DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CIMMYT : Trung tâm cải tạo giống ngô và lúa mì quốc tế
CT : Công thức
CSDTL : Chỉ số diện tích lá
LAI : Chỉ số diện tích lá
NL : Nhắc lại
NSLT : Năng suất lý thuyết
NSTT : Năng suất thực thu
FAO : Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
IFPRI : Viện Nghiên cứu Chính sách lương thực thế giới
QCVN 01-56-2011 : Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Khảo nghiệm giá
trị canh tác và sử dụng của giống ngô
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC HÌNH iv
DANH MỤC CÁC HÌNH iv
MỞ ĐẦU 1
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 6
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 6
Chương 2 22
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
Sơ đồ thí nghiệm 25
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHẦN PHỤ LỤC 68
PHẦN PHỤ LỤC 68
Phụ lục 1: PHÂN TÍCH KINH TẾ 68
Phụ lục 1: PHÂN TÍCH KINH TẾ 68
Sơ bộ hạch toán kinh tế mô hình trình diễn năm 2013 68
Sơ bộ hạch toán kinh tế mô hình trình diễn năm 2013 68
Phụ lục 2: SỐ LIỆU THỜI TIẾT KHÍ HẬU 70
Phụ lục 2: SỐ LIỆU THỜI TIẾT KHÍ HẬU 70
ii
Diễn biến tình hình thời tiết, khí hậu năm 2012 tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang 70
Diễn biến tình hình thời tiết, khí hậu năm 2012 tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang 70
Phụ lục 3: ẢNH THÍ NGHIỆM 72
Phụ lục 3: ẢNH THÍ NGHIỆM 72
72
72
(trên phần mềm SAS 8.0) 74
(trên phần mềm SAS 8.0) 74
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ii
DANH MỤC CÁC HÌNH iv
DANH MỤC CÁC HÌNH iv
MỞ ĐẦU 1
MỞ ĐẦU 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 6
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 6
Chương 2 22
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
Sơ đồ thí nghiệm 25
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHẦN PHỤ LỤC 68
PHẦN PHỤ LỤC 68
Phụ lục 1: PHÂN TÍCH KINH TẾ 68
Phụ lục 1: PHÂN TÍCH KINH TẾ 68
Sơ bộ hạch toán kinh tế mô hình trình diễn năm 2013 68
Sơ bộ hạch toán kinh tế mô hình trình diễn năm 2013 68
Phụ lục 2: SỐ LIỆU THỜI TIẾT KHÍ HẬU 70
Phụ lục 2: SỐ LIỆU THỜI TIẾT KHÍ HẬU 70
iv
Diễn biến tình hình thời tiết, khí hậu năm 2012 tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang 70
Diễn biến tình hình thời tiết, khí hậu năm 2012 tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang 70
Phụ lục 3: ẢNH THÍ NGHIỆM 72
Phụ lục 3: ẢNH THÍ NGHIỆM 72
72
72
(trên phần mềm SAS 8.0) 74
(trên phần mềm SAS 8.0) 74
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây lương thực quan trọng nhất
trên toàn thế giới. Với những đặc điểm nông sinh học quý như: Tính thích
ứng rộng, chống chịu tốt với điều kiện bất thuận và sâu bệnh hại, tiềm năng
năng suất cao nên cây ngô đã nhanh chóng được gieo trồng rộng rãi, phố biến
trên các vùng lãnh thổ.
Cây ngô có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp của
nhiều quốc gia trên thế giới. Trong giai đoạn 1995-1997 sản lượng ngô làm
lương thực chiếm 17%, thức ăn cho chăn nuôi chiếm 66%, nguyên liệu cho
công nghiệp chiếm 5% và xuất khẩu chiếm > 10% (Ngô Hữu Tình, 2003)[10].
Ngô cung cấp lương thực cho 1/3 dân số thế giới, các nước như: Ấn Độ,
Philippin, Mêxico và một số nước ở Châu Phi đã dùng ngô làm lương thực
chính, có tới 90% sản lượng ngô của Ấn Độ, 66% của Philippin dùng làm
lương thực cho con người (Dương Văn Sơn và cs, 1997)[8].
Ở nước ta nhân dân nhiều vùng: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên đã
dùng ngô làm lương thực chính, từ ngô có thể chế biến thành bột ngô, bánh
ngô, xôi ngô, mèn mén (một món ăn phổ biến của đồng bào Mông) Ngoài
việc cung cấp lương thực nuôi sống con người cây ngô còn là nguồn thức ăn
chủ lực cho chăn nuôi, gần 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp của gia súc
là ngô (Ngô Hữu Tình, 2003)[10]. Ngoài ra ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua
lý tưởng cho đại gia súc như trâu, bò, dê đặc biệt là bò sữa. Tại các nước phát
triển, tỉ lệ ngô làm thức ăn cho chăn nuôi chiếm trên 70%.
Ngoài ra, ngô còn là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao: ngô
bao tử là một loại rau cao cấp. Các loại ngô siêu ngọt, ngô nếp, ngô đường
dùng làm qùa ăn tươi hoặc đóng hộp xuất khẩu. Ngô cũng là nguồn nguyên
1
liệu để sản xuất tinh bột, cồn, bánh kẹo… Người ta đã sản xuất khoảng 670
mặt hàng từ ngô để phục vụ các ngành kinh tế khác nhau.
