Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Phân tích luận điểm của ăngghen “chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học phải đặt nó trên mảnh đất của hiện thực” làm rõ ý nghĩ của luận điểm trên đối với việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.52 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI HIỆN THỰC.......................................................................................2
1.1. Nguyên lí chủ nghĩa Mác- Lenin về chủ nghĩa xã hội hiện thực.......2
1.1.1. Quan niệm của C.mac và Enghen về chủ nghĩa xã hội hiện thực
...............................................................................................................2
1.1.2. V.I. Lênin vận dụng và tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa
học.........................................................................................................3
1.2. Mơ hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới................................5
1.2.1. Thực trạng...................................................................................5
1.2.2. Nội dung......................................................................................7
CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC......9
2.1.

Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực:...............9

2.2.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với

khoa học..................................................................................................12
CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TẠI VIỆT NAM
.....................................................................................................................15
3.1. Việt Nam hướng đến chủ nghĩa khoa học........................................15
3.2. Bài học kinh nghiệm được rút ra......................................................16
PHẦN III: KẾT LUẬN.................................................................................18


PHẦN I: MỞ ĐẦU


Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ những lý
thuyết không tưởng trở thành một lí luận khoa học. q trình thâm nhập lý
luận khoa học đó vào thực tiễn vào đời sống của công nhân và nhân dân lao
động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở thành hệ thống của thế giới với
nhiều thành tựu in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của
xã hội loài người.
Tuy vào những thấp niên cuối thế kỉ XX do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng. Tuy nhiên đây chỉ
là sự tạm thời thối trào của chủ nghĩa xã hội.
Để tìm ra lời lí giải khoa học đúng đắn về hiện thực chủ nghĩa xã hội
thì cần phải dựa trên cơ sở nắm vững những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa
Mác- Lênin và vận dụng sáng tạo những ngun lí đó vào việc phân tích bối
cảnh cụ thể trong thời đại ngày nay, tơi đã lựa chọn đề tài “ Phân tích luận
điểm của Ăngghen: “Chủ nghĩa xã hội muốn trở thành khoa học phải đặt
nó trên mảnh đất của hiện thực”. Làm rõ ý nghĩ của luận điểm trên đối
với Việt Nam hiện nay ” để có cái nhìn sâu và rộng hơn.


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
HIỆN THỰC
1.1. Nguyên lí chủ nghĩa Mác- Lenin về chủ nghĩa xã hội hiện thực
1.1.1. Quan niệm của C.mac và Enghen về chủ nghĩa xã hội hiện thực
Những năm 40 thế kỉ 19, Mac (K. Marx) và Enghen (F. Engels) đã tiếp
thu những yếu tố lí luận của CNXH khơng tưởng, xây dựng học thuyết xã hội
chủ nghĩa trên quan điểm duy vật lịch sử và lí luận về giá trị thặng dư, từ đó
xác lập học thuyết về CNXH khoa học. Theo nghĩa rộng, CNXH khoa học
cũng đồng nghĩa với chủ nghĩa Mac. Theo nghĩa hẹp, CNXH khoa học chỉ là
một trong ba bộ phận hợp thành của chủ nghĩa Mac. Theo Mac và Enghen,

CNXH khoa học trước hết là một trào lưu tư tưởng, trên cơ sở đó xây dựng
thành chế độ xã hội. Xuất phát từ sự phân tích chế độ tư bản chủ nghĩa tại các
nước phát triển nhất ở Châu Âu giữa thế kỉ 19, Mac và Enghen cho rằng mâu
thuẫn giữa tình hình xã hội hố sản xuất và sự hạn chế của chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất tất yếu đưa đến sự bùng nổ xã hội, xoá bỏ chủ nghĩa tư
bản, chuyển lên CNXH. Giai cấp vơ sản là lực lượng có tổ chức nhất, tiên tiến
nhất, đại biểu cho phương thức sản xuất mới, là người tiến hành cuộc cách
mạng xã hội và xây dựng chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, trong đó đặc
trưng cơ bản là xố bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, giai cấp vô sản nắm
lấy tồn bộ cơng cụ sản xuất dưới hình thức sở hữu cơng cộng, xố bỏ giai
cấp và bóc lột giai cấp, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát triển lực lượng sản xuất.
CNXH khoa học cũng đồng nghĩa với chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Chủ nghĩa cộng sản khoa học vạch rõ chủ nghĩa cộng sản có hai giai đoạn:
giai đoạn thấp là xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Sự khác nhau cơ bản là trong giai đoạn thấp vẫn còn những tàn dư của
pháp quyền tư sản, vẫn cần nhà nước để bảo vệ chế độ công hữu và sự phân


