
nguyên rừng năm 2003 của Viện Điều tra quy hoạch rừng - Bộ NN&PTNT).
Núi đá vôi phân bố rộng khắp trong 24 tỉnh và thành phố, nhưng tập trung chủ
yếu ở các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ. Các tỉnh có nhiều núi đá vơi là: Lai
Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Bình.
Từ lâu, trên núi đá vơi đã hình thành kiểu rừng đặc trưng, độc đáo với
những lồi chỉ gặp trên núi đá vơi mà không gặp ở bất kỳ nơi nào khác. Theo
sách “Thông Việt Nam, nghiên cứu hiện trạng bảo tồn 2004” nước ta hiện nay
có 33 lồi thơng được xếp vào danh sách các loài bị đe dọa tuyệt chủng cấp
thế giới và quốc gia. Trong số 33 lồi này, có 16 lồi chỉ gặp trên núi đá vơi,

trong đó 3 loài đặc hữu rất hẹp: Bách vàng (Xanthocyparis vietnamensis) phát
hiện năm 2002 tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn, thuộc huyện Quản
Bạ, tỉnh Hà Giang, chưa gặp loài này ở bất kỳ nơi nào khác trên phạm vi cả
nước cũng như thế giới; Dẻ tùng sọc nâu (Amentotaxus hatuyenensis) được
phát hiện lần đầu tiên vào năm 1996 tại Khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn,
năm 1999 đã phát hiện được lồi này ở xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang; Bách xanh đá (Calocedrus rupestris) được tìm thấy ở vùng núi
đá vơi Bắc Kạn, Hà Giang, Sơn La, Cao Bằng. Dẫn theo Nguyễn Huy Dũng
[16]. Ngồi ra cịn có các lồi cây gỗ q khác như Nghiến (Excentrodendron
tonkinense), Đinh (Markhamia stipulata), Trai (Garcinia fagraeoides), Pơ mu
(Fokienia hodginsii)… Núi đá vôi cũng là nơi tập trung nhiều lồi cây thuốc
q như Kim ngân (Lonicera japonica), hà thủ ô đỏ (Polygonum multiflorum),


2

củ bình vơi (Stephania rotunda), cốt tối bổ (Drynaria fortunei)… và nhiều
loài cây cảnh đẹp như một số loài lan hài, hoàng thảo hoa vàng… Cùng với
thực vật, nhiều loài động vật cũng gắn chặt với nơi sống là núi đá vơi, trong
đó có một số lồi linh trưởng là đặc hữu như Voọc đầu trắng (Trachypithecus
francoisi nolicephalus), Voọc mũi hếch (Rhinopithecus avunculus), Voọc
mông

trắng

(Trachypithecus

francoisi

delacouri),


Voọc



trắng

(Trachypithecus francoisi francoisi)… [16, 21].
Tài nguyên và đa dạng sinh học trên núi đá vôi là một nguồn tài nguyên
quí giá và quan trọng đã tạo nên sự phong phú, đa dạng của các loài động
thực vật cũng như các hệ sinh thái rừng ở Việt nam. Tuy vậy, hệ sinh thái núi
đá vôi được đánh giá là một trong những hệ sinh thái cực đoan, có sự cân
bằng mỏng manh, điều kiện sống rất khắc nghiệt, ln ln khơ vì khả năng
giữ nước kém. Chất dinh dưỡng và đất chỉ được giữ lại trong các hốc đá.
Năng suất sinh học của hệ sinh thái núi đá vôi thấp, tốc độ tăng trưởng của
cây trên núi đá vơi rất chậm, trữ lượng gỗ bình qn 1 hecta rừng nguyên sinh
trên núi đá vôi chỉ bằng một nửa trữ lượng gỗ bình quân của rừng nguyên sinh
trên núi đất [19]. Nhưng hệ sinh thái trên núi đá vôi lại có tính chống chịu
cao, khả năng thích nghi của các loài cũng cao hơn so với các loài trên núi
đất. Thực vật có khả năng chịu hạn, đặc biệt có bộ rễ phát triển để bám chắc
vào đá cho khỏi bị đổ và tìm kiếm chất dinh dưỡng. Vì thế hệ sinh thái rừng
này mất đi thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian mới có thể phục hồi lại được.
Hiện nay một số vùng rừng trên núi đá vôi nằm trong các khu bảo tồn đang
được bảo vệ, cịn phần lớn chưa được quản lí chặt chẽ, việc khai thác tài
nguyên rừng vẫn thường xuyên xảy ra, vì vậy công tác bảo tồn hệ sinh thái
này phải được quan tâm đúng mức.
Đồng Văn là huyện địa đầu cực bắc của tỉnh Hà Giang, nằm trong khu
vực cao nguyên đá và là một trong những huyện khó khăn trong phát triển



3

kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên những dải dải núi đá tai mèo sắc nhọn, những
khe núi sâu và hẹp, nhiều vách núi dựng đứng, tài nguyên rừng trên núi đá vôi
gắn chặt với đời sống cộng đồng dân cư nơi đây. Rừng là nguồn sinh thủy,
điều hoà nguồn nước và giữ nước; cung cấp gỗ làm nhà và đóng đồ gia dụng,
cung cấp củi đun, thức ăn chăn nuôi gia súc; cung cấp dược liệu và các lâm
sản phụ khác; đây cũng là nơi cư trú truyền đời của nhiều dân tộc anh em
(H’Mông, Pu péo, Dao, Lô lố…) từ xa xưa cho đến ngày nay. Điều đáng tiếc
là rừng đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về diện tích và giá trị kinh tế do
khai thác cạn kiệt. Nạn mất rừng làm giảm độ che phủ thực vật, dẫn đến tình
trạng thiếu nước trầm trọng nhất là vào mùa khơ, gây nhiều khó khăn cho sản
xuất và cuộc sống của người dân. Sự trơ trọc của núi đá vơi cịn làm xuất hiện
đá lăn, lũ qt khi mưa lớn, gây chết người và thiệt hại về kinh tế. Riêng trong
năm 2006, thời tiết khô hanh, nắng hạn kéo dài gây tình trạng thiếu nước sinh
hoạt, nước sản xuất; 71 ha ngô bị mất trắng; 3,5 ha lúa khơng cấy được do
khơng có nước; sản lượng lượng thực thất thu là 156,84 tấn; lốc và mưa đá
còn làm thiệt hại một số nhà dân, trường học; đá lăn làm chết 3 người và bị
thương 2 người. Nhiệm vụ bảo vệ rừng và phục hồi hệ sinh thái núi đá vơi
đang ngày càng trở nên cấp bách, địi hỏi sự quan tâm, tham gia không chỉ
của các cấp chính quyền mà của cả cộng đồng cư dân nơi đây. Từ nhận thức
trên, chúng tôi đã tiến hành đề tài: “Điều tra những cây gỗ tái sinh và các mơ
hình trồng cây trên núi đá vơi ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang nhằm bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững”.