Chính nhờ vai trò quan trọng đó của cây ngô trong nền kinh tế thế giới
mà trong những năm gần đây diện tích, năng suất và sản lượng ngô tăng lên
không ngừng. Năm 1980, diện tích trồng ngô chỉ khoảng 121,6 triệu ha với
tổng sản lượng là 376,9 triệu tấn nhưng đến năm 2010, diện tích ngô tăng lên
đáng kể đạt 161,8 triệu ha, năng suất 51,6 tạ/ha và sản lượng đạt 844,4 triệu
tấn. Đến năm 2012, diện tích ngô đã tăng lên 176,9 triệu ha, tuy nhiên năng
suất có phần giảm đôi chút (FAOSTAT, 2012)[21]. Năng suất và chất lượng
ngô có sự chuyển biến rõ rệt do ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật về
canh tác, cơ giới hoá, bảo vệ thực vật…
Đầu thế kỷ XX, thế giới biết đến ngô lai bởi đây là một thành tựu cực
kỳ quan trọng trong nông nghiệp, nhờ ứng dụng thành công ưu thế lai mà các
giống ngô lai lần lượt được ra đời, tạo ra bước nhảy vọt về năng suất và sản
lượng, góp phần cung cấp lương thực cho nhân loại trên toàn cầu. Tuy nhiên
để có giống ngô cho năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện sinh
thái của từng vùng trong giai đoạn hiện nay thì các nhà khoa học cần tập trung
nghiên cứu khả năng chống chịu của các giống ngô lai với các điều kiện bất
thuận của ngoại cảnh như chịu hạn, rét…
Ở Việt Nam ngô là cây trồng mới được nhập nội khoảng trên 300 năm
nhưng diện tích trồng ngô đã tăng lên nhanh chóng. Năm 2012 diện tích ngô
của cả nước là 1.118,2 nghìn ha, trong đó diện tích ngô lai đã chiếm khoảng
95,5%. Sản lượng ngô năm 2012 đạt 4.803.200 tấn, năng suất 42,9 tạ/ha
(FAOSTAT, 2013)[21]. So với năm 1990 khi chưa trồng ngô lai thì sản
lượng tăng gấp 7 lần, năng suất hơn 2,8 lần. Mặc dù vậy năng suất ngô
nước ta vẫn còn thấp, năm 2012 mới chỉ bằng 86,8% năng suất ngô bình
quân trên thế giới.
2
Một trong những nguyên nhân dẫn đến năng suất ngô nước ta còn thấp
là do ngô được trồng chủ yếu ở các vùng khó khăn. Các tỉnh miền núi diện
tích ngô tương đối lớn chiếm khoảng 34,8% diện tích ngô của cả nước, nhưng
lại gặp điều kiện bất thuận của yếu tố ngoại cảnh như khí hậu, thời tiết khắc
nghiệt, hạn hán, rét kéo dài, không có hệ thống thuỷ lợi, còn sử dụng các
giống cũ, lẫn tạp, thoái hoá… Vì vậy, để sản xuất ngô của Việt Nam theo kịp
các nước trong khu vực và đạt năng suất trung bình của thế giới cần phải thay
đổi cơ cấu giống và tăng cường đầu tư thâm canh. Giống là yếu tố hàng đầu
để tạo nên năng suất, chất lượng của cây trồng. Hiện nay hàng năm có rất
nhiều giống mới được chọn tạo với nhiều ưu điểm như: năng suất, chất lượng
cao, chống chịu với điều kiện bất thuận tốt. Tuy nhiên để giống mới phát triển
ra sản xuất cần đánh giá tiềm năng năng suất, tính ổn định, khả năng thích
ứng của các giống với điều kiện sinh thái, tập quán canh tác của từng vùng,
từng địa phương.
Hà Giang là một trong những tỉnh thuộc niền núi phía Đông bắc của
nước ta có diện tích tự nhiên là 6.719,56 km
2
, chủ yếu là núi cao, có độ dốc
lớn, chia cắt mạnh, nhiều khe, vực. Do đó, đất bị xói mòn, rửa trôi mạnh, tầng
đất canh tác mỏng, nghèo dinh dưỡng, đất bị chua, thường xuyên bị khô hạn.
Trong đó đất lâm nghiệp chiếm 76,6 %, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ
12,4 %. Những diện tích đất mầu mỡ, đầy đủ dinh dưỡng và chủ động tưới
tiêu đều được sử dụng gieo trồng lúa nước, cây ngô được trồng trên đất không
đủ tưới tiêu và trồng trên đất nương rẫy có điều kiện thời tiết khắc nghiệt,
trình độ khoa học còn thấp… Do đó năng suất, sản lượng ngô hàng năm của
tỉnh còn ở mức rất thấp, chưa hình thành các vùng ngô hàng hoá lớn. Năm
2012, diện tích ngô là 52,5 nghìn ha, năng suất đạt 32,1 tạ/ha, sản lượng 168,7
nghìn tấn Với diện tích trồng ngô lớn nhất vùng Đông Bắc nhưng năng suất
ngô của tỉnh bằng 74,7% so với trung bình cả nước (Tổng cục Thống kê,
3
2013)[14]. Với điều kiện tự nhiên như vậy, cây trồng cạn, đặc biệt là cây ngô
có vai trò quyết định đến đời sống của đồng bào các dân tộc vùng cao. Vì vậy,
cần phải đưa ra giải pháp tối ưu cho việc nâng cao năng suất và sản lượng ngô
ở tỉnh Hà Giang là sử dụng các giống ngô lai chịu hạn và áp dụng các biện
pháp kỹ thuật mới. Do đó, cần phải chọn tạo được những giống ngô cho năng
suất cao, có khả năng chống chịu tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng
vùng, từng khu vực. Để tìm ra được những giống ngô ưu việt nhất đưa vào
sản xuất đại trà, cần tiến hành quá trình nghiên cứu, đánh giá, loại bỏ những
giống không phù hợp, giúp cho quá trình đánh giá và chọn tạo giống đạt hiệu
quả cao nhất.
Đồng Văn là một huyện miền núi phía bắc của tỉnh Hà Giang, nằm trong
62 huyện nghèo nhất của cả nước theo chương trình 30a của Chính Phủ có
mặt bằng dân trí còn thấp, có diện tích tự nhiên lớn nhưng diện tích sản xuất
nông nghiệp thấp, diện tích đất tự nhiên toàn huyện 45.908 ha, trong đó đất
nông lâm nghiệp 21.950,17 ha trên tổng diện tích đất tự nhiên, đất dành cho
sản xuất nông nghiệp là 14.454,76 ha, trong đó diện tích trồng ngô năm 2011
là 6.672 ha ngô, lúa nước 815 ha còn lại là một số cây trồng khác. Địa hình
chia cắt, phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, hình thành
nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau, hệ thống cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư
đồng bộ nhất là hệ thống giao thông Đời sống vật chất tinh thần của nhân
dân còn hết sức khó khăn, sản xuất chủ yếu là thuần nông mang tính tự cung,
tự cấp. Bình quân lương thực đầu người năm 2011 đạt 403 kg/người/năm.
