Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Kế hoạch của Cục Dự trữ Quốc gia - hiện trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.03 KB, 64 trang )

TR¦êng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n
Khoa th¦¥ng m¹i
b & a
CHUY£n ®Ò tèt nghiÖp
§Ò tµi:
KẾ HOẠCH CỦA CỤC DỰ TRỮ QUỐC GIA -
HIỆN TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP
Hµ Néi - 2008
Lời nói đầu
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh muốn làm việc có hiệu
quả mỗi người, doanh nghiệp hay mỗi quốc gia đều phải lập những kế hoạch
những công việc cần làm và phải làm. Dặc biệt trong lĩnh vực kinh tế xã hội
kế hoạch là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được.
Dự trữ quốc gia là hoạt động dự trữ hàng hóa với mục đích đáp ứng
các nhu cầu cấp bách về phòng chống, khắc phục hậu quả do thiên tai, hỏa
hoạn, dịch bệnh; đảo bảo quốc phòng an ninh; tham gia bình ổn thị trường,
góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đôt xuất khác
của Nhà nước. Như vậy đối với một đất nước dự trữ quốc gia có vai trò cực
kì quan trọng. Với vai trò như vậy để thực hiện các nhiệm vụ một cách hiệu
quả nhất cần lập kế hoạch phù hợp với các yêu cầu của nền kinh tế. Đó là
yếu tố quyết định thành công của công tác dự trữu quốc gia.
Được sự giới thiệu của GS,TS Hoàng Đức Thân, tôi được vinh dự đên
thực tập tại Cục dự trữ quốc gia. Sau thời gian nghiên cứu, thấy được vai trò
quan trọng của công tác kế hoạch hóa nên tôi chọn đề tài “Kế hoạch của
Cục dự trữ quốc gia- hiện trạng và biện pháp” để nghiên cứu và làm chuyên
đề chính cho kì thực tập tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS,TS Hoàng Đức Thân (giảng viên
trường Đại học kinh tế quốc dân) và ông Mai Huy Tạo (cán bộ phòng kế
hoạch tổng hợp- Cục dự trữ quốc gia) đã hướng dẫn tôi làm đề tài này.
Chương I : Tổng quan về kế hoạch dự trữ quốc gia.
1.1 Đặc trưng của kế hoạch dự trữ quốc gia


1.1.1 Sự cần thiết của kế hoạch quốc gia.
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh không tránh khỏi nhưng
sự cố xảy ra ngoài dự kiến, hậu quả của nhưng sự cố này có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cuộc sống của
từng cá nhân gia đình. Để khắc phục được hậu quả của những sự cố có thể
xảy ra người ta nghĩ đến cách có thể đảm bảo mọi việc diễn ra bình thường
khi sự cố xảy ra.
Trong kinh doanh khi xảy ra sự cố có thể dẫn đến tình trạng không có
lợi cho doanh nghiệp (ví dụ khi hàng hóa gặp rủi ro trên đường vận chuyển,
hàng giao đến chậm so với dự kiến…doanh nghiệp sẽ không có hàng hóa để
bán cho khách hàng) để đảm bảo các hoạt động kinh doanh diễn ra bình
thường, các nhà kinh doanh phải cất trữ hàng hóa phòng khi có sự cố xảy ra.
Như vậy để đảm bảo cho công việc kinh doanh diễn ra bình thường các
doanh nghiệp cần phải dự trữ một lượng nhất định các yếu tố cần thiết trong
kinh doanh.
Hoạt động dự trữ quốc gia là hoạt động không vì mục đích lợi nhuận,
có vai trò quan trọng đối với việc phát triển bền vững, bảo đảm ổn định
chính trị, kinh tế - xã hội đất nước khi có sự cố bất lợi do thiên tai, hỏa hoạn,
dịch bệnh, địch họa, thị trường gây ra. Những rủi ro này không báo trước, có
thể dự đoán nhưng không thể dự đoán chính xác thời điểm xảy ra và không
dự đoán được hậu quả xảy ra. Nếu không có hàng hóa dự trữ trước khi sự cố
xảy ra không thể khắc phục hậu quả một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất
vì không thể thu gom các hàng hóa cần thiết trong một thời gian ngắn. Vì
vậy để có thể khắc phục hậu quả nhanh chóng và kịp thời chính phủ cần dự
trữ một lượng hàng hóa lớn đủ để có thể khắc phục hậu quả nhanh chóng khi
có sự cố một cách nhanh chóng nhất. Dự trữ quốc gia ra đời là một tất yếu
không thể thiếu được. Nó là một phần quan trọng trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia, dù là các cường quôc kinh tế hay các nươc nghèo nàn đang phát
triển cũng không thể thiếu được.
Ở Việt Nam dự trữ quốc gia ra đời từ cuối năm 1946 với các phong

trào “hũ gạo cứu đói”, “hũ gạo nuôi quân”…do đồng chí Nguyên Lương
Bằng, Ủy viên Trung ương Đảng đương thời trực tiếp xây dựng kho dự trữ
lương thưc ở Đế Rào và các kho muối dự trữ ở chiến khu Việt Bắc. Đến nay
hệ thống kho tàng dự trữquốc gia đã phát triển trên tất cả các vùng đất nước,
trải dài từ bắc vào nam.

1.1.2 Khái niệm kế hoạch hóa dự trữ quốc gia.
Theo nghĩa gốc, kế hoạch được hiểu là toàn bộ những điều được vạch
ra một cách có hệ thong về những công việc dự định làm trong một thời gian
nhất định, với một cách thức, trình tự, thời gian tiến hành. Kế hoạch hóa là
làm cho phát triển một cách có kế hoạch thông qua sự tìm tòi,tổ chức. thực
hiện liên tục các biện pháp thực hiện dự định.
Như vậy có thể thấy vai trò của kế hoạch đối với ngay từng cá nhân,
từng gia đình. Trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp lại càng khẳng định
sự cần thiết của kế hoạhc và kế hoạch hóa. Đối với nền kinh tế hay đối với
một xã hội yêu cầu về kế hoachj hóa là không thể thiếu, hơn nữa nó còn giữ
vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Trong tiến trình đổi mới, Đại hội lần thứ VIII của Đảng coongj sản
Việt Nam xác định “cơ chế kinh tế áp dụng ở Việt Nam là kinh tế thị trường
định hướng xã hộichủ nghĩa”. Cơ chế nàythể hiện các nội dung cơ bản là: đa
dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế; cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước; phát triển kinh tế tư nhân; sử dụng thị trường với tư cách
là một công cụ điều tiết sản xuất, giá cả là cơ sở để sản xuất và tiêu dung,
điều tiết các yếu tố nguồn lực.
Công kế hoạch hóa một nền kinh tế chuyển đổi như vậy không thể là
kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh mà nó phải được chuyển sang một mô
hình mới: Kế hoạch hóa phát triển. Đó là kế hoạch hóa ỏ tâm vĩ mô, kế
hoạch hóa định hướng và kế hoạch hóa dưới dạng chính sách. Nó bao gồm
một hệ thống cẩ chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, chương trình có
mục tiêu, dự án và bao trùm tất cả các thành phần kinh tế.