4

Chương 1:


TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đá vôi và những ảnh hưởng tới hệ thực vật
1.1.1. Đặc điểm của đá vôi và phân loại
Đá vơi có thành phần khống vật chính là canxit, có thể do trầm tích
hóa học, tức là sự lắng đọng CaCO3, hoặc trầm tích sinh học, tức vỏ những
sinh vật chứa nhiều cacbonate chết đi rồi tích lũy lại mà thành. [25, 41].
Đá vơi thường có màu xám, trắng, đen hoặc hồng, bề mặt tương đối
mịn. Những khối lớn đá vôi được phân lớp rõ rệt phản ánh q trình trầm tích.
Vùng núi đá vơi với địa hình đặc biệt của nó, địa hình Karst, thường có những
hang động ngầm và suối nước nóng.
Thành phần của đá vôi chủ yếu là CaCO3, nếu lẫn thêm nguyên tố khác
thì có thể hình thành các loại đá mang tên khác như: Đôlômit, đá vôi chứa
silic, đá sét vôi hay túp vơi…
Ở nước ta đá vơi hình thành những dải lớn ở Cao Bằng, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Vùng Tây Bắc, Tây Nghệ An, Quảng Bình và một diện tích
nhỏ ở Hà Tiên.
Q trình phong hóa đá vơi diễn ra khá chậm chạp, tùy theo thang phân
loại mà người ta chia đất phong hóa từ đá vơi thành các loại khác nhau. Theo
Ban biên tập Bản đồ đất Việt Nam thì trên đá vơi có 3 loại đất chính: Đất đen
cabonate (thuộc nhóm VI đất đen); đất đỏ trên đá vơi (thuộc nhóm VI đất đỏ
vàng); đất mùn đỏ trên đá vơi (thuộc nhóm VIII đất mùn đỏ vàng). Tuy tầng
mỏng nhưng đất hình thành trên núi đá vơi giàu dinh dưỡng, ít chua, là mơi
trường sống của nhiều lồi gỗ quí (nghiến, trai, đinh…) và cây ăn quả nổi
tiếng (đào, lê, mận…)
1.1.2 Vai trò của canxi đối với thực vật phát triển trên núi đá vơi
Canxi là thành phần chính của đá vôi, trong đất canxi thường tồn tại


5


dưới dạng muối cacbonate (CaCO3), sulphate (CaSO4. 2H2O), phosphate,
silicate… hòa tan hay khơng tan. Sự có mặt của canxi làm cho mơi trường đất
trở nên kiềm và có cấu tượng vì thế nó hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của vi
sinh vật và hệ rễ, làm cho dinh dưỡng của các muối vô cơ khác được dễ dàng
hơn. [25]
Đối với thực vật bậc thấp, canxi có thể cần cho một nhóm này nhưng
có thể lại gây độc cho một nhóm khác. Đối với thực vật bậc cao, muối canxi
tác dụng đến sự phân bố nhóm thực vật ưa canxi. Đặc điểm này đã tạo nên
một hệ sinh thái núi đá vôi rất đặc biệt ở nước ta.
1.1.3. Các vùng sinh thái trên núi đá vôi
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về phân bố núi đá vôi theo các vùng
địa lý và tài nguyên thực vật, rừng trên núi đá vôi được phân chia thành các
vùng như sau:
1.1.3.1. Vùng Cao Bằng - Lạng Sơn
Đây là vùng có núi đá vôi tập trung lớn nhất trong cả nước. Hoạt động
xâm nhập ở vùng Đông Bắc chủ yếu tập trung vào miền này. Vùng này ở vào
vĩ độ cao của nước ta và mang dấu hiệu chuyển tiếp từ khí hậu nhiệt đới sang
á nhiệt đới. Vùng núi đá vơi Cao Bằng - Lạng Sơn gồm có 2 vùng phụ núi đá
vôi chủ yếu:
 Vùng núi đá vôi Ngân Sơn – Trùng Khánh
 Vùng núi đá vôi Bắc Sơn
Kiểu núi đá vơi trung bình và thấp, bao gồm một số cao ngun đá vơi
khối uốn nếp có q trình hoạt động Karst trên mặt và Karst ngầm. Núi đá vơi
có dạng núi sót có rất nhiều hang động, sơng ngầm. Nhiều nơi quan sát thấy
các dạng địa hình Karst với thung lũng xâm thực.
Hệ thực vật vùng này mang tính chất pha trộn của nhiều luồng thực vật
nhưng đặc trưng là luồng thực vật bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa,



