Văn bản Chiếu cầu hiền có 6 đoạn với bố cục ba phần: đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết-đây là bố cục
quen thuộc của một văn bản nghị luận ( Phần một: đoạn 1; Phần 2: đoạn 2, 3, 4, 5; Phần 3: đoạn 6). Phân
tích mỗi đoạn như thế sẽ có một ý nghĩa riêng. Những ý nghĩa đó vẫn còn mang giá trị đời sống sâu sắc
dù văn bản chỉ là chứng tích của “một thời vang bóng”. Vì thế, vấn đề đặt ra ở đây là đi tìm mối liên hệ
về mặt ý nghĩa của văn bản với cuộc sống hiện đại hôm nay mà không làm xã hội hoá một tác phẩm văn
học hay và đẹp. Tôi đã nói với học sinh của mình rằng trên con đường khám phá cái hay, cái đẹp của một
tác phẩm văn chương, nếu đi đến tận cùng ta sẽ gặp được cuộc sống của chính ta trong đó. Và tất nhiên
con đường tối ưu để đến được với những giá trị tận cùng đó là tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại. Với
Chiếu cầu hiền, chúng ta bắt đầu từ những đặc sắc nghệ thuật của một văn bản chính luận.
Thành công nhất về mặt nghệ thuật của tác phẩm này có lẽ là ở nghệ thuật lập luận với những lí lẽ rất chặt
chẽ, sắc sảo và lập trường chính trị vững vàng của tác giả. Ngô Thì Nhậm vốn là một sĩ phu Bắc Hà, nay
lại thay mặt vua Quang Trung kêu gọi sự nhập cuộc của các sĩ phu Bắc Hà – những trí thức của triều đại
Lê – Trịnh đã bị nhà Tây Sơn lật đổ. Điều đó thật khó vô cùng ! Thế nhưng trong mỗi câu, mỗi đoạn, mỗi
phần của Chiếu cầu hiền ta thấy được rằng Ngô Thì Nhậm đã vượt qua được những trở ngại đầy khó khăn
đó ! Giá trị thuyết phục của văn bản cũng đã vượt ra khỏi giới hạn của một thời đại cụ thể ấy.
1. Phần một (đoạn 1):
Đoạn văn mở đầu văn bản được trình bày bằng thao tác so sánh với hai lập luận:
-Lập luận 1: “ Người hiền như ngôi sao sáng trên trời, sao sáng hướng về ngôi Bắc Thần”, suy ra “người
hiền là sứ giả cho thiên tử’.
-Lập luận 2: Sao che mất ánh sáng thì sẽ mất đi vẻ đẹp, người hiền mà không đem tài ra dùng là trái mệnh
trời.
Chung quy lại, mọi lập luận đều để khẳng định một điều: sao muốn đẹp phải tỏa sáng, người hiền tài
muốn được công nhận phải cống hiến tài năng đó cho nước, cho đời. Bằng cách này Ngô Thì Nhậm muốn
nhắn gửi đến người hiền tài sứ mệnh của chính họ. Nhận thức đúng sứ mệnh này rồi, thì tự họ ắt biết sẽ
phải làm gì. Nghệ thuật thuyết phục tế nhị mà thật sắc sảo !
Hiền tài ngày xưa là thế, hiền tài ngày nay thì sao? Mở rộng vấn đề, hôm nay không chỉ người học rộng
tài cao mới có sứ mệnh của người hiền tài mà tất cả mọi người có năng lực đều cần phải biết rõ mình nên
làm gì. Một cá nhân tồn tại khép kín, rụt rè, nhút nhát hoặc là ích kỉ, tự phụ …thì khó mà khẳng định
được vị thế của mình trong xã hội. Vì thế người hiền không thể hiện tài năng giúp ích cho đời không thể
gọi là người hiền. Nên chăng từ đây chúng ta hãy tự rút ra cho mình một bài học về cách sống ở đời đó là
cách sống tự tin, bản lĩnh và cống hiến hết mọi khả năng của mình. Đó mới là ý nghĩa của cuộc sống con
người.
2. Phần hai(đoạn 2, 3,4,5).
Phần hai của văn bản gồm có bốn đoạn, trong đó đoạn thứ hai như là một điểm tựa để tác giả bẩy đoạn
3,4,5 lên cao nhằm thực hiện mục đích thuyết phục, kêu gọi hiền tài ra giúp vua, giúp nước. Điểm tựa ấy
bắt nguồn từ những sự việc của quá khứ gần: “Trước đây thời thế suy vi”. Thời thế suy vi là thời nào? Tại
sao đó lại là thời suy vi? Đặt câu hỏi này sẽ đưa người đọc ngược dòng lịch sử, trở về với mạt thời Lê
Trịnh bệ rạc, thối nát. Hiền tài như ngôi sao bị che khuất, không được trọng dụng, tôn kính. Vì thế cách
hành xử tích cực nhất của họ lúc này là giữ gìn lấy khí tiết trong sạch của một nhà nho chân chính bằng
cách trốn tránh, ẩn dật hoặc là dè dặt, giữ mình ở chốn quan trường. Thời thế không cho phép họ tự thể
hiện mình chứ không phải là họ tự vùi lấp mình.