Theo nghĩa hẹp, Kế hoạch hóa dự trữ quốc gia là kế hoạch quá trình
hình thành, cất trữ( bảo quản) và sử dụng quỹ quốc gia( gồm tiền và hàng).
Dự trữ nói chung có nhiều cấp độ. Quỹ dự trữ quốc gia là dự trữ cấp
Nhà nước do Chính phủ và Thủ tứong chính phủ quản lý, điều hành. Đây là
một quỹ tập trung, thuộc kinh tế nhà nước, được hình thànhtrong quá trình
phân phối lai GDP( hoặc GNP), bao gồm các loại vật tư hang hóa thiết yêu,
vàng và ngoại tệ thuộc sở hữu Nhà nướcđược tích lũy đẻ phòng ngừa và cứu
trợ thiên tai, địch họa, dịch bệnh đáp ứng nhu cầu cấp bách về an ninh quốc
phòng,góp phần ổn định thị trườngvà thực hiện các nhiệm vụ khác của Nhà
nước.
Nguồn thành lập quỹ dự trữ quốc gioa hiện nay chủ yếu là do ngân
sách Nhà nước, do dố kế hoạch hóa dự trũ quốc gia là một bộ phận cấu
thành kế hoạch hóa tài chính quốc gia.
1.1.3 Đặc trưng của kế hoạch hóa dự trữ quốc gia
Ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
kế hoạch hóa phát triển nhưng trong thời kì đầu của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nên trong nội dung kế hoạch hóa phát triển của
nước ta còn hàm chứ một số tính chất của kế hoạch hóa tập trung.
Kế hoạch hóa dự trữ quốc gia là một biểu hiện rõ nét về xu hướng tập
trung này.Điều đó xuất phát từ những yêu cầu quản lý nghiêm ngặt, tập
trung thống nhất vào Chính phủ, thủ tướng chính phủ. Tuy nhiên cũng cần
phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao trách nhiệm và chủ đổng cho các
cấp quản lý.
Vì vậy dự trữ quốc gia có những đặc trưng sau đây:
1.1.3.1 Kế hoạch hóa việc hình thành, bảo quản và sử dụng một tiềm
lực vật chất dự phòng chiến lược thuộc sở hửu Nhà nướcmang tính tập trung,
phân bổ trực tiếp, khống chế củ thể. Điều này thể hiện ở sự cuông chế phổ
biến; các vấn đè cơ bản của hoạt đọng dự trữ quốc giađược thực hiện bằng
hệ thống các quyết định của ban lãnh đạo
1.1.3.2 Chỉ tiêu hiện vật mang tính pháp lệnh cao.

Điều này xuất phát từ mục tiêu, mục đích của dự trữ quốc gia là
không nhằm mục tiêu sinh lợi nhuận thuần túy mà nhằm góp phần giữ ổn
định kinh tế xã hội khi xuất hiện tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc
phòng;đối phó hiệu quả, kịp thời diễn biến phức tạp của thiên tai, dịch bệnh
và nền kinh tế thị trường. Khi sự cố thiên tai, địch họa xảy ra, cái cần để ổn
định đời sống, khôi phục sản xuất tức thời là lương thực, muối ăn, xăng
dâu… chứ không phải tiền.
1.1.3.3 Kêt hợp hài hòagiữa hai công cụ điều tiết trực tiếp và gián tiếp (
bằng kế hoạch và thông qua thị trường)
Kế hoạch dự trữ quốc gia tuy theo xu hướng tập trung, nhưg không
thể thoát ly khỏi thực tiễn của nền kinh tế thị trường. Đặc trưng này còn xuất
phát từ một trong những nguyên tắc cơ bản của kế hoạch phát triển là
nguyên tắc thị trường, do tính đa dạng và phức tạp của kế hoạch và thị
trường quy định. Quá trình quản lý, điều hành hoạt động dự trữ
quốcgiathông qua công cụ kế hoạch cần phaan biệt khâu nào, măt nào phải
quản lý cứng rắn, tập trung, khâu nào, mặt nàophải tuân theo quy định khách
quan của thị trường.
Ví dụ: Tổng mức xuất- nhập kho, xuất kho để cứu trợ thiên tai, địch
họa ,viện trợ trả nợ chính phủ thì phải căn cứ quyết địnhcủa thủ tướng chính
phủ hoặc người lãnh đạo quản lý được Thủ tướng chính phủ ủy quyền. Hoạt
đọng mua bán để nhập kho, hoạt động xuất bán khi xuất hàng luân phiên do
hết thời hạn lưu kho, hoặc không càn phải lưu tiếp…thì phải căn cứ vào
quan hệ thị trường giá cả cung cầu mới định đoạt thành công.
1.2 Nội dung kế hoạch hóa dự trữ quốc gia.
Trong hệ thống kế hoạch hóa phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam, nếu
phân theo nội dung gồm: chiến lược phát triển, kế hoạch phất triển, chương
trình phát triển và dự án phát triển; phân theo thời gian thì gồm ba mức: Kế
hoạch dài hạn (10 năm), kế hoạch trung hạn (5 năm), kế hoạch ngán hạn
(1năm). Kế hoạch dự trữ quốc gia đã phát triển theo hệ thống này.
1.2.1 Kế hoạch tăng giảm các mặt hàng và khối lượng từng mặt hàng dự

trữ quốc gia.
Đây là nội dung kế hoạch căn bản nhằm xác định quy mô quỹ dự trữ
quốc gia hiện vật trên hai phươn diện số lượng mặt hàng cần dự trữ và mức
dự trữ từng mặt hàng, hợp lại thành tổng mức dự trữ quốc gia hàng năm. Đẻ
xác định đúng đắn tổng mức dự trữ quốc gia và mức dư trữ từng mặt hàng
trong từng giai đoạn, phải xem xét nhiều khía cạnh như: kế hoạch chiến lược
phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu đảm bao an ninh quốc phòng của nha
nước, quy trình công nghệ bảo quản, thờ hạn lưu kho hàng, khả năng ngân
sách Nhà nước…Danh mục hàng hóa phải đươc nghiên cứu, điều chỉnh phù
hợp với dự trữ quốc gia trong từng giai đoạn.
1.2.2 Kế hoạch luân phiên đổi mới hàng hóa dự trữ quốc gia.
Trong điều kiện bình thường, chưa phải xuất kho sử dụng vào những
mục đích trước thì việc luân phiên đổi mới hàng đang cất trữ trong kho là
viẹc hết sức cần thiết nhằm làm cho quỹ dự trữ quốc gia hiện vật luôn sẵn
sang cả về số lượng cũng như chất lượng. Xuất luân phiên căn cứ vào thời
hạn lưu kho tối đa, về nguyên tắc: Xuất luân phiên bao nhiêu thì nhập lại bấy
nhiêu. Tuy nhiên ở từng tổng kho không nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc
này.
Nội dung các kế hoạch tăng- giảm và luân phiên đổi mới hàng dự trữ
quốc gia đều thông qua họat động nhập xuất hàng dự trữ quốc gia. Đây là kế
hoạch, hoạt động nhằm hình thành, bảo tồn, và sử dụng đúng đắn quỹ dự trữ
quốc gia. Hoạt động này thực hiện chủ yếu qua phương thức mua bán.
Nguyên tắc nhập xuất- xuất hàng dự trữ quốc gia.
Yêu cầu quản lý quỹ dự trữ quôc gia rất chặt chẽ. Hàng nhập, hàng
xuấtkho dự trữ quốc gia phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nhập hàng đúg kế hoạch được duyệt hoắc quyết định của cấp có thẩm
quyền. Nhấp kho nói chung và xuất luân phiên được đưa vào kế hoạh àng
năm do Thủ tướng chính phủ xét duyệt tổng số, Thủ trưởng cơ quan dư trữ,
quyết định nhập xuất cụ thể. Nhưng việc nhập xuất kho không chỉ gồm như
trên mà còn nhiều trường hợp khác không thể dự liệu trước theo kế hoạch,