Ngô là cây lương thực chính của Huyện Đồng Văn, nhưng trong nhiều
năm qua việc phát triển của cây ngô của Huyện rất chậm, một phần do các
điều kiện tự nhiện không thuận lợi, một phần do trình độ dân trí, tập quán
canh tác, tập quán sử dụng làm lương thực chính của nhân dân Đến những
năm gần đây cùng với sự hỗ trợ của Trung ương, của Tỉnh và việc tập trung
4
làm thay đổi về nhận thức sản xuất ngô của Huyện đối với nhân dân, sản
xuất ngô huyện Đồng Văn cũng đã đạt được những kết quả tốt về cả năng
suất và sản lượng nhưng so với mặt bằng chung trong tỉnh và của cả nước
còn rất thấp.
Tuy nhiên cây ngô ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang vẫn chưa
phát huy hết tiềm năng thế mạnh của nó, năng suất và sản lượng còn ở
mức thấp, vì vậy cần phải có những lộ trình, giải pháp phù hợp hơn cho
phát triển sản xuất.
Xuất phát từ những cơ sở trên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của một số giống ngô
lai trong điều kiện vụ Xuân năm 2012 - 2013 tại Huyện Đồng Văn –
Tỉnh Hà Giang".
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác định được giống có năng suất cao, khả năng chống chịu tốt, thích
nghi với điều kiện sinh thái tại Huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang làm cơ sở
chọn giống phù hợp với vùng núi Đông bắc Việt Nam.
2.2. Yêu cầu
- Theo dõi các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của các giống ngô lai trong
điều kiện vụ Xuân năm 2012 - 2013 tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
- Nghiên cứu các đặc điểm hình thái và sinh lý của các giống thí nghiệm.
- Nghiên cứu một số đặc tính chống chịu của các giống ngô lai thí
nghiệm (chống chịu sâu bệnh, chống đổ gãy…).
- Xác định các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của các giống
ngô lai tham gia thí nghiệm.
- So sánh và sơ bộ kết luận về khả năng thích ứng của các giống. Chọn
được giống có triển vọng để khảo nghiệm sản xuất.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Trong sản xuất nông nghiệp, giống là tư liệu để duy trì và phát triển sản
xuất. Giống có vai trò hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng suất và sản
lượng cây trồng. Muốn có những giống ngô mới năng suất, chất lượng cao,
khả năng chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh cần nghiên cứu lai tạo và
chọn lọc một cách kỹ lưỡng, xác định vùng thích nghi của các giống mới
trước khi đưa vào sản xuất trên diện rộng. Vì thế các giống mới cần được
khảo nghiệm trước khi đưa ra sản xuất, để đánh giá đầy đủ, khách quan khả
năng thích nghi của giống với vùng sinh thái cũng như khả năng sinh trưởng
phát triển, khả năng chống chịu với những điều kiện bất lợi khác.
Ngày nay sản xuất ngô muốn phát triển theo hướng hàng hoá với sản
lượng cao, quy mô lớn nhằm phục vụ nhu cầu thị trường, cần phải có các biện
pháp hữu hiệu như thay thế các giống ngô cũ năng suất thấp bằng các giống
ngô mới năng suất cao, chống chịu tốt. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi sử
dụng giống có khả năng chịu hạn, chịu rét tốt, năng suất cao vừa phát huy
hiệu quả kinh tế của giống vừa góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào
các dân tộc.
Trong quá trình so sánh giống sẽ loại được các giống có những yếu
điểm về các đặc tính nông sinh học như: Thời gian sinh trưởng quá dài, cây
quá cao, chống đổ kém và dễ nhiễm sâu bệnh … Chọn lựa theo kiểu hình sẽ
loại bỏ được những đặc tính không mong muốn, tuy nhiên để có kết quả tin
cậy phải thực hiện thí nghiệm ở nhiều thời vụ.
Các kết quả nghiên cứu về thời gian sinh trưởng, đặc điểm hình thái,
khả năng chống chịu, năng suất của các giống thí nghiệm là cơ sở lựa chọn
giống phù hợp với điều kiện sinh thái của vùng.
6
1.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô trên thế giới
1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới
1.2.1.1. Tình hình sản xuất ngô trên Thế giới
Sản xuất ngô trên thế giới phát triển liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay,
đặc biệt hơn 40 năm gần đây nhờ ứng dụng rộng rãi công nghệ ưu thế lai, kỹ
thuật nông học tiên tiến và những thành tựu của các ngành khoa học khác như
công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và bảo quản, cơ khí hoá, công nghệ
tin học,…vào sản xuất.
Bảng 1.1: Tình hình sản suất ngô của một số khu vực trên thế giới
giai đoạn 2010 – 2012
Khu vực
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2010 2011 2012 2010 2011 2012 2010 2011 2012
Châu Âu 14,1 16,6 18,3 60,6 66,3 51,4 85,6 110,2 94,1
Châu Á 53,7 56,2 57,4 45,8 48.1 50,1 246,2 270,3 287,9
Châu Mỹ 63,1 64,2 67,5 71,0 68,3 62,6 447,9 438,4 422,9
Châu Phi 30,8 34,6 33,5 20,8 18,9 20,7 64,2 65,7 69,4
Thế giới 161,8 171,7 176,9 52,2 51,5 49,4 844,6 884,6 874,3
Nguồn: FAOSTAT, 2013 [21]
Ngô là cây phân bố vào loại rộng rãi nhất trên Thế giới, trải rộng hơn
90 vĩ tuyến: từ dưới 40
0
N (lục địa châu Úc, Nam châu Phi, Chi Lê,…) lên gần
đến 55
0
B (bờ biển Ban Tích, trung lưu sông Vônga,…), từ độ cao 1-2 mét đến
gần 4.000m so với mặt nước biển (Nguyễn Đức Lương và cs, 2000) [5].