phối sản phẩm, vẫn còn phân phối theo lao động. Đến giai đoạn cao, lực
lượng sản xuất được phát triển ở mức cao nhất, của cải dồi dào nhất, thực hiện
phân phối theo nhu cầu, làm theo nặng lực. Những người sáng lập CNXH
khoa học cịn tiên đốn rằng đến giai đoạn cao của CNXH con người được
phát triển toàn diện, xã hội lúc đó là một cộng đồng tự do, bình đẳng, sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người, khơng
cịn nhà nước, khơng cịn giai cấp.
Đó thật sự là một xã hội lí tưởng, cao đẹp nhất trong lịch sử loài người.
Theo chủ nghĩa Mac, từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH phải trải qua một thời kì
quá độ, trong thời kì đó tất yếu phải thực hiện chun chính vơ sản. Thời kì
đó dài hay ngắn là tuỳ thuộc ở trình độ trưởng thành của giai cấp vơ sản - sự

phát triển của lực lượng sản xuất. Về sau Lênin cho rằng điều kiện quan trọng
nhất để CNXH có thể thắng chủ nghĩa tư bản là CNXH phải có năng suất lao
động cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga (1917) đã biến CNXH từ
học thuyết lí luận thành hiện thực. Khái niệm CNXH hiện thực xuất hiện từ
những năm 70 thế kỉ 20, là để nói về xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng
trong thực tế ở Liên Xô và Đông Âu.

1.1.2. V.I. Lênin vận dụng và tiếp tục phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
Trong hoàn cảnh lịch sử mới (1870-1924) V.I. Lênin (1870-1924) là
người đã kế tục một cách xuất sắc sự nghiệp cách mạng và khoa học của C.
Mác và Ph. Ăngghen. Những đóng góp to lớn của Người vào sự vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học có thể được chia thành hai thời
kỳ cơ bản: thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười và thời kỳ từ sau Cách
mạng Tháng Mười đến khi Người từ trần.
- Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học


thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười Nga Trên cơ sở kế thừa và vận dụng
sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, phân tích và
tổng kết một cách nghiêm túc các sự kiện lịch sử diễn ra trong đời sống kinh
tế - xã hội của hoàn cảnh lịch sử mới, V. I. Lênin phát hiện và trình bày một
cách có hệ thống những khái niệm, phạm trù khoa học phản ánh những quy
luật, những thuộc tính bản chất chi phối sự vận động biến đổi của đời sống
xã hội trong quá trình chuyển biến tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là các tri thức về đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân, về các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung
hoạt động của Đảng; về cách mạng xã hội chủ nghĩa và chun chính vơ sản,
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất yếu cho sự chuyển
biến sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề mang tính quy luật của

cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân tộc, đoàn kết và liên minh
của giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp lao động khác; những
vấn đề về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng xã
hội chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc. Bên cạnh hoạt động lý luận,
V.I. Lênin đã từng bước lãnh đạo Đảng của giai cấp công nhân Nga tập hợp
lực lượng đấu tranh chống chế độ chun chế Nga hồng, tiến tới giành
chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga.
- V.I. Lênin vận dụng và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học thời kỳ
sau Cách mạng Tháng Mười
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, do yêu cầu của công cuộc
xây dựng chế độ mới, V. I. Lênin đã tiến hành phân tích làm rõ nội dung, bản
chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định cương lĩnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bắt tay tổ chức các chính sách kinh tế, xác định
chính sách kinh tế mới nhằm sử dụng và học tập các kinh nghiệm tổ chức,