6

đồng thời cũng chịu nhiều ảnh hưởng của các luồng thực vật khác. Các loài
đại diện tiêu biểu cho vùng núi đá vơi Cao Bằng - Lạng Sơn có giá trị kinh tế
và có ý nghĩa lớn về mặt khoa học như Hoàng đàn (Cupressus tonkinensis),
Thiết đinh (Markhamia stlipulata), Trai (Garcinia fagraeoides), Đinh thối
(Ferandoa brilletii), Sam kim hỉ (Pseudo tsugachinensis). Trong đó, Hồng
Đàn là lồi cây q hiếm đã được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Đây cũng là
vùng phân bố của nhiều lồi động vật q hiếm như Hươu xạ (Moschus
moschiferus), Vượn đen (Hylabates concolor). [107].
1.1.3.2. Vùng Tuyên Quang – Hà Giang
Vùng này có diện tích núi đá vơi 130.400 ha. Các loại đá vơi chiếm vai
trị chủ yếu trong việc cấu tạo nên các núi trong vùng. Núi đá vôi tạo thành
một dải không liên tục theo hướng Tây - Bắc tập trung chủ yếu ở phía Bắc và
Đông Bắc, tạo thành từng khối lớn. Độ cao vùng này lớn hơn vùng Cao Bằng
- Lạng Sơn, các dãy núi phía Bắc cao tới 1.000m. Khu vực này nằm trong
vùng sinh thái trung tâm, bao gồm hai vùng phụ chủ yếu:
 Vùng núi đá vôi Quản Bạ - Phia Phương
 Vùng cao nguyên đá vôi Bắc Hà
Hệ thực vật núi đá vơi Tun Quang – Hà Giang có tính chất pha trộn
của nhiều luồng thực vật. Hệ thực vật ở đây mang nhiều nét đặc trưng của
nhiều luồng thực vật bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa, tiêu biểu là
các loài cây thuộc họ Re (Lauraceaeee), họ đậu (Fabaceae), họ dâu tằm
(Moraceae), họ ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae). Do vị trí địa lý nên hệ thực vật
ở đây chịu ảnh hưởng của nhiều luồng thực vật Himalaya – Vân Nam – Qúy
Châu. Đại diện của các loài cây lá kim xuất hiện nhiều hơn như Hoàng đàn
(Cupressus tonkinensis), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Kim giao (Nageia
fleuryi), Thông tre (Podocarpus neriifolius)… Cùng với sự có mặt của các
lồi rụng lá thuộc họ dẻ (Fagaceae), sự có mặt của đại diện nhiều luồng thực



7

vật đã đóng góp phần nào đa dạng thành phần các lồi thực vật trên núi đá vơi
của vùng này. [107,108]
1.1.3.3. Vùng Tây Bắc – Tây Hồ Bình, Thanh Hố
Đây là một vùng tương đối rộng và kéo dài với diện tích 264.400 ha, do
vậy chịu ảnh hưởng của các chế độ khí hậu khác nhau. Trong vùng hình thành
những sơn nguyên phức tạp chủ yếu là núi và cao nguyên đá vôi, khối uốn
nếp xen kẽ đá phiến, cát kết, kéo dài thành một dải hệ từ Phong Thổ đến
Thanh Hố. Vì có sự xen kẽ nham thạch nên trong kiểu địa hình này nên ta
thấy xuất hiện cảnh quan Karst, trên núi đá vôi và cảnh quan xâm thực trên
núi đá phiến cát kết.
Vùng núi Tây Bắc – Tây Hồ Bình, Thanh Hố có các vùng phụ chủ
yếu:
 Cao ngun đá vơi Tà Phình – Sín Chải
 Cao nguyên đá vôi Sơn La
 Cao nguyên đá vôi Mộc Châu
 Vùng núi đá vơi Sơn La – Hồ Bình - Bắc Thanh Hố
 Vùng núi đá vơi Nam Thanh Hố
Thực vật vùng này có những nét riêng biệt phù hợp với các điều kiện
địa hình và khí hậu của miền, có đầy đủ các vành đai thực vật từ nhiệt đới, á
nhiệt đới đến nhiệt đới núi cao. Các loài thực vật tiêu biểu cho miền gồm các
loài cây của ngành hạt trần như Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thông pà cị
(Pinus kwangtungensis), Thơng nàng (Podocarpus neriifolius), Kim giao
(Nageia fleuryi), Thơng tre (Podocarpus neriifolius)…Các lồi cây lá rộng
đóng vai trị chủ yếu trong các thành phần cây rừng trên núi đá vơi như các
lồi của họ dẻ (Fagaceae), họ Cáng lò (Betulaceae), họ Hồ đào
(Juglandaceae)… Trong vùng cũng đã xuất hiện một số lồi đặc trưng của
vùng phía Nam lên như Chò chỉ (Shorea chinensis), Tàu nước (Vatica



8

subglabra)… Một số loài của luồng thực vật từ Tây Á sang như Săng lẻ
(Lagerstroemia callyculata), Chò nhai

(Anogeisus acuminata)… Sự phong

phú của các lồi cây lá kim đã hình thành nên nhiều vùng rừng hỗn giao cây
lá kim và cây lá rộng, nhất là ở các vùng có độ cao lớn. Đây cũng là mơi
trường sống của một số lồi động vật đặc hữu trên núi đá vôi là Voọc quần
đùi (Trachipythecus francoisii delacourii). [108].
1.1.3.4. Vùng Trường Sơn Bắc
Vùng Trường Sơn Bắc nằm trong miền núi thấp, hẹp ngang, sườn dốc,
cấu tạo kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Diện tích của vùng là
142.500 ha. Đá vơi ở đây chủ yếu tập trung ở một khu vực: Núi đá vôi Khe
Ngang- Kẻ Bàng.
Miền Trường Sơn Bắc được phân làm 4 vùng trong đó quan trọng nhất
là vùng núi đá vôi Kẻ Bàng. Núi đá vôi ở đây tập trung chủ yếu ở Kẻ Bàng và
Khe Ngang, độ cao 700-800m. Các dạng địa hình hiện tại thể hiện quá trình
Karst đang phát triển mạnh, dịng chảy bề mặt ít, sông suối ngầm phát triển.
Vùng Trường Sơn là “một cái nút” nơi gặp gỡ của hai luồng thực vật di
cư tới. Một từ Himalaya qua Vân Nam xuống và một từ Indonexia lên. Do
vậy, thực vật nói chung và các lồi thực vật trên núi đá vơi nói riêng cũng có
những nét khác biệt với các vùng khác. Thành phần thực vật chủ yếu là các họ
phân bố rộng ở rừng nhiệt đới như họ Xoan, họ Đậu, họ Mộc Lan, họ Bồ hịn,
họ Dâu tằm…. Các lồi thực vật hạt trần cũng có mặt một số lồi như Hồng
đàn giả (Dacrydium pierrei), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Kim giao (Nageia
fleuryi), Thông tre (Podocarpus neriifolius). [109].