Theo số liệu của CIMMYT (2002) [20] mức tăng trưởng bình quân
hàng năm của cây ngô trên toàn thế giới về mặt diện tích là 0,7%, năng suất là
2,4% và sản lượng là 3,1%.
Diện tích trồng ngô giữa các Châu lục có sự chênh lệch khá lớn trong
đó Châu Mỹ có diện tích trồng ngô lớn nhất, năm 2012 đạt 67,5 triệu ha
7
chiếm khoảng 39,0% diện tích trồng ngô toàn thế giới. Diện tích ngô ở Châu
Á chiếm 32,2% diện tích trồng ngô trên thế giới (năm 2012).
Châu Mỹ là khu vực dẫn đầu về năng suất và sản lượng ngô trên toàn
thế giới, năm 2012 năng suất đạt 71,8 tạ/ha, sản lượng đạt 447,9 triệu tấn,
chiếm 53,0% tổng sản lượng ngô toàn thế giới. Ở các nước có nền kinh tế
phát triển, có điều kiện thâm canh và sử dụng giống có ưu thế lai nên năng
suất cao, còn những nước nghèo đang phát triển do điều kiện kinh tế còn khó
khăn và đầu tư thấp, chủ yếu sử dụng giống thụ phấn tự do nên năng suất, sản
lượng thấp (FAOSTAT, 2013)[21].
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất ngô của một số nước trên thế giới năm 2012
Tên nước Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(triệu tấn
Trung Quốc 32,9 95,9 331,2
Mỹ 32,5 54,6 177,5
Brazil 12,8 43,7 56,1
Israel 0,02 283,9 0,80
Hy Lạp 0,20 117,3 2,20
Nguồn: FAOSTAT, 2012 [21]
Khu vực có năng suất thấp nhất là châu Phi đạt 20,8 tạ/ha năm 2010 và
20,7 tạ/ha năm 2012. Sở dĩ năng suất ở Châu Phi thấp là do khu vực này có
điều kiện thời tiết bất thuận như: hạn hán, lũ lụt, trình độ khoa học kỹ thuật
thấp và điều kiện kinh tế hạn chế nên không có khả năng đầu tư thâm canh.
Mỹ và Trung Quốc là hai nước có diện tích, năng suất, sản lượng ngô
lớn nhất thế giới, năm 2012 đạt 32,9 và 32,5 triệu ha. Mặc dù diện tích trồng
ngô của hai nước tương đương nhau nhưng năng suất ngô của Mỹ gần gấp đôi
năng suất của Trung Quốc, năm 2012 năng suất ngô trung bình của Mỹ là
95,9 tạ/ha, chính vì vậy sản lượng ngô của Mỹ đạt 331,2 triệu tấn trong khi đó
sản lượng ngô của Trung Quốc chỉ đạt 177,5 triệu tấn.
1.2.1.2. Tình hình sử dụng ngô lai trên thế giới
8
Ngô có vai trò rất lớn trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm, thức
ăn chăn nuôi, nguyên liệu chế biến và là mặt hàng xuất khẩu đem lại nguồn
lợi rất lớn cho các quốc gia. Với sức ép của việc gia tăng dân số (khoảng trên
7 tỉ người trên trái đất hiện nay) làm cho diện tích trồng trọt giảm vì vậy để
đảm bảo nhu cầu sử dụng ngô của xã hội cần tăng năng suất cây trồng, ngô lai
đã đáp ứng được yêu cầu này. Do đó phát triển các giống ngô lai mới có năng
suất, chất lượng cao và khả năng chống chịu tốt trong sản xuất là xu thế chung
và tất yếu của toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Bảng 1.3: Dự báo nhu cầu ngô Thế giới đến năm 2020
Vùng
Năm 2007
(triệu tấn)
Năm 2020
(triệu tấn)
% thay đổi
Thế giới 586 852 45
Các nước đang phát triển 295 508 72
Đông Á 136 252 85
Nam Á 14 19 36
Cận Sahara – Châu Phi 29 52 79
Mỹ Latinh 75 118 57
Tây và Bắc Phi 18 28 56
Nguồn: (IRRI, 2003) [22]
Theo dự báo của Viện nghiên cứu chương trình lương thực Thế giới,
năm 2020 tổng nhu cầu ngô trên thế giới là 852 triệu tấn, trong đó 15% dùng
làm lương thực, 69% dùng làm thức ăn chăn nuôi, 16% dùng làm nguyên liệu
cho công nghiệp. Ở các nước phát triển chỉ dùng 5% ngô làm lương thực
nhưng ở các nước đang phát triển tỉ lệ này là 22%. Năm 2020, nhu cầu ngô
thế giới tăng 45% so với nhu cầu năm 1997.
Nhu cầu ngô tăng cao ở các nước đang phát triển (72%), do dân số tăng,
nhu cầu sử dụng các sản phẩm của chăn nuôi như: Thịt, cá, trứng, sữa tăng
mạnh, dẫn đến đòi hỏi lượng ngô rất lớn dùng cho chăn nuôi. Thách thức lớn
nhất là nhu cầu ngô tăng lại tập trung ở các nước đang phát triển, chưa đủ khả
9
năng cung ứng nhu cầu trong khi đó chỉ khoảng 10% sản lượng ngô từ các
nước công nghiệp có thể xuất sang các nước đang phát triển (IRRI, 2003)[22].
Sản lượng ngô xuất khẩu đang có xu hướng giảm tại Mỹ, Brazin,
Achentina… Một số nước như Trung Quốc không xuất khẩu ngô vì trong
những năm gần đây khi thế giới cảnh báo nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt, thì
ngô đã và đang được chế biến ethanol thay thế một phần nhiên liệu xăng, dầu
chạy ô tô tại Mỹ, Braxin, Trung Quốc,… Năm 2002 – 2003 Mỹ đã dùng 25,2
triệu tấn ngô để chế biến ethanol, năm 2005 – 2006 dùng 40,6 triệu tấn và dự
kiến năm 2012 dùng 190,5 triệu tấn ngô (Viện Nghiên cứu ngô, 2008) [19].