khi xuất hiện thì thực hiện theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Via dụ:
xuất khắc phcj hâu quả của thiên tai, điạch họa dịch bệnh, bình ổn thi
trường; nhập viện trợ, xuất viện trợ, cho vay hoặc trả nợ trong quan hệ đối
ngoại…Tóm lại mọi trường hợp nhập xuất hàng dự trữ quốc gia đều do cấp
có thẩm quyền quy định.
Nhập hàng đúgn chủng loại, quy cách, mã hiệu, kí hiệu, số lượng, khối
lượng, chất lượng và thời gian quy định. Khác với những trao đổi thong
thừong trên thị trường, hàng dự trữ quốc gia luôn được xác định trước về
quy cách, chủng loại, mã hiệu kí hiệu, số lượng, chất lượng nên không được
tùy tiện thay đổi khi nhập xuất kho. Thời gian nhập xuất, nhất là thời gian
xuất hàng nhanh gọn mới đáp ứng kịp thời khi khắc phục hậu quả xấu xảy
ra.
Có đủ chứng từ hợp pháp và tuân theo đúng thủ tục nhập xuất hàng đã
được quy định. Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu hạch toán, đánh giá kết
quả hoạt động nhập xuất. Chứng từ hợp pháp cần chuẩn bị trước, trong và
sau khi nhập, xuất hàng như: quyết định nhập xuất, hợp đòng kinh tếhoặc
bản kê; giấy chứng minh chất lượng sản phẩm, sổ nhập xuất hàng, hóa đơn
mua bán, biên bản nhập, bản thanh lý hợp đòng (nếu có)…
Thủ tục nhập xuất hàng dự trữ quốc gia là một thủ tục hành chính, quy
định cơ chế điều hàng nhập xuất về thẩm quyền, trình tự, cách thức tiến
hành… và được coi như một nghĩa vụ hành chính bắt buộc chủ thể thực hiện
và chủ thể tham gia phải chấp hành.
Các trường hợp nhập xuất.
Nhập xuất hàng dự trữ quốc gia theo kế hoạch, gồm: kế haọch nhập
tăng, kế hoạch nhập xuất do luân phiên đổi mới hàng. Các kế hoạch này do
thủ tướng chính phủ phê duyệt, thủ trưởng cơ quan dự trữ căn cứ các quy
định hiện hành để quyết định nhập xuất cụ thể.
Nhập hàng dự trữ quốc gia theo quyết định của thủ tướng chính phủ.
Đó là các trường hợp không thể tính toán trước được từ kế hoạch đầu năm,
khi xuất hiện thì làm theo quyết định của thủ tướng chính phủ:

- Xuất hàng khắc phuc hậu quả thiên tai, địch họa, dịch bệnh. Gọi chung là
các trường hợp xuất hàng cứu trợ.
- Nhập đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh quốc phòng. Khi xuất hiện tình
hình đột xuất đe dọa an ninh, quốc phòng thì thủ Tướng chính phủ có thể
quyết định tăng nhập dự trữ quốc gia hay xuất một số vật tư thiết bị phục vụ
an ninh, quốc phòngcho lực lượng vũ trang để phòng ngừa.
- Xuất góp phần ổn định thị trường.
- Nhập viện trợ, xuất viện trợ, cho vay hoặc trả nợ trong quan hệ đối ngoại.
- Nhập khẩu, xuất khẩu.
- Các trường hợp khác: quà tặng…
Điều chuyển nội bộ hàng dự trữ quốc gia. Việc điều chuyển hàng nội bộ
hàng dự trữ quo9óc giãuất phát từ yêu cầu quản lý, trong các trường hợp:
- Di chuyển hàng dự trữ theo kế hoạch, quy hoạch để bảo quản an toàn,
phù hợp với các điều kiện về kho chứa hàng.
- Di chuyển hang hóa dự trữ quốc gia ra khỏi nơi bị thiên tai, hỏa hoạn.
- Di chhuyển hàng hóa dự trữ quốc gia đến nơi cần thiết để sẵn sang
ứng cứu cho những nhiệm vụ bất thườngvề kinh tế, quốc phòng, an
ninh.
Do yêu cầu đặc biệt cần thiết của công tác kiểm kê, bàn giao, điều tra,
thanh tra.
Xuất hàng dự trữ quốc gia trong trường hợp khẩn cấp. Trong trường hợp
khẩn cấp phải đáp ứng ngay các yêu cầu quốc phòng, an ninh, Thủ
trưởng các cơ quan dự trữ được phép:
- Xuất nguyên liệu, nhiên lieeuj, vật lieu dự trữ quốc gia thuộc phạm vi
quản lý cho các nhiệm vụ trên và chịu trách nhiệm trước thủ tướng
chính phủ. Giá trị hàng xuất cho mội nhiệm vụ chỉ dưới 1tỷ đồng.
- Tạm xuất thiết bị, trang bị, xe máy dự trữ quốc gia ra sử dụng, sau khi
hoàn thành nhiệm vụ phải tái nhập để bảo quản theo quy định.
Các trường hợp xuất hàng dự trữ quốc gia khác:
- Nhập hàng dự trữ quốc gia dôi thừa trong quá trình bảo quản.

- Xuất hàng trong các trường hợp sau đây:
• Hàng bị hư hỏng, giảm phẩm chất do thiên tai, hỏa hoạn, hoặc do
nguyên nhân khách quan khác
• Hàng phải tiêu hủy do quá thời hạn lưu khohoặc do nguyên nhân
khách quan mà không sử dụng vào mục đích khác được.
• Hao hụt trong định mức, hao hụt vượt định mức do nguyên nhân
khách quan, hao hụt do nguyên nhân khác đã được xủ lý.
Phương thức nhập xuất hàng dự trữ quốc gia:
Phưong thức nhập xuất hợp lý quyết định thành công của công tác nhập
xuất. Hiện nay, thực hiện phương thức nhập xuất nào là do các cấp có
thẩm quyền quyết định. Xét về hình thức, có hai nhóm phương thức nhập
xuất hàng hóa dự trữ quốc gia như sau:
Mua bán theo cơ chế thị trường.đây là phương thức nhập xuất chủ yế,
tiến bộ thay thế phương thức “cho vay đổi hạt” trước đây có quá nhiều sơ
hở tiêu cực. Phương thức mua bán lương thực dự trữ quốc giađược quy
định chi tiết tại quyết định số 253/QĐ-DTQG và
quyết định số 254/QĐ-DTQG ngày 15-6-2001 của cục dự trữ quốc gia.
Tùy theo từg đối tượng hàng cần nhập xuất mà áp dụng các hình thức
mua bán thích hợptheo quy định:
- Đấu thầu, đấu giá: áp dụng khi mua gạo, mua vật tư thiết bị xe máy;
bán một số vật tư thiết bị, xe máy mà thi trường đang có nhu cầu
cao.Hình thức đấu thầu có thể rộng rãi, hạn chế hoặc chỉ định đấu
thầu.
- Mua bán với mọi khách hàng có nhu cầu: mua bán thóc, bán gạo, bná
một số vật tư thiết bị đã lưu kho quá lâu, lạc hậu kỹ thuật…
Nhập xuất theo quyết định củ cấp có thẩm quyền. Khi xuất hàng cứu trợ,
viện trợ, quà tặng, ổn định thị trường, trả nợ chính phủ… theo quyết định
của thủ tướngchính phủ: xuất hàng trong trường hợp khẩn cấp; điều chuyển
hàng nội bộ… Trong các quyết định này đã nói rõcả phương thức nhập xuất,
đối tượng hưởng thụ, giá, thời gian thực hiện…nhiệm vụ của người quản lý