Đọc-hiểu đoạn văn này, chúng ta không chỉ biết đồng cảm với cách ửng xử của các hiền tài trước đây mà
còn biết học ở Ngô Thì Nhậm cách nhìn nhận, đánh giá con người. Tại sao đoạn một, tác giả khẳng định
sứ mệnh của người hiền tài như thế mà ở đoạn hai, tác giả lại có vẻ ủng hộ cách ửng xử của họ trong mạt
thời Lê Trịnh như vậy? Bởi vì ông đã nhìn họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh sống (hoàn cảnh rộng-lịch
sử xã hội). Chỉ những nhân tài kiệt xuất như Quang Trung Nguyễn Huệ… mới có khả năng tạo ra thời
thế, còn như phần lớn con người đều ít nhiều bị chi phối bởi hoàn cảnh lớn của xã hội. Cách ứng xử của
các bậc hiền tài trước đây như vậy cũng có nghĩa là họ đã làm chủ được hoàn cảnh hẹp (hoàn cảnh trực
tiếp) của bản thân mình. Tóm lại, bài học mà chúng ta học được ở đây chính là cách đánh giá con người,
phải nhìn nhận họ trong mối quan hệ qua lại với hoàn cảnh sống để có thái độ đúng mực.
Ở đoạn văn thứ ba, tác giả thay lời vua để thổ lộ những tâm tư sâu kín, đó là nỗi niềm canh cánh chờ
mong sự xuất hiện của hiền tài (“ghé chiếu lắng nghe”, “ ngày đêm mong mỏi”). Hơn thế nữa, hai câu hỏi
tu từ liên tiếp: “Hay trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng? Hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự
vương hầu chăng?”-cho thấy sự day dứt, trăn trở khôn nguôi trong lòng vua Quang Trung lúc bấy giờ.
Giọng văn bình dị như một lời tâm tình làm gần hơn khoảng cách giữa vua với các hiền tài-“nguyên khí
quốc gia”(Thân Nhân Trung). Qua đó, ta thấy rõ ràng một điều rằng vua Quang Trung là người rất coi
trọng hiền tài. Như vậy người hiền tài sẽ không lo sợ bị che lấp tài năng hoặc tài năng bị quên lãng, bỏ rơi
như thời buổi suy vi. Lập luận như thế là đã rất chặt chẽ và thuyết phục. Nhưng tác giả còn tăng mức độ
thuyết phục cao hơn ở đoạn văn tiếp theo.
Đoạn bốn là những cơ hội của người hiền (thời cơ của người hiền thực sự đã đến) đó là:
-Đất nước vừa đại định, công việc mới mở ra, còn nhiều việc phải lo toan, khắc phục.
-Dân còn mệt nhọc, giáo hóa vua chưa thấm nhuần khắp nơi. Trọng trách quốc gia không chỉ mình vua
gánh vác được.
Tất cả đều là những mảnh đất trống cho người hiền thể hiện tài năng của mình. Cơ hội đã đến. Tác giả
không hô hào, kêu gọi mà đặt ra một câu hỏi day dứt: “Huống nay trên dải đất văn hiến rộng lớn như thế
này, há trong đó lại không có lấy một người tài danh nào ra phò vua giúp cho chính quyền buổi ban đầu
của trẫm hay sao?” Như vậy, một mặt tác giả chỉ cho người hiền thấy được thời cơ, vận hội mới, qua đó
đề cao vai trò của họ trong việc trị nước; mặt khác lại đánh vào tâm lý, khơi gợi lòng tự trọng của họ. Lời
văn nhẹ nhàng mà lí lẽ, lập luận thì sắc sảo, có sức thuyết phục cao-vừa lay động chí, vừa chuyển tâm ý
của người hiền tài.
Đoạn năm là bước chuyển ý quan trọng, tăng cấp tối đa sự thuyết phục bằng một chính sách cầu hiền đặc
biệt:
-Ai có tài cho phép tự trình bày công việc;
-Cho phép các quan tự tiến cử;
-Người hiền tự tiến cử mình.
Chính sách cụ thể, rõ ràng, công bằng, dân chủ – mở rộng cửa cho người hiền tài vào cung giúp vua, giúp
nước.