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ngô trên thế giới
Trong hai thế kỷ XVI và XVII, người Châu Âu đã tiếp thu cây ngô từ
người da đỏ nhưng chưa có cơ sở đi xa hơn so với những gì mà người da đỏ
làm được. Đối với cây ngô những phát hiện khoa học quan trọng chủ yếu tập
trung vào thế kỷ XVIII.
Năm 1716, Cottin Matther là người đầu tiên nghiên cứu thí nghiệm về
giới tính của ngô. Ông đã quan sát thấy sự thụ phấn chéo ở cây ngô tại
Massachusettes.
Tám năm sau Matther, Paul Dudly đã đưa ra nhận xét về giới tính của
ngô và cho rằng gió đã giúp ngô thực hiện quá trình thụ phấn. Năm 1876,
Charles Darwin tiến hành thí nghiệm với hàng loạt cá thể giao phối và tự thụ
phấn ở nhiều loài khác nhau như đậu đỗ, ngô, ông đã quan sát thấy sự hơn
hẳn của các cây giao phấn với các cây tự thụ phấn về chiều cao, tốc độ nảy
mầm của hạt, số bắp trên cây và cả sức chống chịu với điều kiện bất thuận và
năng suất hạt.
Trong quá trình nghiên cứu về ngô, hiện tượng ưu thế lai ở cây ngô
được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm. Nhà nghiên cứu người Mỹ Bill
tiến hành nghiên cứu từ năm 1876, ông đã thu được con lai có năng suất cao
10
hơn bố mẹ từ 10-15%. Năm 1909, Shull đã đưa ra ý kiến sản xuất hạt giống
ngô lai F1 bằng lai đơn nhằm tạo ra sự đồng đều cao nhất, các dòng bố mẹ
càng thuần chủng, tạo ưu thế lai càng mạnh. Đầu năm 1917, Jones đã đề xuất
sử dụng hạt lai kép trong sản xuất để giảm giá thành hạt giống, tạo điều kiện
cho cây ngô phát triển mạnh ở Mỹ và các nước có kỹ thuật trồng ngô tiên tiến.
Năm 1966, Trung tâm cải tạo giống ngô và lúa mì Quốc tế
(CIMMYT) được thành lập tại Mêxico, nhiệm vụ của trung tâm này là nghiên
cứu đưa ra giải pháp, tạo giống ngô thụ phấn tự do làm bước chuyển tiếp giữa
ngô địa phương và ngô lai. Trong 30 năm hoạt động Trung tâm đã đóng góp
đáng kể vào việc xây dựng, phát triển và cải thiện hoạt động vốn gen, quần
thể và giống ngô cho 80 quốc gia trên thế giới.
Hiện nay diện tích trồng ngô lai trên thế giới ngày càng tăng, trong đó
các giống ngô lai đơn được sử dụng có ưu thế cao nhất, nhưng giá thành của
hạt giống cao, điều này ít nhiều cũng ảnh hưởng tới việc đẩy nhanh diện tích
trồng ngô lai. Để khắc phục tình trạng này, các nhà chọn tạo giống ngô đã tiến
hành tạo ra các giống ngô lai ba, lai kép cho năng suất hạt giống cao, giá
thành hạ, ưu thế lai cao.
Có thể nói ngô lai là một trong những thành tựu khoa học nông nghiệp
cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thế giới, nó đã làm thay đổi không những
bức tranh về ngô của quá khứ mà làm thay đổi cả quan niệm của các nhà
hoạch định chiến lược, các nhà quản lý kinh tế và với từng người dân. Ngô lai
là “ một cuộc cách mạng xanh” của nửa thế kỷ 20, ngô lai đã tạo ra bước nhảy
vọt về sản lượng lương thực, sang thế kỷ 21 cây ngô sẽ là cây lương thực đầy
triển vọng trong chiến lược sản xuất lương thực và thực phẩm.
1.3. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Vệt Nam
1.3.1. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam
11
Ở nước ta ngô là cây trồng nhập nội mới được đưa vào Việt Nam
khoảng 300 năm nhưng đã nhanh chóng trở thành một trong những cây trồng
quan trọng trong hệ thống cây lương thực. Do có khả năng thích ứng rộng nên
diện tích ngô được mở rộng nhanh chóng, cây ngô đã khẳng định vị trí trong
sản xuất nông nghiệp và trở thành là cây lương thực quan trọng thứ hai sau
cây lúa nước. Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.4
Bảng 1.4: Tình hình sản xuất ngô của Việt Nam giai đoạn 1990 – 2012
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
1990 432,0 15,5 671,0
1994 534,6 21,4 1.143,9
2000 730,2 25,1 2.005,9
2005 1.052,6 36,0 3.787,1
2006 1.033,1 37,0 3.819,4
2007 1.096,1 39,6 4.250,9
2008 1125,9 40,2 4.531,2
2009 1086,8 40,1 4.431,8
2010 1126,3 40,8 4.606,8
2011 1121,2 43,1 4.835,7
2012 1118,2 42,9 4.803,2
Nguồn: Số liệu thống kê của FAO, 2013 [21]
Những năm trước đây do chưa được chú trọng phát triển nên cây ngô
chưa phát huy được tiềm năng của nó. Từ giữa những năm 1980, nhờ sự hợp
tác với Trung tâm Cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT), nhiều giống
ngô cải tiến đã được đưa vào trồng ở nước ta, góp phần nâng năng suất lên
gần 1,5 tấn/ha vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, sản xuất ngô chủ yếu để
giải quyết lương thực tại chỗ cho người dân Việt Nam. Ngô ở nước ta thực sự
có những bước tiến nhảy vọt là từ đầu những năm 2007 đến nay, do không
ngừng mở rộng diện tích trồng giống ngô lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện
các biện pháp kỹ thuật canh tác, đầu tư thâm canh.