và thủ kho là chấp hành nghiêm chỉnh các quyêt định đó.
1.2.3 Kế hoạch đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật.
Thường được thực hiện theo từng dự áncăn cứ các quy hoạch được
duyệ. Trong ngành dự trữ quốc gia, đầu tư chủ yếu cho xây dựng kho tang,
nhà làm việc, trang bi công nghệbảo quản mới, công nghệ thong tin…
1.2.4 Kế hoạch nghiên cứu , ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Trong tình hình khao học công nghệ và quản lý trên thế giới phát triển
nhanh chónghiện nay thì việc nghiên cứu, nhất là ứng dụng kịp thời những
tiến bộ khoa học đó rất cấp bác, tạo đột phá trong công nghệ bảo quản và
quản lý dự trữquóc gia. Kế hoạch này được thể hiện trrên các đề tài khoa học
của các cán bộ cục dự trữ quốc gia.
1.2.5 Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
Gồm: đào tạo mới, đào tạonâng cấp, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ
dưới nhiều hình thức, nhằm giúp cán bộ công chức đáp ứng ngày càng tốt
hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.2.6 Kế hoạch tài chính cho hoạt động dự trữ quốc gia.
Để hoạt động dự trữ quốc gia được thực hiện cần có các nguồn lực,
trong đó có nguồn lực tài chính. Nội dung cơ bản của kế hoạch tài chính là:
Dự toán ngân sách chi tăng dự trữ quốc gia để mua nhập quỹ dự trữ quốc
gia; dựtoán ngân kinh phí thường xuyên bảo đảm hoạt động của bộ máy
quản lý các cấp. Để xác lập được kế hoạch tài chính phải căn cứ vào mức
tăng quỹ dự trữ quốc gia hiện vật hàng năm, tổ chức, biên chế và các định
mức kinh tế kỹ thuật liên quan.
1.2.7 Nội dung kế hoạch nhập hàng dự trữ quốc gia.
Chuẩn bị nhập:
Căn cứ kế hoạch nhập, loại hàng nhập, phương thức nhập… để chuẩn bị
nhập, gồm:
- Dự kiến nhập kho, kho trống, chất lượng tôt phù hợp cho bảo quản
hàng sẽ nhập, kho nừ trong quy hoạch…
- Tổ chức vệ sinh, kê ló, sát trùn kho theo quy địnhtrước thời điểm nhập

ít nhất 28bngày.
- Có đủ dụng cụ cân, đo, kiểm nghiệm. Các dụng cụ này phẩi có giấy
chứng nhận của cơ quan tiêu chuẩn đo lường chất lượng địa phương.
Mỗi cân phải có quả cân chuẩn đẻ mọi người có thể kiểm tra.
- Khi mua lương thực cần khảo sát chủng loại thóc, gạo và diễn biến giá
thị trường báo cáo cấp trên xem xet xử lý.
- Bố trí nhân lực nhập, bảo vệ, hậu cần…
- Lập dự toánchi cho quá trình nhập.
- Tổ chưc tập huấn hoặc trao đổi nghiệp vụ mua.
- Sổ sách quản ly, bảng kê, hóa đơn nhập mua…
Thực hiện nhập:
Đây là bước quan trọng nhất quyết định quá trình nhập kho, phải
thực hiện nghiêm chỉnh vàthận trọng các công việc sau:
- Tổ chức đâu thầu mua các mặt hàng do cấp trên quy định, khâu này
do chi cục và cục dự trữ quốc gia tiến hành.
- Ký hợp đồng kinh tế mua.
- Kiểm nghiệm chất lượng hàng, cân đo hoặc đếm. Chỉ chấp nhận nhập
những lô hàng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chất đã xác định trước. Đối
với lương thực phải qua cân 100%. Đối với vật tư thiết bị, xe máy thì
thực hiên nhập theo hướng dẫn của Cục dự trữ quốc gia.
- Thanh toán tiền mua hàng theo tiến độ nhập kho. Tuyệt đối không ứng
tiền cho khách hàng.
- Thay đổi giá mua khi cần thiết.
- Ghi chép các sổ sách quản lý cần thiết như sổ nhập hàng, phiếu kiểm
nghiệm chất lượng, biên bản nhập kho, hóa đơn mua hoặc phiếu nhập
kho…
Kết thúc nhập:
- Thanh lý hợp đồng kinh tế mua.
- Quyết toán nhập.
- Tổng kết rút kinh nghiệm.

- Tổ chức bảo quản lần đầu và thường xuyên theo quy định.
1.2.8 Nội dung kế hoạch xuất hàng dự trữ quốc gia
Chuẩn bị xuất:
- Căn cứ kế hoạch xuất phải tổ chức kiểm tra các kho hàng để lập biểu
thống kê từng ngăn kho hoặc lô hàng cần xuất. Thời gian lưu kho và
chất lượng hàng hiện tại là những tiêu thức chính để quyết định việc
xuất bán luân phiên.
- Lập phiếu kiểm nghiệm chất lựong từng ngăn kho, lô hàng hoặc đơn
vị hàng phục vụviệc đấu thầu bán hoặc them thong tin để định giá
bán…
- Có đủ dụng cụ cân, đo, kiểm nghiệm, các loại sổ sách, hóa đơn bán
hàng…
- Bố trí nhân lực, bảo vệ, hậu cần.
- Dự toán chi cho quá trình xuất.
- Tập huấn trao đổi nghiệp vụ bán.
Thực hiện xuất:
- Tổ chức đấu thầu bán các mặt hàng do cấp trên quy định. Khâu này do
chi cục và cục dự trữ quốc gia thực hiện.
- Ký hợp đồng kinh tế bán.
- Thực hiện xuất kho theo quyết định hoặc lệnh của cấp trên trực tiếp.
Xuất hết từng ngăn kho, lô hàng.
- Thay đổi giá khi cần thiết.
- Thu tiền mua hàng của khách hàng. Không xuất hàng khi chưa thu
tiền.
- Ghi chép các sổ sáchquản lý cần thiết như sổ xuất hàng, biên bản xuất
kho hoặc tịnh kho, hóa đơn xuất hàng và phiếu xuất kho…
Kết thúc xuất:
- Xác định dôi hao theo định mức và kiến nghị hướng xử lý.
- Thanh lý hợp đòng bán.
- Quyết toán xuất.

- Vệ sinh kho tàng, thu hồi bảo quản vật liệu kê lót.
- Tổng kết rút kinh nghiệm.

1.3 Xây dựng kế hoạch dự trữ quốc gia
Kế hoạch trong kinh doanh cũng như trong lĩnh vực kinh tế - xã hội
đều đóng vai trò quan trọng, nó là định hướng để thực hiện các mục tiêu
chính, nó xác định hướng đi đúng đắn trong quá trình hoàn thành mục
tiêu vì vậy để xây dựng được kế hoạch cần xem xét thật kĩ lượng các cơ
sở để xây dựng, các yêu cầu cần thiết cho kế hoạch đồng thời xác định
trình tự để xây dựng kế hoạch.
1.3.1 Căn cứ để xây dựng kế hoạch dự trữ quốc gia.
Để xây dựng kế hoạch dự trữ quốc gia cần dựa trên 4 căn cứ sau là
chủ yếu:
- Mục tiêu, yêu cầu của dự trữ quốc gia.
- Khả năng ngân sách nhà nước.
- Dự báo về tình hình chính trị, kinh tế - xã hộitrong nước và quốc tế.
- Dự báo khác liên quan đến dự trữ quốc gia.
Mục tiêu, yêu cầu của dự trữ quốc gia.
Trong giai đoạn tiếp theo dự trữ đăt ra 5 muc tiêu chính choc ac hoạt
đọng như sau:
- Mục tiêu dự trữ quốc gia là sẵn sàng, chủ động đáp ứng yêu cầu cấp
bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch
bệnh; đamư bảo quốc phòng an ninh; tham gia bình ổn thị trường, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác
của Nhà nước.
- Xây dựng dự trữ quốc gia đủ điều kiện và khả năng đáp ứng yêu cầ,
nhiệm vụ được giao, có một lực lượng dư trữ quốc gia vững mạnh, cơ
cấu hợp lí phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước. Có đội ngũ
cán bộ công chức chuyên nghiệp, hệ thống pháp luật đồng bộ.
- Từng bước tăng cường quỹ dự trữ quốc gia có quy mô phù hợp vớ sự