1.1.3.5 . Vùng Đảo
Đây là vùng sinh thái tương đối đặc biệt, tuy nhiên diện tích tập trung
nhiều ở vùng Đông Bắc, chủ yếu là vùng đảo Quảng Ninh. Nú đá vôi ở đây
tập trung vào hai vùng nhỏ:


9

 Vùng đảo Hạ Long


Đảo Bái Tử Long

Các đảo đá vơi ở đây có đầy đủ những dạng địa hình của một miền
Karst ngập nước biển. Phía Đơng cũng có nhiều đảo núi đá vơi rải rác và có
một số đảo lớn như đảo Cát Bà, đảo Cái Bầu … Ngồi ra ở một số vùng khác
cũng có một số đảo núi đá vơi khơng tập trung và diện tích không lớn.
Do những nét đặc trưng riêng biệt về địa hình và khí hậu vùng đảo nên
thực vật vùng này cũng có những nét khác biệt cới các vùng khác. Tuy nhiên,
một số loài thực vật đặc trưng hạt trần vẫn có mặt như Kim giao (Nageia
fleuryi) ở đảo Cát Bà. [109].
1.2. Những quan điểm về tái sinh rừng.
Tái sinh rừng là một q trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh
thái rừng với biểu hiện đặc trưng là sự xuất hiện một thế hệ cây con của
những loài cây gỗ dưới tán rừng, rừng sau khai thác, trên đất rừng sau nương
rẫy… Vai trò của thế hệ cây con này là dần thay thế các thế hệ cây gỗ già cỗi.
Vì vậy, hiểu theo nghĩa hẹp, tái sinh rừng là quá trình phục hồi lại thành phần
cơ bản của rừng mà chủ yếu là tầng cây gỗ. Sự xuất hiện lớp cây con là nhân
tố mới làm phong phú thêm số lượng và thành phần loài trong hệ sinh thái
(thực vật, động vật, vi sinh vật…), cũng như làm thay đổi cả quá trình trao đổi

vật chất và năng lượng, do vậy tái sinh rừng có thể hiểu theo nghĩa rộng là sự
tái sinh của một hệ sinh thái rừng. [116]
Ở các vùng tự nhiên khác nhau, tái sinh rừng diễn ra theo các quy luật
khác nhau. Trong rừng mưa nhiệt đới, quá trình tái sinh diễn ra vô cùng phức
tạp. Theo Van Stennit, (1956):
Tái sinh trong rừng mưa nhiệt đới là “tái sinh phân tán, liên tục”. Khác
với rừng thuần lồi ơn đới thời kỳ tái sinh chỉ tập trung vào một mùa nhất
định, rừng mưa nhiệt đới có tổ thành lồi cây phức tạp, khác tuổi nên thời kỳ


10

tái sinh của quần thể diễn ra quanh năm. Tuy nhiên, chỉ có những cây mạ, cây
con của lồi nào chịu được bóng trong giai đoạn cịn nhỏ thì mới có khả năng
tồn tại dưới tán rừng với các tuổi khác nhau. Những cây này buộc phải trải
qua quá trình ức chế kéo dài nhiều năm do sự cạnh tranh về ánh sáng và dinh
dưỡng trước khi có cơ hội chiếm một vị trí trong tầng tán mà chúng là thành
viên chính thức khi gặp điêu kiện thuận lợi. [124]
Đặc điểm tái sinh phổ biến khác trong rừng mưa nhiệt đới là “tái sinh
vệt”. Đây là cách thức tái sinh của những lồi ưa sáng, mọc nhanh, có đời
sống ngắn, gỗ mềm, khơng có mặt trong tổ thành rừng ngun sinh nhưng
được một tác nhân nào đó mang tới. Khi trong rừng hình thành các lỗ trống do
sự gẫy đổ của các cây gỗ lớn, các loài cây này xuất hiện và trở thành loài tiên
phong chiếm giữ khoảng trống. Khi những lồi cây ưa sáng tạo ra được bóng
rợp thì những lồi cây mạ và cây con của những lồi cây gỗ lớn sống ở tầng
trên mới có điều kiện tái sinh. Đến khi vượt khỏi tán của các loài tiên phong,
những cây mọc sau sẽ khống chế ánh sáng ở tầng trên làm cho những cây tiên
phong dần tàn lụi, tạo điều kiện thuận lợi cho cây con của nhiều loài cây đã
tái sinh phát triển.
Rừng nhiệt đới Việt Nam mang những đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt

đới nói chung, nhưng phần lớn rừng thứ sinh phải chịu những tác động phức
tạp của con người nên các quy luật tái sinh đã bị xáo trộn nhiều.
Trên đất rừng sau nương rẫy, hiện tượng nảy mầm đồng thời đã tạo ra
một thế hệ rừng tiên phong thuần loại tương đối nhiều tuổi có thể gặp ở nhiều
nơi: rừng Bô đề (Styrax tonkinensis) ở vùng Phú Thọ, rừng Sau sau
(Liquidambar fomosana) ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), rừng Ràng ràng mít
(Ormosia balanse)ở Bắc Quang (Hà Giang)…
Ở rừng thứ sinh sau khai thác chọn, tán rừng bị phá vỡ nhiều, tổ thành
lồi cây tái sinh khơng chỉ có trong thành phần cây mẹ tại chỗ mà còn nhiều