quản lý kinh tế của chủ nghĩa tư bản để cải tạo nền kinh tế tiểu nông lạc hậu
của nước Nga Xôviết.
Cũng trong thời kỳ này, V. I. Lênin đã viết nhiều tác phẩm kinh điển
trong đó nêu ra và luận giải cho một loạt những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa
xã hội khoa học, đấu tranh chống lại mọi trào lưu của chủ nghĩa cơ hội - xét
lại, chủ nghĩa giáo điều và bệnh "tả khuynh" trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
Cùng với những cống hiến hết sức to lớn cả về lý luận và chỉ đạo thực
tiễn cách mạng, V. I. Lênin còn nêu một tấm gương sáng ngời về lịng trung
thành vơ hạn với lợi ích của giai cấp cơng nhân, với lý tưởng cộng sản do C.
Mác, Ph. Ăngghen phát hiện và khởi xướng; đồng thời Người cũng luôn phê
phán bệnh giáo điều để phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học.
Những điều đó đã làm cho V. I. Lênin trở thành một thiên tài khoa học và một

lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tồn thế giới.
1.2. Mơ hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới.
1.2.1. Thực trạng
Cách mạng Tháng Mười thành cơng đã hiện thực hóa lý tưởng về một
xã hội mới – XHCN, mà trước đó chỉ là những ước mơ.
Trước khi loài người được chứng kiến về sự tồn tại hiện thực của một
chế độ xã hội mà ở đó giai cấp cơng và những người lao động làm chủ, chủ
động tạo dựng cho mình một cuộc sống ấm no, bình đẳng, thì trong lịch sử
phát triển xã hội loài người cũng đã xuất hiện các tư tưởng biểu hiện nguyện
vọng muốn thiết lập một xã hội khơng có tình trạng người bóc lột người và
các hình thức bất bình đẳng khác về xã hội. Lênin đã viết: " Đã lâu rồi, đã
hàng bao thế kỷ nay, thậm chí hàng ngàn năm nay, nhân loại mong ước thủ
tiêu "lập tức" mọi sự bóc lột" .


Nhưng những mong muốn, ước vọng của tầng lớp lao động trong các
xã hội cũ vẫn chỉ là những điều xa vời, khơng thực tế, họ khơng tìm ra được
con đường, cách thức để thực sự giải phóng mình khỏi áp bức, bất cơng. Cũng
có khơng ít các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh, có cả cuộc cách mạng xã hội
nhằm xóa bỏ xã hội cũ, thay đổi cuộc sống, song hầu như đã thất bại, hoặc khi
thành công lại vẫn không vượt ra khỏi vết xe cũ, không từ bỏ được cái căn
nguyên của chế độ người bóc lột người, của bất bình đẳng, đó là chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Chính vì vậy chế độ phong kiến phủ định chế
độ chiếm hữu nô lệ, rồi chế độ TBCN phủ định chế độ phong kiến, đều là nấc
thang trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại, song đó cũng lại
chính là nấc thang bóc lột đa dạng hơn, tinh vi hơn. Và khát vọng về một xã
hội cơng bằng, bình đằng, khơng cịn người bóc lột người của những con
người lao động càng cháy bỏng hơn.
Cách mạng Tháng Mười thành cơng, chính quyền của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động được thiết lập, những tàn tích của chế độ cũ Sa

hồng bị xóa bỏ, giai cấp vơ sản và nhân dân lao động nước Nga thoát khỏi
ách áp bức thống trị của chính quyền phong kiến chuyên chế và tư sản phản
động. Người dân bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống của người làm chủ xã
hội.
Trong khi nước Nga đang xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thì các
phần tử bạch vệ với sự giúp sức của 14 nước đế quốc đã ra sức lật đổ chính
quyền Xơ Viết. Trước tình hình đó, nước Nga Xơ Viết đã áp dụng chính sách
cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan
trọng nhất của bon tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá
cách mạng khác, xây dựng Hồng quân công nông. Cuộc nội chiến Nga đã
diễn ra từ đầu năm 1918 đến tháng 11 năm 1920 khi Hồng quân đã đánh tan
đội quân của. Cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi thuộc về chính quyền Xơ