phát triển của nền kinh tế, cơ cấu danh mục hàng hóa phù hợp với các
điều kiện hiện có và tác động kịp thời, góp phần ổn định tình hình
chính trị, kinh tế xã hội trong mọi tình huống, biến động đột xuất xảy
ra.
- Nâng cao chất lượngcôngtác bảo quản dự trữ quốc gia; hoàn thiện hệ
thống tiêu chuẩn chất lượng, quy trình, quy phạm bảo quản, định mức
kinh tế kỹ thuật, từng bước đổi mới kỹ thuật và đưa các giải pháp
công nghệ bảo quản mới vào công tác bảo quản hàng dự trữ quốc gia;
bảo đảm trình độ kỹ thuật, công nghệ bảo quản hàng dự trữ quốc gia
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và ngang tầm với các nước tiên tiến.
- Tiếp tục kiện toàn, phát triển tổ chức quản lý dự trữ quốc gia theo
hướng tập trung vàocơ quan quản lý dự trữ quốc gia chuyên trách; chú
trọng phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đủ về số lượng, có cơ cấu
hợp lí, có phẩm chất chính trị và năng lực công tác ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ.
Mục tiêu là những điều cần đạt được trong thời gian tới, là mục đích
của mọi hoạt động. kế hoạch là tập hợp những công việc dựđịnh làm để
đạt đựợc mục tiêu vì vậy phải dựa vào các mục tiêu thì mới có thể xác
định đúng các công việc cần phải làm và các cách thức làm như thế nào
đẻ đạt được hiệu quả tối ưu.
Khả năng ngân sách của nhà nước. Dự trữ quốc gia là cơ quan nhà
nước, quỹ dự trữ quốc gia chủ yếu là ngân sách nhà nước. Tỷ lệ dự trữ
quốc gia phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của đất nước, nền
kinh tế phát triển càng cao thì tỷ lệ dự trữ càng cao.
Ngân sách nhà nước không phải năm nào cũng như năm nào, qua mỗi
năm ngân sách nhà nước lại có sự thay đổi (có thể là tăng hoặc giảm) vì
vậy phải phụ thuộc vào tỷ lệ ngân sách của nhà nước dành cho dự trữ để
lập kế hoạch dự trữ quốc gia.
Mặt khác phải dự vào tỷ lệ ngân sách dành cho các loại mặt hàng để
có kế hoạch phân bổ nguồn ngân sách vào các laọi mặt hàng dự trữ.

Dự báo về tình hình kinh tế chính trị trong nước và quốc tế. Con người
không thể biết trước những rủi ro có thể xảy ra trong tuơng lai vì vậy
muốn có thể hạn chế, khắc phục hậu quả của những rủi ro có thể xảy ra
cần nghien cứu tình hình và dự đoán các rủi ro có thể xảy ra. Đối với các
doanh nghiệp thì việc dự báo nhưng rủi ro này rất quan trọng nó ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp.
Đối với dự trữ quốc gia, nhiêm vụ chủ yếu là đáp ứng yêu cầu cấp
bách, khắc phục các hậu quả có thể xảy ra khi có rủi ro; góp phàn bình ổn
thị trường…Trong các rủi ro có thể xảy ra thì rủi ro về kinh tế sẽ để lại
hậu quả nghiêm trọng nhất, không chỉ ảnh hưởng đén cuộc sống người
dân nó còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế đồng thời sẽ kéo theo
nhiều vấn đè nảy sinh, vì vậy để khắc phục được hậu quả của những rủi
ro có thể xảy ra đối với nền kinh tế thì cần nghiên cứu kĩ lưỡng tình hình
kinh tế trong nước và tình hình kinh tế thế giới để dự đoán các biến cố có
thể xảy ra từ đó có các kế hoạch dự trữ hàng hóa khắc phục các hậu quả
có thể xẩy ra.
Dự báo khác có liên quan đến dự trữquốc gia. Nhiệm vụ của dự trũ
quôc gia là khăc phục kịp thời tát cả các rủi ro xảy ra trên đất nước. Các
rủi ro này không chỉ về mặt kinh tế mà còn do thiên nhiên hay do những
lí do bất ngờ xảy ra. Vì vậy ngoài nghiên cứu các dự báo về tình hình
kinh tế trong và ngoài nược các nhà kế hoạch cũng cần nghiên cứu nhiều
đên các yếu tố như thời tiết, các dự báo về thiên tai, bão lụt, hỏa hoạn,
các nguy cơ về địch họa, các mầm mống của dịch bệnh…để có kế hoạch
xây dựng các mức dự trữ hợp lí cho từng vùng, từng địa điểm bảo quản
các mặt hàng dự trữ quốc gia.
1.3.2 Quy trình xây dựng kế hoạch dự trữ quốc gia.
Để xây dựng một kế hoạch kinh tế xã hội phải tuân theo bốn bước xây
dựng kế hoạch chung cho nền kinh tế, gồm những bước sau:
Bước một: Đây là bước đầu tiên ở tầm vĩ mô, Bộ kế hoạch và đầu tư
căn cứ kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm năm, xác định lại các chỉ tiêu

tổng hợp: tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu ngành, tốc độ tăng trưởng ngành,
các mục tiêu về xã hội, môi trường, xác định các cân đối lớn: vôn đầu tư,
ngân sách, thanh toán quốc tế, xuât nhập khẩu và một số loại vật tư hnàg hóa
chủ yếu… và hệ thống các giải pháp.
Bước hai: Bộ kế hoạch đầu tư thông báo cho các bộ, ngành, địa
phương, tổng công ty những thông tin định hướng cần thiết để tự đánh giá
nguồn lực của mình và xây dựng kế hoạch ngành, địa phương.
Bước ba: Các bộ, ngành, địa phương gửi kế haọch cho bộ kế hoạch
đầu tư tổng hợp, phân tích, lựa chọn kế hoạch tối ưu, hình thành kế hoạch
kinh tế xã hội toàn diện trình chính phủ và quốc hội.
Bước bốn: Xây dựng kế hoạch điều hành thực hiện mục tiêu xác lập
cơ chế điều hành, phân công và phân cấp diều hành, kiểm tra và đôn đóc
thực hiện.
Dưa trên các bước xây dựng kế hoạch kinh tế xã hội trên xây dựng kế
hoạch dự trữ quôc gia cũng gồm bốn bước cơ bản như sau:
Bước một: Cục dự trữ quốc gia cùng các Bộ, ban ngành có lien quan
nghiên cứu các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tổng hợp các chỉ tiêu tăng
trưởng GDP, tăng ngân sách… từ đó xác định tỷ lệ ngân sách dành cho dự
trữ quôc gia tư đó lập các kế hoạch các mức dự trữ quốc gia.
Bước hai: Cục dự trữ quốc gia cùng cac bộ, ngành liên quan gủi các
kế hoạch dự kiến lên thủ tướng chính phủ kí duyệt.
Bước ba: Sau khi nhận lại bản kế hoạch đã được kí duyệt của thủ
tướng chính phủ, cục dự trữ quôc gia cùng các bộ ngành liên quan gửi bản
kế hoạch xuống từng vùng kho, từng khu vực bảo quản hàng hóa.
Bước bốn: Xây dựng kế hoạch điều hành thực hiện mục tiêu: xác lập
cơ chế điều hành, phân công phân cấp điều chỉnh kiểm tra đôn đóc thực
hiện.
Ngoài phải tuân theo bốn bước của qui trình xây dựng kế hoạch kế
hoạch dự trữ quôc gia còn tuan theo viêc xây dựng kế hoạch theo ba vòng:
- Vòng một: Đề xuất nhu cầu, đây chính là bước một của quá trinh xây