11

thành phần loài cây khác do nguồn giống từ nơi khác mang đến. Do rừng thứ
sinh nước ta bị khai thác chọn nhiều lần nên phân bố cây tái sinh theo kích
thước biến động rất lớn. Trong trường hợp này khó có thể tìm thấy một quy
luật chung về phân bố cây tái sinh theo tuổi. [126]
Nghiên cứu tái sinh rừng là một vấn đề quan trọng vì nó có liên quan
đến sự biến đổi của các trạng thái thảm thực vật và su hướng diễn thế của nó.
Tuy vậy, những nghiên cứu về tái sinh rừng trên hệ sinh thái núi đá vơi cịn
rất ít.
Năm 1999, Viện điều tra quy hoạch rừng, đã tiến hành điều tra, nghiên
cứu bước đầu về tái sinh rừng trên núi đá vôi vùng Tuyên Quang – Hà Giang,
nhằm tìm hiểu các quy luật kết cấu cũng như xem xét về khả năng tái sinh và
su thế diễn thế của rừng trên núi đá vôi, tuy nhiên kết quả nghiên cứu này
chưa nhiều, mới chỉ dừng lịa ở sự phát hiện các loài tái sinh. (Dẫn theo Trần
Hữu Viên), [59].
Bùi thế Đồi (2002) đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
và tái sinh tự nhiên của quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại 3 địa
phương miền Bắc Việt Nam là: xã Đa Phúc (Hồ Bình), xã Tự Do (Cao

Bằng), xã Tân Hố (Quảng Bình) và đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm
sinh nhằm phục hồi và phát triển rừng ở 3 địa phương đó. Tuy nhiên, nghiên
cứu mới chỉ thực hiện ở một số quần xã thực vật rừng điển hình ở 3 địa
phương nói trên nên chưa bao quát hết được những đặc điểm của loại rừng
trên núi đá vôi. (Dẫn theo Trần Hữu Viên), [59].
Năm 2003, Trung tâm Đa dạng và an toàn sinh học đã điều tra khảo sát
tài nguyên rừng tại xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn. Kết quả, đã tìm
thấy ở hệ sinh thái núi đá vơi nơi đây có tới 13 lồi cây q hiếm, đó là:
Thơng đỏ Trung Quốc (Taxus chinensis), Hoàng đàn rủ (Cupressus funebris),
Dẻ tùng sọc nâu (Amentotaxus hatuyenensis), Thông tre lá ngắn (Podocarpus


12

pilgeri), Thơng 5 lá Pà Cị (Pinus kwangtungensis, Đỉnh Tùng (Cephalotaxus
manll), Thiết sam giả (Pseudo tsuga sinensis), Thiết sam núi đá (Tsuga
chinensis), Du sam núi đá (Keteleeria davidiana, Bảy lá một hoa (Paris
polyphylla), Hà Thủ ô đỏ (Fallopia multiflora), Mã hồ (Mahonia nepalensis)
và Pơ mu (Fokienia hodginsii), tiếp đó có thêm những nghiên cứu về bảo tồn
và phát triển nguồn gen quí hiếm, bảo vệ đa dạng sinh học ở Đồng Văn (Hà
Giang) .
Thực tế ở nước ta cho thấy vấn đề phục hồi và phát triển rừng vẫn phải
trông cậy vào tái sinh tự nhiên, còn tái sinh nhân tạo mới chỉ được triển khai
trên qui mô hạn chế và mang tính chất thử nghiệm. Vì vậy, cần có những
nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên và phục hồi hệ sinh thái núi đá vôi, làm
cơ sở cho phát triển bền vững rừng trên núi đá vôi.
1.3. Những nghiên cứu về trồng cây trên núi đá vôi ở Việt Nam.
Như đã nói ở trên, rừng trên núi đá vôi là một hệ sinh thái độc đáo và
giàu tiềm năng nhưng cũng rất nhạy cảm và cực đoan, nếu bị khai thác q
mức thì khó có thể phục hồi lại được. Do vậy, đã có nhiều nghiên cứu về

phục hồi rừng trên núi đá vôi được tiến hành.
Trường Đại học Lâm nghiệp (1990-1999) đã tiến hành nghiên cứu đặc
điểm sinh vật học, sinh thái học và khả năng gây trồng các loài cây: Nghiến,
Mạy sao, Trai lý, Hoàng đàn, Mắc rạc, Xoan nhừ, Mắc mật… trên núi đá vôi
ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn [7]. Kết quả nghiên cứu đã xác định được
một số đặc điểm sinh thái và đề xuất kỹ thuật gây trồng thử nghiệm các loài
cây này ở các địa phương trên. Tuy nhiên, việc áp dụng mơ hình này ở các địa
phương khác còn nhiều hạn chế khi chưa được nghiên cứu và thử nghiệm một
cách tổng hợp và hệ thống trong các điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội khác
nhau.
Trung tâm khoa học sản xuất Lâm nghiệp Tây Bắc thuộc Viện khoa


13

học Lâm nghiệp Việt Nam đã trồng thử loài cây Keo dậu trên núi đá vôi ở
Chiềng Sinh (Sơn La). Kết quả cho thấy loài cây này sinh trưởng khá tốt, mơ
hình rừng này có thể là dẫn chứng cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm phục
hồi và phát triển hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi ở vùng Tây Bắc. [8]
Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng); Vườn quốc gia Ba Bể (Bắc Kạn)
đã tiến hành trồng thử lồi cây Kim giao (Nageia fleuryi) trên núi đá vơi
nhưng vì thiếu những nghiên cứu cơ bản trước đó nên những kết quả thu được
rất hạn chế, quy mô trồng rừng đã không được mở rộng [8].
Xã Phúc Sen, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng nhân dân đã trồng cây
Mắc Rạc (Delavaya toxocarpa) trên đất rừng được giao khoán. Kết quả cho
thấy lồi cây này đóng vai trị quan trọng trong việc trả lại màu xanh cho rừng
và được người dân địa phương xem đây là loài cây lý tưởng để phủ xanh các
vùng núi đá vôi, tạo điều kiện cho các loài cây gỗ lớn bản địa phát triển, đồng
thời giải quyết nhu cầu chất đốt cho họ.
Cục Phát triển Lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nơng

thơn năm 2002 đã giới thiệu một số lồi cây lâm nghiệp trồng ở vùng núi đá
vôi như: Mắc mật (Clausena excavata), Mắc rạc (Delavaya toxocarpa), Keo
dậu