Có thể nói rằng trong phần hai này, nghệ thuật thuyết phục của Ngô Thì Nhậm không chỉ độc đáo mà còn
rất tài năng. Lời lẽ thiết tha, lí lẽ sắc sảo, lập luận chặt chẽ. Hòa quyện trong mỗi lời văn là tình và lí: một
bên là sự cần thiết của nước nhà, một bên là tấm lòng ưu ái canh cánh của nhà vua dành cho các bậc hiền
tài. Bài học mà chúng ta có được ở đây có lẽ là bài học về cách ứng xử ở đời: lấy chí để thuyết phục chí,
lấy tâm để thuyết phục tâm, lấy sự công bằng, dân chủ để thuyết phục nhân. Đó là nghệ thuật cầu hiền của
Ngô Thì Nhậm và vua Quang Trung, nhưng cũng là nghệ thuật ứng xử của con người trong mọi thời đại.
3. Phần ba (đoạn 6 )
Phần kết của văn bản tác giả nhấn mạnh lại thời cơ, vận hội của người hiền. nó có giá trị như một lời nhắc
nhở với những hiền tài rằng cơ hợi lập danh, lập thân của họ thực sự đã đến, họ cần phải chứng tỏ chí
nam nhi của mình trước lịch sử. Lời kêu gọi cuối cùng sôi nổi, nhiệt thành khuyến khích tinh thần của
người hiền một cách sâu sắc.
Quay trở lại với hoàn cảnh và mục đích ra đời của văn bản Chiếu cầu hiền, ta thấy rõ một điều: nếu tác
giả viết không khéo, nói không thông thì hoặc sẽ phản tác dụng, hoặc bản thân bị chê cười. Vì sao vậy ?
Các trí thức Bắc Hà cũng như những trí thức của các triều đại phong kiến khác, họ đều trưởng thành từ
cửa Khổng sân Trình, nghĩa là đều nhập tâm lời dạy của Nho gia rằng “trung thần không thờ hai chủ”.
Bản thân Ngô Thì Nhậm đã không tuân thủ tuyệt đối lời dạy đó, nay lại ra lời kêu gọi họ ra đầu quân cho
nhà Tây Sơn – nếu không thuyết phục được họ thì lại dễ bị họ gọi là bất trung ! Thêm nữa, Ngô Thì
Nhậm vốn xuất thân chỉ là một sĩ phu, nay lại đi nói lí lẽ với những người thuộc tầng lớp trí thức liệu có
khiến họ tự ái chăng ? Nhưng Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm đã rất thành công. Nguyên nhân là do
đâu ? Tài năng của ông ? Thành tâm của ông ? Tất cả những yếu tố đó còn phải cộng thêm một điều rất
quan trọng nữa, đó là nghệ thuật ứng xử tài tình, khéo léo, tinh tế của ông. Vua Quang Trung đã không
nhầm khi đánh giá cao năng lực và giao cho Ngô Thì Nhậm trọng trách chấp bút thay mình để cầu hiền
trong thiên hạ. Và chúng ta hôm nay không chỉ là ghi nhận mà còn phải biết cách thu nhận từ bậc hiền tài
này những bài học quý báu cho bản thân mình.
Vĩ thanh:
Triều đại Tây Sơn không còn, nhưng lịch sử thì không thể xóa nhòa. Chiếu cầu hiền mà Ngô Thì Nhậm
đã chấp bút thay vua Quang Trung ngoài ý nghĩa chính trị của một thời nó còn mang giá trị văn hóa của
mọi thời. Những bài học rút ra từ văn bản này thực sự là những điều rất tâm đắc của bản thân khi đọc và
dạy nó, vì thế tôi tin vào sự trường tồn của tác phẩm trước những thách thức nghiệt ngã của thời gian.
Trong kí ức của loài người thì vào buổi trời đất tối tăm, Đan Cô đã xé toang lồng ngực, thắp lửa trái tim
mình sáng rực soi đường cho mọi người đi tìm cuộc sống mới; đến nay Đan Cô không còn nhưng trong
tiềm thức con người, họ vẫn đi theo thứ ánh sáng đó, hơn nữa họ còn biết cách thắp sáng con đường mình
đi. Thiết nghĩ người giáo viên hôm nay cũng vậy, mỗi thầy cô cũng sẽ là một Đan Cô, phải biết thắp sáng
những nẻo đường bằng cách cháy hết trái tim mình trên những trang giáo án, trên bục giảng và trước
những trang đời của các thế hệ học trò. Vì thế trước khi mở lối để học sinh tiếp nhận được những giá trị
của văn bản Chiếu cầu hiền, nếu bản thân mỗi giáo viên tự coi mình là học trò hậu thế của Ngô Thì Nhậm
và là học trò của chính mình (tiếp thu và ứng dụng những những bài học mà mình sẽ dạy cho trò) thì tôi
tin chúng ta cũng sẽ thuyết phục được những học sinh thế hệ 8x, 9x yêu thích môn Văn. Ánh sáng từ trái
tim sẽ đi đến trái tim, huống chi ta còn có cẩm nang là những bài học xử thế, bài học về nghệ thuật thuyết
phục của Chiếu cầu hiền.