dựng kế hoạch. Cục dự trữ quốc gia sẽ căn cứ vào tình hình kinh tế và
yêu cầu của việc dự trữ, tình hình dự trư thực tế của năm trước để dự
tính nhu cầu dự trong năm tới sau đó trình lên thủ tướng chính phủ kí
duyệt. Thủ tướng chính phủ tùy theo tình hình ngân sách và tình hình
cụ thể để ra chỉ thị cho cuc dự trữ quôc gia thực hiện.
- Vòng hai: Xác định mức kế hoạch sơ bộ, đây là bước thứ hai và ba
trong qui trình xây dựng kế hoạch dự trữ quôc gia. Sau khi được thủ
tướng chính phủ kí duyệt cục dự trữ quốc gia dựa vào kế hoạch đó lập
lên kế hoạch chi tiết cho từng vùng, từng khu vực bảo quản hàng hóa.
Sau đó gửi các bản kế hoạch chi tiết cho từng vùng để nghiên cứu tình
hình thực hiện kế hoạch của từng vùng để báo cáo chi tiết cho cục
điều chỉnh kế hoạch.
- Vòng ba: Điều chỉnh, cung cấp, giao và nhận hàng hóa. Khi các kế
hoạch đã được điều chỉnh cho phù hợp với từng vùng thì bắt đầu tổ
chức thực hiện kế hoạch. Tổ chức giao nhận hàng cho kế hoạch xuất
nhập hàng, công tác bảo quản tốt, điểu chỉnh kế hoạch một cách linh
hoạt khi cần thiết.
1.3.3 Yêu cầu của kế hoạch dự trữ quốc gia.
- Kế hoạch dự trư quốc gia phải phù hợp với tình hình phát triển kinh
tế.
- Kế hoạch dự trữ quốc gia phải phù hợp với nguồn ngân sách của nhà
nước, nhưng vẫn đảm bảo phòng, chống, khắc phục được các rủi ro
khi sự cố xảy ra.
- Kế hoạch dự trữ phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu do chính phủ đặt
ra (ví dụ lương thực phải mức dự trữ la 4-5kg/người…).
- Kế hoạch dư trữ đảm bảo phù hợp với tình hình của từng vùng được
giao, có tính khả thi với tát cả các vùng.
- Kế hoạch phải xác định rõ các loại hàng hóa nào phù hợp với điều
kiện bảo quản ở vùng nào từ đó đưa ra các quyết định xuất nhập hàng
hóa cho phù hợp.

- Kế hoạch phải dự tình được mức chi tài chính cho các công tác dự trữ
hàng hóa.
- Kế hoạch phải xây dựng được danh sách các mặt hàng dự trữ, số
lượng, chất lượng từng loại mặt hàng.
- Kế hoạch dự trữ có thể điều chỉnh được khi có những biến đổi, tác
động của yếu tố thị trường cũng như các tác nhân khác tác động vào
tạo ra những khó khăn hay thuận lợi cho các hoạt động dự trữ hàng
hóa.
- Dự trữ quốc gia tuy mang tính tập trung, phân bổ trực tiếp, khống chế
cụ thể nhưng các hoạt động nhập xuất hàng hóa trong kế hoạch luân
phiên đổi mới hàng hóa dự trữ thực chất cũng là hoạt động mua bán
hàng hóa trên thị trường, vì vậy nó cũng chịu tác động của cơ chế thị
trường. Các thay đổi về giá cả trên thi trường sẽ ảnh hưởng đến kế
hoạch dự trữ, vì vậy cần dự tính được xu hướng giá cả để có hướng
điều chỉnh kế hoạch…
Chương II : Thực trạng kế hoạch hóa của Cục dự trữ quốc gia
2.1 Tổng quan về Cục dự trữ quốc gia
Cục dự trữ quốc gia là cơ quan nhà nước, có vốn từ nguồn ngân sách
nhà nước và được sự quản lí trực tiếp của thủ tướng chính phủ. Đây là cơ
quan trọng yếu, góp phần quan trọng cho sự phát triển ổn định của nền kinh
tế cũng như của đất nước. Ra đời từ cuối những năm 1946 cho đến nay cục
dự trữ quôc gia đã có rất nhiều thành tích, hoàn thành tốt các mục tiêu đặt ra.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Cục dự trữ quốc gia.
Sau sự thành công của cách mạng tháng 8-1945, đặc biệt là những thiệt
hại do nạn đói năm 1945, đồng thời từ những kinh nghiệm trong lịch sử,
phát huy phong trào « tích cốc phòng cơ », Đảng và nhà nước đứng đầu la
Hồ chủ tịch đã bắt đầu chú trọng đến công tác dự trữ quốc gia. Cuối năm
1946, dồng chí Nguyễn Lương Bằng (ủy viên trung ương Đảng) được lệnh
xây dựng kho dự trữ lương thực ở Đế Rào và các kho muối dự trữ ở chiến
khu Việt Bắc.

Trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp , nhiệm vụ
trọng tâm của cách mạng Việt NAm là chống thực dân Pháp, giải phóng
dân tộc. Hệ thống dưj trữ hầu hết do Hậu Cần quân đội trực tiếp đảm bảo.
Hệ thống dự trữ quốc gia ngay từ khi được thành lập đã góp phần
không nhỏ trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,Nhà Nước ta xác định hai nhiệm vụ quan
trọng là khôi phục, phát triển kinh tế, xây dựng Chủ Nghĩa xã hội ở miền
bắc và đấu tranh giải phóng miền nam thống nhất đất nước. Vì vậy phải
xây dựng hệ thống dự trữ quốc gia trở thành lực lượng dự trữ chiến lược
với tiềm lực mạnh.
Để thực hiện nghị quyết của Quốc hội, ngày 13-1-1956, Thủ tướng chính
phủ đã ban hành quyết định số663/TTg về tổ chức lực lượng dự trữ vật tư
quốc gia, với danh mục 27 mặt hàng thiết yếu, ước tôpngr mức dự trữ lên
gần 50 tỷ đồng( theo tỷ giá đương thời). Đồng thời Thủ tướng chính
phủtạm giao cho Ủy ban kế hoạch quốc gia theo dõi hoạt động dự trữ này
và giao cho các Bộ công Nghiệp, Thương Nghiệp,Quốc phòng, Y Tế trực
tiếp quản lý 27 loại hàng hóa dự trữ quốc gia và chỉ được xuất kho theo
lệnh của Thủ tướng chính phủ.
Với quyết định 663/TTg, lần đầu tiên nhà nước đã đề ra nguyên tắc cơ
bản trong việc hình thành và quản lý quỹ dự trữ quốc gia, phân công các
cơ quan quản lý lực lượng dự trữ chiến lược của nhà nước. Để thống nhất
tổ chức bộ máy quản lý lực lượng dự trữ quốc gia, ngày 7-8-1956, Thủ
tướng chính phủ ban hành nghị định số 997/TTg, về việc thành lập cục
quản lý dự trữ vật tư của Nhà Nước trực thuộc chính phủ.
Cụcquản lý dự trữ vật tư Nhà Nước (Cục dự trữ) có các nhiệm vụ chính
sau :
- Nghiên cứu lập kế hoạch tam thời ba tháng hàng năm về tích lũy dự
trữ vật tư của Nhà Nước để trình chính phủ phê duyệt, xét định.
- Tổ chức quản lý dự trữ vật tư theo kế hoạch đã định.
- Quản lý lượng vật tư của các Bộ hiên tại chưa dùng tới mà chính phủ

liệt vào loại hàng dự trữ.
- Nghiên cứu các đề nghị của các Bộ và các cơ quan về tích lũy dự trữ
vật tư nhà nước hay xin sử dụng các loại vật tư đó trình Hội đồng
chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ xét định
Tổ chức bộ máy đầu tiên của Cục Dự Trữ quốc gia :
- Phòng hành chính quản trị.
- Phòng thiết bị.
- Phòng nguyên, nhiên, vật liệu.
- Phòng sản phẩm lương thực và công nghệ.
- Hệ thống kho dự trữ vật tư của Nhà Nước trên các địa bàn quan trọng
từ Vĩnh Linh trở ra.
Hệ thống kho dự trữ được xây dựng trên 18 tỉnh thành trong cả nước. Hệ
thống ko còn được tăng cường và củng cố thông qua việc tiếp nhận kho
từ các Bộ bàn giao sang.
Như vậy, với nghị định997/TTg ngày 7-8-1956, tổ chức quản lý dự trữ
quốc gia của nước ta đã chính thức ra đời và hoạt động với tư cách là một
hệ thống tổ chức độc lập với chức năng, nhiệm vụ và vị trí của một tổ
chức chuyên ngành trong nền kinh tế.
Quá trình phát triển Cục Dự Trữ Quốc Gia
Giai đoạn 1956-1960 :
Đặc trưng : Nhà nước thống nhất quản lý tập trung cao đối với hoạt động dự
trữ quốc gia và họat động dự trữ đã đóng góp có hiệu quả đối với nền kinh
tế trong giai đoạn đầu khôi phục sản xuất ,ổn định đời sống nhân dân miền
Bắc và chi viền cho miền Nam đấu tranh thống nhất đát nước.
Tuy được Đảng và nhà nước quan tâm nhưng khi đó dự trữ quốc gia la một
tổ chức kinh tế mới ra đời còn non yếu và gặp nhiều khó khăn thể hiện ở một
số điểm sau đây :

+
Khối lượng hàng hóa dự trữ còn nhỏ bé ,chủng loại còn nghèo nàn

,phần lớn là các vật tư : kim khí , thiết bị … kém phẩm chất ,ứ đọng ,không
cần dùng của các Bộ thì đưa vào dự trữ .Lực lượng hàng hóa để phân tán ở
nhiều cơ quan,trên nhiều địa bàn .Cùng một loại hàng hóa thông dụng nhưng
có rất nhiều cơ quan cùng dự trữ .