(Leucaena

leucocephala),

Gạo

(Bombax

anceps),

Xoan

nhừ

(Choerospondias axillaris), Xoan ta (Melia azedarach), Tông dù (Toona
sinensis), Sấu (Dracontomelon duperreanum), Nghiến (Excentrodendron
tonkinense), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Kim giao (Nageia fleuryi), Tràm
(Melaleuca leucadendra), đồng thời tổng kết một số mơ hình trồng rừng trên
núi đá vơi như: mơ hình trồng Mắc rạc ở Phúc Sen (Quảng Hồ, Cao Bằng);
mơ hình trồng Mắc Mật ở Khang Ninh (Ba Bể, Bắc Kạn); mơ hình trồng
Tơng dù ở huyện Bạch Thơng (Bắc Kạn); mơ hình trồng rừng hỗn lồi ở Cát
Bà (Hải Phịng).
Trần Hữu Viên và các cộng sự năm 2004 đã nghiên cứu cơ sở khoa học


14


nhằm xây dựng các giải pháp kinh tế, xã hội để quản lý rừng bền vững trên
núi đá vôi tại 3 xã điểm đại diện cho 3 vùng phân bố tập trung rừng trên núi
đá vơi, đó là: xã Tự Do (Huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng) - đại diện cho
vùng Đông Bắc; Xã Đa Phúc (huyện Yên Thuỷ, tỉnh Hồ Bình) - đại diện cho
vùng Tây Bắc; xã Tân Hố (huyện Minh Hố, tỉnh Quảng Bình) - đại diện cho
cho vùng Bắc Trung Bộ và mở rộng địa bàn nghiên cứu ra một số xã của tỉnh
Hà Giang, Lạng Sơn, Sơn La… Kết quả đã đưa ra một số mơ hình tổng hợp
bố trí theo độ cao: Sườn núi có rừng tiến hành khoanh ni, bảo vệ; sườn núi
khơng có rừng gieo hạt Mắc rạc; chân sườn trồng Luồng; chân núi trồng Lát
hoa và Lát mê hi cô. [213]
Năm 1998, Sở Khoa học công nghệ và Lâm trường Yên Minh thuộc
tỉnh Hà Giang đã trồng thử nghiệm loài cây Mắc rạc tại huyện Yên Minh (Hà
Giang), sau hơn một năm cây sinh trưởng tốt, chiều cao bình quân là 50cm, tỷ
lệ sống trên 90%, tuy nhiên cũng cần phải phát triển thêm những loài khác
như: Nghiến, Đinh, Trai lý… thì sau này rừng mới ổn định, bền vững. [8]
Nhằm tăng độ che phủ của thảm thực vật vùng núi đá vôi, những năm
gần đây công tác trồng rừng ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang đã được đẩy
mạnh. Các dự án trồng rừng (dự án PAM, 327, 661…) đều đã được tiến hành
nhưng chủ yếu là trên vùng có điều kiện đất đai thuận lợi với loài cây trồng
phổ thông là Thông 3 lá, Sa mộc. Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt
và điều kiện gây trồng hạn chế (thiếu nguồn giống, vốn, kỹ thuật…), mặt khác
trình độ dân trí và nhận thức của người dân cịn hạn chế nên hiệu quả của
trồng rừng chưa cao.


15

Chương 2:


MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu
- Xác định tập đoàn cây gỗ tái sinh trên núi đá vôi ở huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang.
- Giới thiệu một số mơ hình trồng cây kinh tế trên núi đá vôi của nhân
dân địa phương.
2.2. Đối tượng:
- Cây gỗ tái sinh trên vùng núi đá vôi ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang.
- Các mơ hình trồng cây trên núi đá vôi ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang.
2.3. Nội dung nghiên cứu
* Điều tra các loài cây gỗ tái sinh trên vùng núi đá vôi huyện Đồng Văn,
tỉnh Hà Giang.
+ Lựa chọn các khu vực tiêu biểu đại diện cho sinh cảnh vùng nghiên
cứu.
+ Thu thập mẫu vật, xác định thành phần các loài cây gỗ tái sinh.
* Tìm hiểu các mơ hình trồng cây phủ đất của người dân địa phương.
+ Phỏng vấn trực tiếp người dân địa phương về các mơ hình trồng cây
của họ.
+ Tập hợp các số liệu liên quan đến các mô hình như thời gian, hiệu
quả kinh tế, những tác động tới hệ sinh thái rừng...
+ Đánh giá tính hiệu quả của từng mơ hình trên các khía cạnh tự nhiên
và xã hội. Đánh giá khả năng mở rộng một số mơ hình thích hợp.


16


2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa
- Kế thừa các số liệu về điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, địa hình, địa
chất, thổ nhưỡng, khí hậu...), điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội của khu vực
nghiên cứu được tổng hợp từ các số liệu của địa phương và các nghiên cứu
khác.
- Kế thừa một số kết quả nghiên cứu về các lĩnh vực có liên quan của
các tác giả khác (được trình bày ở mục tài liệu tham khảo của đề tài).
2.4.2. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài này, chúng tôi tham khảo ý
kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học trong quá trình điều tra, khảo sát
thực địa cũng như khi xác định tên khoa học của các loài thực vật.
2.4.3. Phương pháp điều tra thực vật
2.4.3.1. Phương pháp thu hái và xử lý mẫu ngoài thực địa
Do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, núi đá tai mèo sắc và nhọn rất
khó khăn cho việc đi lại, do đó chúng tơi điều tra thực vật trên 4 tuyến, mỗi
tuyến dài 10 km, tuyến đi là đường mòn dân sinh, trên đường đi vừa thu thập
mẫu vật vừa xác định thành phần các loài cây gỗ tái sinh.
Thu hái mẫu theo phương pháp chung Trường Đại học Lâm nghiệp,
trường Đại học Quốc gia Hà Nội, cụ thể như sau:
+ Dụng cụ thu mẫu: Túi dứa, túi polyetylen cỡ lớn, kéo cắt cây, giấy
báo, dây buộc, nhãn, bút chì, sổ ghi chép, cồn, băng dính, máy ảnh.
+ Nguyên tắc thu mẫu:
Mỗi mẫu phải có đủ các bộ phận, nhất là cành, lá và hoa (thu được hoa,
quả thì càng tốt)
Mỗi cây thu từ 3-5 mẫu. Các mẫu thu trên cùng một cây thì ghi cùng
một số hiệu.