12
Trong giai đoạn 1990 – 2010 sản xuất ngô ở Việt Nam đã có chuyển
biến rõ rệt về diện tích, năng suất, sản lượng. Qua bảng 1.4 cho thấy năm
1990, diện tích trồng ngô ở nước ta là 432.000 ha với tỉ lệ giống lai chưa đến
1% nhưng đến nay diện tích ngô đã đạt 1.126,3 nghìn ha trong đó diện tích
trồng ngô lai đã chiếm khoảng 95%. Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên
tục với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng năng suất trung bình thế giới trong suốt
hơn 20 năm qua. Năm 1994, sản lượng ngô Việt Nam đạt 1,1 triệu tấn, đến
năm 2010 sản lượng đã đạt trên 4,6 triệu tấn. Năm 2004 năng suất ngô từ
34,62 tạ/ha đến năm 2011 đã đạt 43,1 tạ/ha. Do vậy sản lượng ngô đã tăng từ
3.430,90 nghìn tấn (2004) lên 4835,7 nghìn tấn (năm 2011). Có thể nói tốc độ
phát triển ngô lai ở Việt Nam rất nhanh so với lịch sử phát triển ngô lai thế
giới. Đây là bước tiến vượt bậc so với một số nước trong vùng, kết quả này đã
được CIMMYT và nhiều nước trên thế giới đánh giá cao. Hiện nay có nhiều
tỉnh có diện tích trồng ngô lai đạt gần 100% như: Đồng Nai, An Giang, Trà
Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Sơn La, Hà Tây (Hà Nội mở rộng ngày nay), Bắc
Ninh, Vĩnh Phúc…
Tuy diện tích, năng suất và sản lượng ngô của chúng ta tăng nhanh
nhưng so với năng suất bình quân chung của thế giới năng suất ngô nước ta
còn rất thấp, trong khi nhu cầu sử dụng ngô của Việt Nam ngày càng lớn.
Điều này đặt ra nhiệm vụ rất quan trọng và cấp thiết cho các cơ quan nghiên
cứu và chọn tạo giống là tạo ra các giống ngô có năng suất cao, chống chịu tốt
đồng thời đáp ứng cả yêu cầu về chất lượng.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu ngô ở Việt Nam
Ở Việt Nam, công tác nghiên cứu về ngô chậm hơn nhiều nước trên thế
giới vài thập kỷ. Tuy nhiên giai đoạn 1955-1970 các nhà khoa học cũng đã
bước đầu điều tra về thành phần loài và giống địa phương. Trên cơ sở đánh
13
giá các giống địa phương, đã chọn ra những giống tốt và tiến hành chọn lọc
phục vụ cho sản xuất (Cao Đắc Điểm, 1988)[2].
Từ 1971 - 1986 các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu chương trình
chọn tạo giống ngô lai và được tập trung cao độ từ năm 1990 đến nay. Bước
đầu thành công trong việc chọn tạo các giống lai không quy ước như: LS-3,
LS-5, LS-6, LS-7, LS-8…, các giống này có năng suất 3-7 tấn/ha đã được mở
rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn quốc. Tiếp đến là những thành công
trong công tác nghiên cứu giống lai quy ước, trong một thời gian ngắn các
nhà nghiên cứu ngô Việt Nam đã tạo ra hàng loạt các giống tốt cho năng suất
cao từ 7 – 10 tấn/ha như: LVN-10, LVN-4, LVN-17, LVN-25, LVN-99,
LVN-9, LVN-145, LVN-8960, LVN-14, LVN-61,…Các giống này không
thua kém các giống ngô của các Công ty nước ngoài về cả năng suất và chất
lượng, Theo ước tính, giống ngô lai do Việt Nam lai tạo hiện nay chiếm
khoảng 60% thị phần giống của cả nước.
Như vậy, chương trình chọn tạo giống ngô Việt Nam đã từng bước phát
triển từ giống lai không quy ước đến lai kép, lai ba, lai đơn cải tiến và lai đơn.
Những thành tích đó đã đưa sản xuất ngô Việt Nam đứng trong hàng ngũ các
nước tiên tiến ở Châu Á. Một loạt các giống lai do Việt Nam chọn tạo đã
được trồng ở tất cả các vùng sinh thái trong cả nước. Cùng với việc mở rộng
diện tích được trồng bằng giống lai thì các biện pháp kỹ thuật canh tác như
thời vụ, mật độ, phân bón cũng được nghiên cứu và được và áp dụng rộng rãi
trong sản xuất. Đặc biệt, công trình nghiên cứu trồng ngô trên nền đất ướt đã
làm tăng diện tích trồng ngô Việt Nam rất nhanh ở giai đoạn 1985 – 1990.
Công nghệ sinh học là một ngành khoa học mới được áp dụng ở Việt
Nam nhưng cũng đã đạt được những thành công bước đầu. Kỹ thuật nuôi cấy
bao phấn ở Viện Nghiên cứu ngô đã ngày càng hoàn thiện và đã chọn ra hơn
10 dòng đơn bội kép, bước đầu đánh giá là rất có triển vọng, đã sử dụng kỹ
14
thuật tạo dòng đơn bội kép. Đặc biệt từ năm 2002, Việt Nam đã tham gia vào
mạng lưới công nghệ sinh học vùng ngô Châu Á nhằm đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ sinh học vào tạo giống với 3 nội dung chính là: (1) phân tích đa
dạng di truyền tập đoàn nguyên liệu, phân nhóm ưu thế lai, (2) chuyển gen O-
paque 2 quy định tính trạng ngô chất lượng cao vào ngô thường, (3) xây dựng
bản đồ gen chịu hạn. Bước đầu chương trình này hoạt động có kết quả khả
quan và được AMBIONET đánh giá cao, đã tiến hành phân tích đa dạng tập
đoàn dòng của Viện ngô bằng kỹ thuật SSR.
Từ các giống ngô lai nhập nội có khả năng chịu hạn, bằng phương
pháp tự phối, Ngô Hữu Tình -2009[11], đã tạo được 8 dòng ngô thuần và
chọn được 2 dòng T6 và T8 có khả năng kết hợp chung tốt là vật liệu tạo
giống LVN99 có khả năng chịu hạn phục vụ sản xuất cho các tỉnh miền
núi phía Bắc.