+
Tình trạng kho tàng bảo quản hàng dự trữ tiếp nhận bàn giao của các Bộ
hầu hết là kho lán tạm ,hư hỏng ; thiếu kho trầm trọng nên nhiều loại hàng
hóa phải để ngoài trời .

+
Cơ chế ,quy chế quản lý dự trữ ;quy trình quy phạm ,định mức bảo quản
hàng hóa dự trữ hầu như chưa có ; nhất là các cơ chế về kế hoạch hóa ,tài
chính kế toán trong quản lý dự trữ , các định mức về kinh tế kỹ thuật trong
xây dựng kho tàng , bảo quản hàng dự trữ …đều thiếu.

+
Tổ chức bộ máy quản lý dự trữ còn đơn giản ; đội ngũ cán bộ quản lý
vùa thiếu về số lượng vừa yếu về chất lượng . Khi thành lập Cục Dự trữ ,bộ
khung lãnh đạo chỉ có 15 người , do đồng chí Phan Phuc Tường làm cục
trưởng (1956-1961) ; đến năm 1958 số cán bộ của ngành là 236 người năm
1960 là 465 người ;hầu hết cán bộ ,công chức của cục là những cán bộ
chính trị và quân sự chuyển sang .

Trong giai đoạn này , Cục quản lý dự trữ đã tiếp nhận hàng hóa kho tàng từ
các bộ chuyển sang và thực hiện nhiệm vụ trực tiếp quản lý lương thực , vật
tư dự trữ quốc gia đồng thời đẩy mạnh việc nhập tăng cường một số hàng
hóa dự trữ, tính đến cuối năm 1958 mặt hàng lương thực tăng 227% so với
năm 1956, vải tăng 100%, thiết bị tăng10%. Tính đến năm 1959 tổng giá trị
hàng dự trữ quốc gia tồn kho tăng 300% so với năm 1956 và được phân bố

rộng khắp 12 tỉnh thành trong cả nước.
Giai đoạn 1961- 1975 :
Đây là giai đoạn nhà nước tăng cường mạnh tiềm lực hàng hóa dự trữ để
phục vụ công cuộc CNXH ở miền Bắc và chi viện miền Nam. Đồng thời, do
yêu cầu củ thời chiến, đã thay đổi về bộ máy tổ chức quản lý dự trữ : thực
hiện chuyển giao nhiệm vụ trực tiếp bảo quản một số mặt hàng cho các Bộ
chuyên ngành, tiến hành phân tán, sơ tán hàng hóa dự trữ để chống chiến
tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ.
Để phù hợp với điều kiện chiến tranh khốc liệt ngày 18-10-1961 Hội đồng
chính phủ ban hành nghị định 165/CP về việc thành lậpTổng cục vật tư và
đưa Cục Dự Trữ Quốc Gia về trực thuộc Tổng cục vật tư.
Ngày 24-1-1970 Bộ vật tư ban hành quyêt định số 45/VT-QĐ về tổ chức bộ
máy của Cục Dự Trữ Quốc Gia. Cơ quan cục được chia thành sáu phòng ban
như sau : ban kế hoạch, ban kế toán tài vụ, ban kỹ thuật bảo quản, ban quan
lý kho hành, ban thanh tra bảo vệ, tổ chức hành chính, ngoài ra còn có các
bộ phận trực thuộc các tổng kho dự trữ, Đội xe vận tải 29-3.
Trong những năm từ 1961-1975, mặc dù hoàn cảnh đất nước còn tạm thời bị
chia cắt và chiến tranh rất ác liệt nhưng hàng năm Nhà Nước vẫn dành một
khoản ngân sách đáng kể để tăng cường lực lượng dự trữ quốc gia : Danh
mục hàng hóa đưa vào dự trữ quốc gia đồng bộ hơn, đưa mức dự trữ hàng
năm liên tục tăng so với năm trước.Bình quân tổng giá trị hàng hóa dự trữ
trong những năm 1970- 1975 tăng từ 5- 7 lần, riêng thiết bị tăng 9 lần, xăng
dầu tăng 1,33 lần so với giai đoạn đầu những năm 60 ; danh mục hàng hóa
từ 28 loại vào đầu những năm 60 tăng lên 80 loại hàng hóa vào những năm
70. Thời điểm đầu năm 1970 tổng giá trị vật tư hàng hóa ttòn kho bằng 5%
tổng thu ngân sách Nhà nước.
Giai đoạn 1976-1985 :
Đây là giai đoạn khó khăn, Đất nước vừa được giải phóng, hậu quả của cuộc
chiến tranh chống Mỹ còn rõ rệt, tình hình tài chính của nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng nặng nề. Trong điều kiện đó hoật động của dự trữ quốc

gia gặp nhiều thách thức rất to lớn :
- Tổ chức Dự trữ quốc gia phân tán khắp nơi, nhiều cơ quan trực tiếp
quản lý hoạt động dự trữ, kho tàng và cơ sở vật chất kỹ thuật manh
mún, hiệu lực quản lý Nhà nước với hoạt động dự trữ không đủ mạnh.
- Chính phủ chưa kịp thời nắm bắt đượctình hình dự trữ do chức năng
quản lý nhà nước về dự trữ của Bộ vật tư chưa được chú trọng. Trong
khi ở các cơ quan khác thì mỗi nơi một mô hình tổ chức và cơ chế
quản lý riêng.
- Giai đoạn đầu sau chiến tranh lực lượng dự trữ quốc gia tồn kho ở
mức rất thấp, nhiều loại hàng thiết yếu khi đó không còn dự trữ :
lương thực cả nước năm 1977 chỉ còn 7,5 vạn tấn( bằng 12,9% kế
hoạch), vải mặc không còn tồn kho,… Tổng giá trị hàng hóa dự
trữ quốc gia tồn kho cả nước trong những năm1981-1982 chỉ bằng
59% so với mức tồn kho đầu năm 1979.
Để khắc phục tình hình trên ngày 18-2-1984 Hội đồng bộ trưởng đã ban
hành nghị định số 31/HĐBT về việc thành Cục Quản Lý Dự Trữ Vật Tư
Nhà Nước. Nghị định quy định về tổ chức bộ máy của Cục quản lý vật tư
nhà nước như sau :
- Cơ quan giúp việc cục trưởng gồm có các phòng ban :
+ Phòng kế hoạch
+ Phòng quản lý kinh tế, kỹ thuật bảo quản.
+ Phòng kế toán tài vụ
+ Phòng kiến thiết cơ bản
+ Phòng tổ chức cán bộ, lao động tiền lương
+ Phòng hành chính quản trị
+ Phòng thanh tra bảo vệ
+ Ban thi đua
-Các cơ quan chuyên trách về quản lý xây dựng cơ bản gồm có 17 ban
Quản lý công trình.
Giai đoạn 1986 đến nay:

Do những khó khăn trong việc quản lý lực lượng dự trữ quốc gia nên
ngày 27-5-1995, Chính phủ ban hành nghị định số 35/CP về việc đặt cục
dự trữ quốc gia trực thuộc Chính phủ; tiếp đó ban hành nghị định số
66/CP ngày 18-10-1995 Chính phủ đã quy định chức năng nhiệm vụ
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục dự trữ quốc gia. Đồng thời ban
hành nghị định số 10/CP ngày 24-6- 1996 về quy chế quản lý dự trữ quốc
gia. Như vậy ngành Dự trữ quốc gia đã được tổ chức thành một hệ thống
thống nhất gồm nhiều ngành dự trữ thuộc nhiều Bộ, ngành khác nhau,
dưới sự chỉ đạo điều hành tập trung của chính phủ; bao gồm:
- Cục dự trữ quốc gia trực tiếp quản lý dự trữ lương thực, thực phẩm,
kim khí, xe máy và thiết bị…
- Bộ thương mại trực tiếp quản lý xăng dầu dự trữ quốc gia ( nay là Bộ
công thương).
- Bộ quốc phòng trực tiếp quản lý dự trữ vật tư, thiết bị chuyên dùng
cho quốc phòng.
- Bộ nông nghiệp và phát triển nông thổntực tiếp quản lý dự trữ vật tư
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
- Bộ y tế trực tiếp quản lý vật tư thiết bị y tế.
- Bộ công nghiệp trực tiếp quản lý dự trữ thuốc nổ, vật liệu nổ công
nghiệp.
- Bộ công an trực tiếp quản lý dự trữ vật tư thiét bị chuyên dung cho
ngành an ninh…
- Đài tiếng nói Việt Nam trực tiép quản lý vật tư dự trữ chuyên dung
cho ngành phát thanh…
- Đài truyền hình Viêt Nam trực tiếp quản lý vật tư thiết bị chuyên dung
cho truyền hình.
- Ban cơ yếu chính phủ trực tiếp quản lý dự trữ vật tư chuyên dung cho
ngành cơ yếu.
Cũng theo nghị định 66/CP cơ cấu tổ chức của cục bao gồm:
- Cơ quan giúp việc cục trưởng:

Ban chính sách Dự trữ quốc gia (nay là ban pháp lệnh)
Ban kế hoạch
Ban xây dựng cơ bản
Ban kỹ thuật bảo quản
Ban tài chính kế toán
Ban tổ chức cán bộ
Thanh tra
Văn phòng
- Các chi cục dự trữ: gồm có 19 chi cục được tổ chức theo vùng kinh tế
trên địa bàn cả nước, trực thuộc các chi cục có 118 tổng kho dự trữ,
với 243 điểm kho gồm 637200tấn kho chứa lương thực và 50000mét
vuông kho chứa vật tư các loại.
- Các đơn vị sự nghiệp thuộc cục:
Trung tâm Khoa học công nghệ bảo quản
Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ
- Các doanh nghiệp nhà nước thuộc cục:
Công ty vận tải dịch vụ
Xí nghiệp xây dựng, vận tải và kinh doanh dịch vụ Đà Nẵng.
Trong năm 2004 theo pháp lệnh Dự trữ quốc gia, nghị đínho
196/2004/NĐ-CP của chính phủ phân công quản lý ngành hàngdự trũ quốc
gia cho các bộ ngành:
- Bộ tài chính (Cục dự trữ quốc gia) quản lý hàng dự trữ lương thực, vật
tư thiết bị cứu hộ, cứu nạn, vật tư động viên công nghiệp.
- Bộ công thương quản lý hàngnhiên liệu (xăng, dầu, diesel, dầu hỏa,
madut)
- Bộ nông nghiệp vàphát triển nông thôn quản lý muối ăn, thuốc bảo vệ
thực vật, thuôc thú y, giống cây trồng.
- Bộ quốc phòng quản lý một số vật tư dự trữ chuyên dung cho công
nghiệp quốc phòng, thiết bị chuyên dụng đặc chủng cho quốc phòng.
- Bộ công an quản lý một số vật tư máy móc, thiết bị, phương tiện đặc

chủng chuyên dùng cho công an.
- Bộ y tế quản lý một số nguyên liệu quan trọng để sản xuất thuốc,
thuốc và thiết bị y tế thiết yếu để phòng, chữa bệnh cho người.
- Bộ giao thông vận tải quản lý ray, dầm cầu đường sắt, nhiên liệu dung
cho máy bay dân dụng.
- Bộ công thương quản lý vật liệu nổ công nghiệp, hạt giống bông.
- Ban cơ yếu chính phủ quản lý vật tư máy móc, thiêt bị, phương tiện
chuyên dùng cho ngành cơ yếu.
- Đài tiếng nói Việt Nam quản lý hệ thống thu phát thanh đồng bộ
- Đài truyền hình Việt Nam quản lý hệ thông thu phát hình đồng bộ
Năm 2006, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngnàh dự trữ quốc
gia, chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng Huân chương Hồ Chí Minh
cho ngành dự trữ do đã lập được nhiều thàng tích xuất sắc.
2.1.2 Đặc điểm về lao động, cơ sở vật chất của Cục dự trữ quốc gia.
Lao động trong ngành dự trữ quốc gia là những người được tuyển chọn
rất kĩ càng, đội ngũ lãnh đạo cần có trình độ, cán bộ bảo quản phải là người
có kinh nghiệm, trình độ, hiểu biết về các mặt hàng dự trữ… Đến nay ngành
dự trữ đã có được đội ngũ cán bộ lành nghề, được đào tạo bài bản, đội ngũ
lãnh đạo có trình độ, đúng đắn trong các quyết định.
Lao động trong ngành dự trữ được tuyển chọn rất kĩ về trình độ cũng như
về trình độ chính trị. Điều kiện tuyển dụng của cục dự trữ rất chặt chẽ.
Người muốn được tuyển dụng cần có những điều kiện sau:
- Người muốn được tuyển dụng phải có đủ các điều kiện quy định tại
điều 6 của nghị định 95/1998/NĐ-CP của chính phủ.
- Về lý lịch: bản sơ yếu lý lịch phải có xác nhận của UBND xã,
phường, thị trấn nơi cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó đang
công tác, học tập.
- Về văn bằng chứng chỉ: người đăng ký dự thi nộp đủ văn bằng, chứng
chỉ theo yêu cầu của ngạch thi (bản sao phải có công chứng). Khi
được tuyển dụngphải xuất trình bản chính để kiểm tra.

- Giấy chứng nhận đủ sức khẻo để công tác do cơ quan y tế có thẩm
quyền cấp (bệnh viện cấp huyện, quận trở lên).
- Về tuổi đời dự tuyển: quy định chung đới với nam phải đủ từ 18 tuổi
đến 40 tuổi, đối với nữ từ 18 đến 35 tuổi. Đối với người dự tuyển đã là
sĩ quan trong lực lượng vũ trang (quân đội và công an nhân dân), viên
chức tổng doanh nghiệp nhà nước, Bí thư Đảng ủy, chủ tịch UBND,
phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn thì tuổi dự tuyển vào công
chức có thể cao hơn nhung tối đa cũng không quá 45 tuổi đối với nam,
40 tuổi đối với nữ.
- Về quốc tịch: người được tuyển dụng vào công chức phải là người chỉ
mang 01 quốc tịch Việt Nam.
- Trường hợp những người đang công tác ở các doanh nghiệp nhà nước
hoặc ở lực lượng vũ trang khi chuyển về khu vực hành chính sự
nghiệp được thực hiện như sau:
• Những viên chức đã làm việc ở doanh nghiệp nhà nước được tuyển
dụng từ trước khi ban hành Nghị định số 26/Cp ngày 23/5/1993 của
chính phủ hoặc những người công tác ở lực lượngvũ trang từ trước khi
có Nghị định 25/CP ngày 23/5/1993 của chính phủ mà được tiếp nhận
vào cơ quanthuộc khu vực hành chính sự nghiệp thì phải đáp ứng yêu
cầu tiêu chuẩn nghiệp vụ của ngạch chuyển đến.

×