Viết. Nhân dân Xô Viết lại tiếp tục bắt tay vào sự nghiệp xây dựng mơ hình
chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới.
Sau 7 năm chiến tranh liên miên, nền kinh tế quốc dân bị tàn phá
nghiêm trọng. cộng vào đó là tình hình chính trị khơng ổn định. Các lực lượng
phản cách mạng điên cuồng chống phá gây bạo loạn ở nhiều nơi. Chính sách
cộng sản thời chiến đã lạc hậu kìm hãm nền kinh tế, khiến nhân dân bất bình.
Vì thế Nước Nga Xơ viết lâm vào khủng hoảng. trước tình hình đó vào tháng
3/1921 Đảng Bơn-sê-vích quyết định thực hiện chính sách mới (NEP) do Lênin đề xướng.
1.2.2. Nội dung
Trong nông nghiệp ban hành thuế nông nghiệp.
Trong công nghiệp: Nhà nước khôi phục công nghiệp nặng, tư nhân
hóa những xí nghiệp dưới 20 cơng nhân. Khuyến khích nước ngồi đầu tư vào
nước Nga.Thực chất đây là quá trình chuyển nền kinh tế do nhà nước độc
quyền sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do nhà nước kiểm sốt.
Chính sách này đã có tác dụng hết sức to lớn. Thứ nhất chính sách kinh tế mới
đã thúc đẩy kinh tế quốc dân chuyển biến rõ rệt, giúp nhân dân Xơ viết vượt

qua khó khăn, hồn thành khơi phục kinh tế. Thứ hai đây là bài học đối với
công cuộc xây dựng của một số nước xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận định rằng mơ hình chủ nghĩa xã hội với chính sách thực
hiện nền kinh tế mới (NEP) chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình thức rất
thích hợp để nước Nga Xơ Viết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp
kinh tế sau chiến tranh và ngăn chặn sự nảy sinh tự phát của nền kinh tế hàng
hóa nhỏ- mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản.Sở dĩ chủ nghĩa tư bản
nhà nước dưới điều kiện chun chính vơ sản có ý nghĩa quan trong như vậy
là vì :Thứ nhất chủ nghĩa tư bản nhà nước là một thứ chủ nghĩa tư bản có liên
quan đến nhà nước. Mặc khác nhà nước mà nước nga xây dựng nên là nhà


nước của giai cấp vơ sản vì vậy thơng qua việc sử dụng tư bản nhà nước giai
cấp vô sản có thể học tập kế thừa và phát huy có chọn lọc những thành tựu
của chủ nghĩa tư bản; Thứ hai nhà nước vơ sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư
bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, cơng cụ, biện pháp nhằm
điều tiết mọi hoạt động của các xí nghiệp tư bản cịn tồn tại trong thời kì q
độ. Nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng vừa cải tạo bằng phương pháp hịa
bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý
nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước được coi là một trong những phương
thức phương tiện con đường có hiệu quả trong việc thúc đảy chủ nghĩa xã hội
hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội mà kết quả
căn bản của sự xã hội hóa này thể hiện ở việc phát triển ngày càng mạnh mẽ
một nền sản xuất hàng hóa quá độ xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế mới chưa thực hiện được bao lâu thì chiến tranh thế giới
thứ hai nổ ra . trong bối cảnh ấy, làm sao nhanh chóng biến nước Nga thành
một cường quốc, vừa xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa vừa chuẩn bị
đối phó với nguy cơ chiến tranh. Giải quyết vấn đề này trong thời gian ngắn
nhất là vấn đề sống còn đặt ra đối với vận mệnh của Tổ quốc và chế độ xã hôi
chủ nghĩa ở nước Nga. Để giải quyết nhiệm vụ lịch sử khó khăn trên nhà

nước Nga Xơ Viết đã áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao, một cơ chế
có thể thực hiện được khi chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Thực tế Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa với thời ggian chưa đầy 20 năm.
Có thể khẳng định rằng trong một điều kiện lịch sử đặc biệt như vậy chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có thể cho phép phát huy cao độ tinh thần anh dũng,
hy sinh của hàng trăm triệu quần chúng nhân dân, mới có thể thực hiện được
những kì tích như vậy.



CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
2.1.

Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực:
Như V.I. Lênin khẳng định, tính phức tạp trong sự vận động của lịch sử

nhân loại, song có thể chia thời đại của chúng ta từ Cách mạng Tháng Mười
tới nay thành bốn giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất: Từ sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917 tới kết
thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai năm 1945.Giai đoạn này là giai đoạn chủ
nghĩa xã hội mới hình thành trên phạm vi một số nước như Liên Xô, Mông
Cổ. Cuộc Cách mạng Tháng Mười là cuộc cách mạng đầu tiên trong lịch sử
đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ, làm thuê trở thành những người
làm chủ đất nước. Sức mạnh của chế độ mới đã giúp nhân dân lao động Nga
đứng vững trong cuộc nội chiến, đập tan âm mưu can thiệp của chủ nghĩa đế
quốc. Với khí thế lao động của những con người được giải phóng, thơng qua
chính sách kinh tế mới, thơng qua con đường hợp tác hố trong nơng nghiệp,
cơng nghiệp hố đất nước, sau 20 năm Liên Xô đã tạo ra sự phát triển mạnh
mẽ trong nền kinh tế. Đó là những nguyên nhân giúp cho nhân dân Liên Xô

đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cứu nhân
loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phátxít.
Giai đoạn thứ hai: Từ sau năm 1945 tới đầu những năm 1970.
Đây là giai đoạn chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hàng loạt các nước xã hội chủ
nghĩa ra đời, nhất là từ sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa xuất hiện,
cùng với những thành tựu to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa về
kinh tế, xã hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật, v.v., hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới đã trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hồ bình,
tiến bộ trên thế giới, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động
quốc tế.


Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ
nghĩa đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã
hội trong các nước tư bản chủ nghĩa, đã động viên nhân dân các nước thuộc
địa đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong những năm 60 thế kỷ XX,
khoảng 100 quốc gia giành được độc lập dân tộc với những mức độ khác
nhau.
Bên cạnh những kết quả đó, trong giai đoạn này, trong phong trào cộng
sản và cơng nhân quốc tế đã có những bất hồ. Trong Di chúc của Hồ Chí
Minh, phần về phong trào cộng sản thế giới, Người viết: "... tôi càng tự hào
với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì
tơi càng đau lịng bấy nhiêu vì sự bất hồ hiện nay giữa các đảng anh em!"
Giai đoạn thứ ba: Từ cuối những năm 1970 đến cuối những năm 1980.
Trong giai đoạn này ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa không chú ý tới công tác
xây dựng đảng, nhiều kẻ cơ hội chui vào hàng ngũ đảng cộng sản. Một số
người mắc vào tệ sùng bái cá nhân, khơng ít người mắc bệnh kiêu ngạo cộng
sản, khơng nhìn thấy và khơng đánh giá đúng những thay đổi trong chính sách
của chủ nghĩa tư bản. ở khơng ít nước xã hội chủ nghĩa, bộ máy nhà nước trở

nên quan liêu, vi phạm những quyền dân chủ của nhân dân. Trong xây dựng
kinh tế chủ quan nóng vội, không tuân thủ những quy luật kinh tế khách quan,
chậm đưa tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Trong lĩnh vực xã hội
thực hiện bao cấp tràn lan, khơng kích thích được tính tích cực cá nhân, do
vậy không tạo ra được động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những sai lầm trên kéo dài, chậm được phát hiện và khắc phục triệt để
đã hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước, dẫn tới tình trạng
khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nhiều nước, buộc các nước phải cải cách đổi
mới.