17


Khi thu mẫu phải ghi chép ngay những đặc điểm dễ nhận biết ngoài
thiên nhiên vào sổ ngoại nghiệp như: đặc điểm vỏ cây, kích thước cây, nhất là
các đặc điểm dễ mất sau khi khô như: màu sắc của hoa, quả, nhựa mủ, mùi
vị…, địa điểm lấy mẫu, ngày lấy mẫu. Thu và ghi chép xong thì cho vào bao
tải dứa hay túi polyetylen mang về nhà rồi mới làm mẫu.
+ Xử lý mẫu tạm thời:
Sau một ngày lấy mẫu cần đeo nhãn cho mỗi mẫu. Nhãn chỉ ghi chép
số hiệu mẫu, khi ghi phải dùng bút chì mềm hoặc bút đặc dụng để không bị
nhoè khi ngâm tẩm.
Đặt mẫu trong tờ giấy báo cỡ lớn gập 4, ép mẫu phẳng theo hình thái tự
nhiên của lồi cây đó, có lá sấp lá ngửa để quan sát dễ dàng cả 2 mặt lá mà
không phải lật mẫu. Đối với lá to chỉ lấy từng phần đại diện và các phần đó
mang cùng một số hiệu.
Mẫu được xếp thành từng chồng, dùng giấy báo bọc ngồi, bó chặt lại
rồi cho các bó mẫu vào túi polyetylen cỡ lớn. Dùng cồn đổ cho thấm ướt các
tờ báo để chuyển về nơi có điều kiện sấy khơ.
2.4.3.2. Phương pháp thu thập số liệu nội nghiệp
- Phân loại sơ bộ theo trình tự: ngành - lớp - bộ - họ - chi cho các mẫu
vật thu được.
- So mẫu và xác định tên loài dựa theo bộ mẫu tại Bảo tàng thực vật,
khoa Sinh học, trường Đại học khoa học tự nhiên và các tài liệu chuyên ngành
hiện có.
- Hệ thống phân loại thực vật được áp dụng theo tài liệu: “Vascular
Plant Families and Genera” (1992) của Brummitt.
- Hiệu chỉnh tên khoa học của các lồi theo “Thực vật chí Việt Nam”
(2002) và “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” (2002, 2003, 2005); Chỉnh
tên tác giả theo tài liệu “Authors of Plant Names” của Brummitt (1992).



18

- Bổ sung các thông tin cần thiết khác cho các loài thực vật tại khu vực
nghiên cứu từ các tài liệu khác về thực vật và tài nguyên thực vật ở Việt Nam.
- Lập bảng danh lục thực vật: các ngành được xếp theo trình tự tiến hố
Hạt trần - Hạt kín, các họ trong mỗi ngành, lớp sau đó được xếp theo trật tự
alphabet.
- Đánh giá tính đa dạng của cây tái sinh:
+ Đánh giá đa dạng về thành phần lồi cây tái sinh: Sau khi có bảng
danh lục hồn chỉnh, chúng tơi tiến hành thống kê, tính tỷ lệ phần trăm của
các taxon trong các ngành để từ đó đánh giá tính đa dạng về thành phần loài
cây gỗ tái sinh.
+ Đánh giá đa dạng nguồn tài ngun sử dụng: Cơng dụng của các lồi
thực vật chúng tôi dựa vào: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (2001);
Lâm sản ngồi gỗ Việt Nam (2007); Giáo trình Thực vật rừng (2000), bộ sách
Cây gỗ rừng Việt Nam (1971-1988)
+ Đa dạng giá trị bảo tồn: Xác định loài quí hiếm dựa vào “Sách đỏ
Việt Nam” (2007), Phần II- Thực vật; Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30
tháng 03 năm 2006 của Chính phủ “Về quản lý thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý hiếm”.
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu mơ hình trồng cây trên núi đá vơi
Để nghiên cứu các mơ hình trồng cây trên núi đá vơi, chúng tôi đã tiến
hành phỏng vấn, thu thập số liệu trực tiếp từ cán bộ lâm nghiệp và nhân dân
địa phương. Những nội dung phỏng vấn gồm các vấn đề có liên quan đến:
+ Tên mơ hình, lồi cây được sử dụng trong mơ hình, chu kỳ kinh
doanh, tình hình sinh trưởng phát triển hàng năm, tình hình sâu bệnh hại, biện
pháp kỹ thuật xây dựng mơ hình...
+ Tên tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thực hiện mơ hình
+ Những thuận lợi, khó khăn khi xây dựng mơ hình



19

+ Kinh nghiệm về kỹ thuật, kinh tế và xã hội đối với xây dựng và thực
hiện mơ hình trồng cây trên núi đá vơi.
Q trình phỏng vấn được thực hiện với tinh thần cởi mở, có chuẩn bị
danh mục và chủ đề phỏng vấn, sử dụng câu hỏi gợi ý, khơng có câu trả lời
sẵn, thời gian và địa điểm phỏng vấn khơng ấn định và có thể ở bất cứ nơi
nào. Nội dung phỏng vấn phụ thuộc vào những vấn đề mà người phỏng vấn
và người được phỏng vấn cùng quan tâm.