Cây ngô ở Việt Nam thực sự phát triển từ năm 1995 đến nay. Các nhà
khoa học đã xây dựng quỹ gen ngô Việt Nam bằng cách thu thập các quần thể
địa phương nhưng quan tâm chủ yếu đến việc nhập các vật liệu ngô từ các
nước, các cơ quan nghiên cứu quốc tế như CIMMYT dưới dạng vốn gen,
quần thể và giống lai.
Sự phát triển ngô lai ở Việt Nam đã được CIMMYT và FAO cũng như
các nước trong khu vực đánh giá cao. Việt Nam đã đuổi kịp các nước trong
khu vực về trình độ nghiên cứu tạo giống ngô lai và đang ở giai đoạn đầu đi
vào công nghệ cao (công nghệ gen, nuôi cấy bao phấn và noãn) (Ngô Hữu
Tình, 2003)[10].
Ngô Minh Tâm đã khảo nghiệm các tổ hợp lai từ năm 2006-2009 và đã chọn
được giống LVN146 làm phong phú bộ giống ngô lai Việt Nam. LVN146 chịu
thâm canh, chịu hạn khá, năng suất 60-110 tạ/ha, thích ứng rộng.
15
Quá trình nghiên cứu sản xuất ngô Việt Nam là kết quả của sự định
hướng đúng đắn, sự chỉ đạo kiên quyết của lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Khoa học Công nghệ, đó là những kết quả của những
chính sách có tính chất đòn bẩy của Nhà nước, Trung ương và địa phương,
với sự phát huy nội lực, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại của Viện
nghiên cứu Ngô và một số Viện nghiên cứu khác phối hợp với Cục khuyến
nông, các Công ty giống cây trồng Trung ương và các tỉnh, huyện trong việc
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Những tồn tại trong việc nghiên cứu giống ngô ở Việt Nam
Nguồn vật liệu tạo giống nghèo nàn, nguồn nhập nội chủ yếu ở các nước
tiên tiến vùng ôn đới không phù hợp với điều kiện sinh thái Việt Nam nên không
ứng dụng được trực tiếp mà đòi hỏi thời gian dài và đầu tư lớn để chọn lọc.
Sản xuất ngô ở nước ta vẫn mang tính manh mún, nhỏ lẻ và phân tán,
đặc biệt là vùng núi Đông Bắc, vì vậy việc áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất
rất khó khăn.
Các nghiên cứu về kỹ thuật canh tác như khoảng cách, mật độ, phân bón,
thời vụ, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại, bảo quản sau thu hoạch chưa được
quan tâm đúng mức như với công tác chọn tạo giống, chưa đáp ứng được đòi
hởi của giống mới, vì vậy năng suất thực tế thấp hơn nhiều so với tiềm năng
của giống. Theo Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia:
LVN14 là giống ngô lai đơn do TS Phan Xuân Hào- Phó Viện trưởng Viện
nghiên cứu Ngô chọn tạo, đã được Bộ NN - PTNT cho phép sản xuất thử trên
phạm vi cả nước. LVN14 có TGST từ 110 - 115 ngày, ngắn hơn hoặc bằng
C919, chiều cao cây từ 198 - 250 cm tùy vụ, cao hơn LVN4, tương đương
C919 và thấp hơn CP888, chịu hạn tốt, chịu rét khá, chống đổ tốt. LVN14 có
chiều dài bắp khá, đường kính bắp lớn, tỷ lệ hạt/bắp khá cao, khối lượng
1.000 hạt cao (330 - 370g), màu hạt đẹp.
16
Bên cạnh đó việc nghiên cứu chưa đầy đủ về cách bảo quản chế biến ngô
sau thu hoạch trong điều kiện ở Việt Nam. Việc đưa các tiến bộ kỹ thuật vào
sản xuất gặp rất nhiều hạn chế do trình độ hiểu biết về khoa hoạc kỹ thuật của
nông dân còn thấp và không đồng đều giữa các vùng trồng ngô, mặt khác do
điều kiện kinh tế khó khăn, thiếu vốn đầu sản xuất, tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Sản xuất của các hộ nông dân còn manh múng, nhỏ lẻ, chưa có quy hoạch
tổng thể về phát triển ngô, phần lớn trông ngô ở vùng núi phía Bắc.
Định hướng trong nghiên cứu phát triển các giống ngô lai ở Việt Nam.
Để tiếp tục nghiên cứu và phát triển các giống ngô lai năng suất cao,
thích ứng rộng, chống chịu tốt với điều kiện bất lợi (đặc biệt là hạn hán, mưa
gió, lốc) để góp phần đưa diện tích ngô của cả nước đến năm 2020 đạt 1,4 -
1,5 triệu ha với năng suất bình quân 5,5 - 6,0 tấn/ha, sản lượng 8 - 9 triệu tấn
nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và tham gia xuất khẩu.
Tạo ra những giống ngô có năng suất cao, chống chịu tốt và ổn định trên
nhiều vùng sinh thái khác nhau.
Giải pháp phát triển nghiên cứu và sản xuất ngô ở Việt Nam.
Tập trung nghiên cứu, phát triển các giống ngô lai mới theo hướng năng
suất cao, chất lượng tốt, có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khô hạn, đặc
biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc.
Mở rộng mạng lưới thử nghiệm giống ở nhiều nơi điều kiện sinh thái
khác nhau nhằm xác định đúng và phát triển nhanh những giống mới phù hợp.
Cập nhật thông tin, trao đổi vật liệu, tài liệu và kinh nghiệm thông qua
hợp tác với các tổ chức trong nước và quốc tế như: Trung tâm cải tạo ngô và
lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT), mạng lưới khảo nghiệm ngô vùng Châu Á
(TAMNET), tổ chức Nông Lương thế giới (FAO), mạng lưới công nghệ sinh
17
học cây ngô ở Châu Á (AMBIONET), các Viện, trường Đại học và các cơ
quan quản lý nông nghiệp trên phạm vi cả nước.
Mở rộng mạng lưới thử nghiệm ở nhiều vùng sinh thái để rút ngắn thời
gian chọn lọc, nhanh chóng phát triển giống mới ra sản xuất.