Trong quá trình cải cách đổi mới, nhiều đảng cộng sản mắc những sai
lầm mang tính chất nguyên tắc. Lợi dụng tình hình đó, những thế lực thù địch
với chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài, kết hợp với những kẻ phản bội ở bên trong,
thậm chí cả những người đứng đầu cơ quan đảng và nhà nước đã tấn công làm
sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô.
Như vậy sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xơ
có ngun nhân sâu xa là những sai lầm của các đảng cộng sản, các nhà nước
xã hội chủ nghĩa, sự chống phá quyết liệt của kẻ thù và sự phản bội của một
số người cộng sản, chứ hoàn tồn khơng phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội và lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội như một số người vẫn đang rêu
rao.
Đây cũng là bài học kinh nghiệm trong quá trình đổi mới của các nước
xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn thứ tư: Giai đoạn từ đầu những năm 1990 tới nay.
Giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào.
Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô,
nhiều đảng cộng sản và công nhân bị tan rã, nhiều đảng viên xin ra khỏi đảng.
Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa đã định hướng lên chủ nghĩa xã hội, nhưng giờ
đây mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, các lực lượng phản động giành lại

chính quyền đưa đất nước theo con đường khác. ảnh hưởng của chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới giảm đi nghiêm trọng.
Những thế lực phản động quốc tế đang dùng trăm phương, nghìn kế
bằng nhiều luận điệu khác nhau để xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và phá hoại
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
nhằm xác lập sự thống trị tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản trên thế giới.
Lịch sử đang đặt ra những thử thách to lớn cho chủ nghĩa xã hội, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế.


Để vượt qua những thử thách đó, các nước xã hội chủ nghĩa phải tự đổi
mới, phải khắc phục những yếu kém, nhược điểm hạn chế trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội, tranh thủ những điều kiện thuận lợi do cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ tạo ra, không ngừng nâng cao năng suất lao động, cải
thiện đời sống nhân dân, để nâng cao sức mạnh mọi mặt của đất nước.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử, những người cộng sản ở các
nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu hiện nay đã nhận rõ bộ
mặt kẻ thù, đang ra sức tập hợp lực lượng, tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ
nhằm khôi phục những giá trị của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước trở lại con
đường xã hội chủ nghĩa.
Từ thực tế những năm vừa qua giúp cho giai cấp công nhân, nhân dân
tiến bộ trên thế giới thấy được bộ mặt thật và tính chất nguy hiểm của chủ
nghĩa tư bản hiện đại, từ đó mà đồn kết nhau lại để đấu tranh xoá bỏ chủ
nghĩa tư bản, đưa đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay: "Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân
tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến
hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"
2.2.


Ý nghĩa của việc nghiên cứu chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với

khoa học
Từ cuối thế kỷ 20, lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
thế giới đã đứng trước những thách thức nghiêm trọng, trong đó có sự biến
động sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội dưới tác động của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ; cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội
hiện thực; sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
các nước Ðông Âu...


Công cuộc đổi mới ở nước ta, được Ðại hội VI của Ðảng khởi xướng
năm 1986, bên cạnh nhiệm vụ nóng bỏng trước mắt là khắc phục cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70, cịn có nhiệm vụ cơ bản và
lâu dài hơn: Ðó là xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và xác
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ðể thực hiện nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa hệ trọng đó, Ðảng và nhân
dân ta kiên trì đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin; đồng thời tích cực phát huy tấm gương Hồ Chí Minh trong vận dụng
và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin phù hợp với hồn cảnh Việt Nam...
Chính Mác và Ăng ghen, hơn ai hết đã nhiều lần cảnh báo rằng chủ nghĩa xã
hội là một phong trào hiện thực, chứ không phải một khuôn mẫu lý luận bắt
hiện thực phải tuân theo.
Qua 20 năm đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Cho đến nay, Ðảng ta
đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
làm cơ sở khoa học cho đường lối của Ðảng, góp phần bổ sung và phát triển
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội.
Nói tới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam, mỗi chúng ta đều thấy hai câu hỏi lớn đặt ra. Ðó là: Chủ nghĩa xã
hội là gì? Và, xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Ðại hội VII, năm 1991 đã nêu ra những đặc trưng cơ
bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước xây dựng và xác
định những phương hướng chủ yếu đưa nước ta từng bước quá độ tới chủ
nghĩa xã hội. Cũng có thể xem đó là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, là mô


hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa.
Từng bước một, qua thực tiễn đổi mới kinh tế, nhất là với những nhận
thức mới về tình hình thế giới trong bối cảnh quốc tế và xu thế toàn cầu hóa
hiện nay, Ðảng ta đã thấy rõ yêu cầu khách quan của việc xây dựng nền kinh
tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện trong tổng kết lý luận
- thực tiễn 20 năm đổi mới, trong Báo cáo Chính trị trình Đại hội X là kết quả
tìm tịi, nghiền ngẫm từ thực tiễn của Đảng và nhân dân ta.
Sự xác định đúng đắn những vấn đề trên cho thấy, lý luận, tư duy lý
luận của Ðảng về chủ nghĩa xã hội thấm nhuần tính khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã đóng vai trị quan trọng
đối với thực tiễn đổi mới, làm nên những thành tựu của đổi mới.
Tuy nhiên, cịn khơng ít những vấn đề lý luận, cả lý luận về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, liên quan tới cơ cấu kinh tế, chế độ sở
hữu, cơ chế quản lý... cũng như lý luận về chính trị, về Ðảng Cộng sản cầm
quyền, nhà nước pháp quyền, hệ thống chính trị, xã hội dân sự... chúng ta cần
tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ. Sự phát triển của thực tiễn và sự nâng cao
không ngừng năng lực tư duy lý luận của Đảng, trình độ nhận thức của xã hội,
nhất là của giới lý luận sẽ từng bước góp phần làm sáng tỏ và đem lại lời giải
đầy đủ, thấu đáo hơn những vấn đề đó.



CHƯƠNG III: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC TẠI VIỆT NAM
3.1. Việt Nam hướng đến chủ nghĩa khoa học
Thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước từ Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), sau hơn 20 năm đổi mới Việt Nam đã
đạt được những thành tựu đáng kể:


Đến năm 1995, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo

tiền đề chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.


Kinh tế:tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
giai đoạn 2000 - 2005 đạt xấp xỉ 7,5%; thu nhập quốc dân theo đầu người
năm 1990 khoảng 200 USD, năm 2005 đạt khoảng 600 USD.


Văn hố – xã hội có những tiến bộ.



Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phịng an ninh được

tăng cường. Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được chú trọng, hệ thống
chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội

nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt được nhiều kết quả tốt.


Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh, cơ sở vật chất

kỹ thuật được tăng cường; đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng
được cải thiện cả về vật chất và tinh thần.


Vị thế uy tín của nước ta nâng cao trên trường quốc tế.
Hơn ba mươi năm đổi mới của Việt Nam được đánh giá khái quát như

sau: "Công cuộc đổi mới trong 35 năm qua đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, cải thiện đáng kể
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta".


Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta
một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế.
Việt Nam hơm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường
lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ
nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là
con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử, hy vọng rằng
Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong
cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới
trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”.
3.2. Bài học kinh nghiệm được rút ra
Ba mươi năm đổi mới đó cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu.
Những bài học đổi mới của Đảng nêu lên đến nay vốn còn giá trị lớn, nhất là
những bài học chủ yếu sau đây:



Một là, trong q trình đổi mới kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các
chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý
báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đó đạt được, giữ vững độc lập
dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.


Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp

với thực tiễn, ln luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và
cuộc sống cuả xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới,
không sao chộp bất cứ mơ hình có sẵn nào; đổi mới tồn diện, đồng bộ và
triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phự hợp. Có những điều
chỉnh bổ xung và phát triển cần thiết về chủ trương, phương pháp mới, linh
hoạt, sáng tạo, nhạy bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời cơ, khắc phục sự trì
trệ, làm chuyển biến tình hình.


Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều
điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở để
tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Đổi mới
là sự nghiệp của nhân dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên
được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia.



Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học công nghệ trên thế
giới phát triển như vũ báo, tồn cầu hóa kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống các
dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hồ bình độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức
tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra.


Bốn là, đường lối đúng đắn của đảng là nhân tố quyết định thành công

của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới; thường
xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và
hành động trong toàn Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện
toàn bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh.


PHẦN III: KẾT LUẬN
Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa MácLênin luôn ln tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và
thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên
thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc
sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm
vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống
mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó
trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa MácLênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa MácLênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.




×