20

Chương 3:

ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU

3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lí:
Đồng Văn là một huyện miền núi cao, nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Giang.
Phía Bắc và phía Tây giáp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa với 52km
đường biên giới; Phía Đơng giáp huyện Mèo Vạc; Phía Nam giáp huyện Yên
Minh tỉnh Hà Giang.
Tọa độ địa lý: từ 22055’ đến 23023’ độ vĩ Bắc và 105013’ đến 105042’
độ kinh Đơng.
3.1.2. Địa hình – Địa chất – Thổ nhưỡng:
Huyện Đồng Văn là một phần của cao nguyên đá vôi, địa hình chia cắt
mạnh, phần lớn là núi đá tai mèo, có nhiều núi cao, vực sâu, (núi Lũng Táo

cao 1911m, núi Tú Sán cao 1475m). Độ cao trung bình so với mặt nước biển
là 1200m.
Do địa hình chia cắt mạnh, đồng thời q trình phong hóa từ đá vơi
trầm tích và đá phiến thạch nên đất đai của huyện Đồng Văn (Hà Giang) có
thành phần cơ giới nặng, độ phì tương đối cao. Theo kết quả điều tra phân
loại đất của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp năm 1999, tồn huyện
có 4 nhóm đất chính:
- Nhóm đất phù sa: Có tổng diện tích 206 ha, là loại đất tốt cho sản xuất
lương thực và trồng các lọai cây hàng năm khác, gồm các loại đất sau:
+ Đất phù sa chua điển hình: phân bố chủ yếu tại Thị trấn Phố Bảng,
đất có thành phần cơ giới và hàm lượng mùn ở mức trung bình.
+ Đất phù sa chua đá lẫn nông và đất phù sa chua đá lẫn sâu: phân bố
chủ yếu ở xã Phố Cáo, pH 4,52 – 4,74; hàm lượng mùn và dinh dưỡng ở mức
trung bình nhưng hàm lượng lân và kali dễ tiêu nghèo.


21

- Nhóm đất đen: Có tổng diện tích 628 ha, được hình thành ở thung
lũng đá vơi và ven chân núi đá vơi, có độ dốc thấp. Đất có độ phì cao, gồm
các loại đất sau: Đất đen cacbonat đá nông; Đất đen cacbonat đá sâu; Đất đen
cacbonat glây và Đất đen cacbonat kết von.
- Nhóm đất xám: có tổng diện tích 13.758 ha và được chia thành 2 loại
đất chính:
+ Đất xám feralit: được hình thành trên các loại đá mẹ nghèo kiềm với
diện tích 3.153 ha. Đây là một trong những loại đất tốt của huyện Đồng Văn,
thích hợp cho phát triển nông lâm nghiệp.
+ Đất xám mùn trên núi cao: là loại đất được hình thành ở độ cao trên
900m, với tổng diện tích là 10.605 ha. Đây là loại đất có độ phì cao nhưng
hạn chế việc sử dụng vì đất này nằm trên vùng có địa hình dốc, đi lại khó

khăn nên chủ yếu để phát triển rừng.
- Nhóm đất đỏ: Tổng diện tích 10.455ha, rất thích hợp cho việc phát
triển nơng lâm nghiệp nhất là cây lâu năm, cây dược liệu và cây ăn quả nhưng
cần phải chú ý đến bảo vệ rừng, bảo vệ đất, chống xói mịn.
3.1.3. Khí hậu - thuỷ văn
3.1.3.1. Khí hậu
Khí hậu ở đây bị ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố địa hình, mang tính ơn
đới. Một năm chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa
khô mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình khoảng 1600mm – 2000mm/năm, lượng nước
bốc hơi trung bình 729mm.
Nhiệt độ trung bình năm là 23,10C, tháng trung bình cao nhất của năm
là 28,30C và thấp nhất là 15,70C;
Độ ẩm trung bình năm là 84%; Tháng có độ ẩm thấp nhất là 78%, cao
nhất là 86%.


22

Mùa đơng có gió mùa Đơng Bắc xuất hiện thành từng đợt, mỗi đợt kéo
dài 3-7 ngày, gây rét đậm và rét hại. Ngồi ra cịn xuất hiện sương mù, sương
muối, thỉnh thoảng có năm gặp mưa tuyết nên ảnh hưởng không tốt đến sản
xuất nông nghiệp.
3.1.3.2. Thuỷ văn
Huyện Đồng Văn có sơng Nho Quế chảy dọc theo ranh giới phía Đơng
Bắc của huyện và một hệ thống các dịng suối lớn, nhỏ chảy qua nhưng lưu
lượng của những dòng chảy khác nhau, không ổn định theo mùa. Đặc biệt,
chỉ có 2 con suối chảy vào sơng Nho Quế là suối Tắc Tủng ở phía Nam xã
Lũng Cú và suối Séo Hồ ở phía Bắc xã Đồng Văn có nước quanh năm và lưu
lượng dòng chảy lớn vào mùa mưa nhưng cũng chỉ đủ cung cấp cho một

vùng rộng. Nguồn nước ngầm của huyện chủ yếu tập trung trong các núi đá
vơi, trữ lượng nhỏ, khai thác khó khăn. Trong những năm qua, nhân dân trên
địa bàn huyện hầu hết sử dụng nguồn nước dự trữ được mỗi khi mưa về cho
nên tình trạng thiếu nước trong một số xã thường xun xảy ra vào mùa khơ,
gây khó khăn cho đời sống của nhân dân trong vùng.
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và thực trạng lâm nghiệp
3.2.1. Dân số, dân tộc, lao động
Theo Niên giám thống kê huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, năm 2006
[21], huyện Đồng Văn có 18 xã và 1 thị trấn .
Tổng dân số của huyện là 61.034 người, với 11.625 hộ, gồm 17 dân tộc
khác nhau, trong đó dân tộc Mơng chiếm đa số với 54.073 người, chiếm
88,6%; dân tộc Kinh 1.329 người, chiếm 2,17%; dân tộc Tày 1.288 người,
chiếm 2,11%; dân tộc Hoa – Hán 1.278 người, chiếm 2,09%; còn lại là các
dân tộc Lô lô, Cờ lao, Dao, Pu péo, Giấy, Nùng và một số các dân tộc khác.
Dân cư phân bố không đều, tập trung đông ở xã Đồng Văn và Thị trấn
Phố Bảng. Nhiều bản làng nằm cheo leo trên các vách núi hay ở sâu trong


×