Để sản xuất ngô Việt Nam theo kịp các nước tiên tiến và đạt năng suất
trung bình của thế giới, việc quan trọng nhất là tăng cường thu thập các nguồn
nguyên vật liệu phù hợp, kết hợp chọn tạo giống bằng các phương pháp hiện
đại với truyền thống, đẩy mạnh nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác để
phát huy tối đa tiềm năng của giống, chọn tạo giống chống chịu phục vụ cho
các vùng khó khăn.
1.3.3.Tình hình sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang
Trong những năm vừa qua, sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang đã đạt được
những kết quả nhất định được thể hiện qua biểu 1.5.
Qua bảng trên cho thấy diện tích trồng ngô của tỉnh những năm trước
đến năm 2008 biến động không lớn, năng suất và sản lượng ngô tăng cũng
không đáng kể. Từ năm 2008 đến nay cây ngô Hà Giang đã có những chuyển
biến tích cực cả về diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích ngô năm 2012
đạt lên 52.508,6 ha tăng 8,48 nghìn ha; năng suất đạt 32,1tạ/ha.
Bảng 1.5 : Sản xuất ngô của tỉnh Hà Giang giai đoạn 2005 - 2012
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2005 44,024 21,0 92,45
2006 43,269 21,0 90,86
2007 43,828 22,8 99,93
2008 46,138 24,3 112,12
2009 46,758 26,0 121,57
2010 47,559 28,7 136,49
18
2011 49,187 30,3 149,04
2012 52,508 32,1 168,55
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Hà Giang, 2013[3]
Sản lượng tăng từ 92,45 nghìn tấn, năm 2005 lên 168,55 nghìn tấn vào
năm 2012, tăng 76,1 nghìn tấn so với năm 2005. Tuy nhiên năng suất ngô vẫn
thấp so với năng suất ngô của cả nước, năng suất ngô hiện tại của tỉnh Hà
Giang chỉ bằng 2/3 năng suất ngô trung bình của cả nước. Sản lượng ngô năm
2012 đạt 168,55 nghìn tấn. Có được những kết quả trên là nhờ Hà Giang đã
có nhiều cơ chế, chính sách và chỉ đạo phát triển phù hợp
Ngoài việc thâm canh ngô lai ở những vùng thuận lợi, cần tăng cường
sử dụng các giống ngô thụ phấn tự do cải tiến ở những vùng khó khăn, nhằm
tăng năng suất, sản lượng và chất lượng ngô, nâng cao hiệu quả kinh tế, góp
phần xóa đói giảm nghèo cho nông dân. Đặc biệt phải tiến hành nghiên cứu
các tổ hợp phân bón cho ngô lai, kết hợp nghiên cứu các phương thức trồng
xen và mở rộng những nghiên cứu ra sản xuất nhằm đảm bảo nhu cầu an ninh
lương thực, đồng thời nâng cao được chất lượng lương thực cho đồng bào dân
tộc thiểu số vùng cao, đặc biệt góp phần giảm giá thành sản phẩm ngành chăn
nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế của tỉnh.
Diện tích trồng ngô của tỉnh Hà Giang tăng rõ rệt. Năm 2005 cả tỉnh
trồng được trên 44,0 nghìn ha, đến năm 2012 đã đạt 52,5 nghìn ha, tăng gần 9
nghìn ha so với năm 2005. Năng suất ngô của tỉnh cũng tăng lên, năm 2005
năng suất ngô chỉ đạt 21 tạ/ha, đến năm 2012 đã đạt 32,1 tạ/ha, tăng 11,1
tạ/ha so với năm 2005. Trong những năm gần đây Hà Giang đã và đang
chuyển đổi cơ cấu giống, sử dụng các giống ngô lai năng suất cao như:
LVN10, LVN11, LVN12, LVN99… ngoài ra còn một số giống ngô nhập nội
như: Bioseed 9698, DK999, DK888, NK4300, NK66, C919, DK9901,
DK9955,… các giống này đã được áp dụng và đưa vào sản xuất trên địa bàn
toàn tỉnh.
19
1.3.4. Tình hình sản suất ngô tại huyện Đồng Văn
Năm 2005, diện tích ngô toàn huyện là 7.249,3 ha, đến năm 2011 diện
tích đã giảm xuống là 6.672,0 ha (giảm 577,3 ha) do chuyển đổi cơ cấu cây
trồng. Tuy nhiên, năng suất và sản lượng ngô tăng lên đáng kể theo từng năm,
năm 2005 năng suất bình quân đạt 18,6 tạ/ha, sản lượng đạt 13.447,5 tấn, đến
năm 2011 năng suất ngô đạt 32,2 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 21.411,2 tấn
(năng suất tăng 13,6 tạ/ha, sản lượng tăng 7.963,7 tấn so với năm 2005), do
đưa cơ cấu giống mới và đẩy mạnh việc đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ cho nhân dân vay vốn,
xây dựng các mô hình điểm tuyên truyền hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất Đặc biệt là việc sử dụng giống ngô lai có năng suất cao
thay thế cho các giống ngô địa phương năng suất thấp, bằng các giải pháp cụ
thể là ban hành chính sách hỗ trợ giá giống đối với nhân dân khi sử dụng
giống lai (năm 2005 diện tích ngô lai trên địa bàn là 1.590 ha chiếm 21,2%,
nhưng đến năm 2011 đã tăng lên 4.313,3 ha chiếm 64,6% diện tích tăng
2.723,3 ha so với năm 2005).
Tình hình sản xuất ngô của huyện Đồng Văn trong những năm gần đây
đã có những bước phát triển lớn thay đổi chủ yếu về năng suất và sản lượng.
Bảng 1.6: Tình hình sản xuất ngô của huyện Đồng Văn 2005-2011
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
sản lượng
(tấn)
2005 7.249,3 18,6 13.447,5
2006 6.797,6 19,7 13.425,2
2007 6.465,2 20,6 13.286,0
2008 6.591,0 21,8 14.375,0
2009 6.404,7 24,6 15.723,5
20