Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay và những ảnh hưởng đến của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.85 KB, 14 trang )


I. MỞ ĐẦU
Trong những thập kỷ qua, tình hình kinh tế thế giới đã có những biến đổi
hết sức nhanh chóng. Nhất là từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, các
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ đặc biệt về công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến nền
kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh
tế tri thức. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một
trong những xu thế tất yếu đối với sự phát triển kinh tế của các nước trên thế
giới.
Khóa họp lần thứ 27 Đại hội đồng Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa
thuộc Liên hợp quốc (UNESCO) họp tại Pari 1993 với sự tham gia của 117
đoàn đại biểu trong tổng số 181 thành viên đã nhận định về những đổi thay
trong thế giới ngày nay, chủ yếu là: Những chuyển biến liên quan đến khoa
học- công nghệ, đặc biệt là phương tiện thông tin. Những chuyển biến liên quan
tới kinh tế, nhất là liên quan tới tổ chức và phân công lao động. Những chuyển
biến liên quan tới biến động dân cư. Các vấn đề trên đều ảnh hưởng tới biến đổi
sinh thái và môi trường và là cơ sở suy nghĩ cho sự biến đổi giáo dục của các
quốc gia.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội, giáo dục chịu sự chi phối và quy
định bởi nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đặc biệt, sự phát triển
kinh tế -xã hội, sự tiến bộ của cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ, tính
phức tạp và muôn vẻ của môi trường kinh tế - xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và
sâu sắc tới mọi lĩnh vực hoạt động của giáo dục và đào tạo.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, nền kinh tế đã có nhiều khởi sắc và có nhiều tác động ảnh hưởng
tích cực đến giáo dục, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với nền giáo
dục đất nước. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của sự phát
triển kinh tế ngày nay để nhận thức cụ thể về yêu cầu nhiệm vụ của giáo dục
nước nhà trong tình hình mới, em chọn viết đề tài: “Đặc trưng của sự phát
triển kinh tế trong xã hội ngày nay và những ảnh hưởng của nó đến giáo


dục Việt Nam”.
II. NỘI DUNG
1. Các đặc trưng của sự phát triển kinh tế trong xã hội ngày nay
1.1. Một số các khái niệm:
- Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con
người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói
đến kinh tế suy cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý).
Trang 1
- Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ
cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã
hội.
Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng
không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện được ba nội dung cơ bản sau:
- Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Nội dung này phản ánh
mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định.
- Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thể hiện ở tỷ trọng của
các ngành dịch vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn
tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm xuống. Nội dung này phản ánh chất lượng
tăng trưởng, trình độ kỹ thuật của nền sản xuất để có thể bảo đảm cho sự tăng
trưởng kinh tế bền vững.
- Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng
lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế mà mỗi người dân được
hưởng. Nội dung này phản ánh mặt công bằng xã hội của sự tăng trưởng kinh
tế.
1.2. Các đặc trưng của sự phát triển kinh tế ngày nay:
- Nền kinh tế trí thức là động lực chính thúc đẩy phát triển: Nền kinh tế tri

thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri
thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và
việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Tri thức thực sự trở thành “sức sản xuất
với năng xuất lao động rất cao”, đồng thời giữ vai trò quyết định thúc đẩy năng
xuất lao động chung của con người vươn tới.
- Công nghệ cao: Công nghệ cao thâm nhập vào mọi mặt hoạt động của
con người từ sản xuất của cải vật chất đến văn hoá - nghệ thuật. Ví dụ như:
công nghệ thông tin, công nghệ nano, công nghệ sinh học, tự động hoá, mô hình
hoá tự động, vv…
- Toàn cầu hoá: Theo xu thế này, tất cả các nền kinh tế địa phương ở các
quốc gia sẽ phụ thuộc lẫn nhau và dựa vào nhau để cùng phát triển, đưa toàn bộ
nền kinh tế toàn cầu lên những đỉnh cao mới vì phồn vinh của toàn nhân loại.
- Cạnh tranh có kiểm soát: Sự cạnh tranh khốc liệt theo quy luật giá trị và
lợi nhuận sẽ được kiểm soát. Ví dụ: các việc làm xoa dịu cạnh tranh và hài hoà
giữa các nền kinh tế trong cộng đồng WTO; vụ sữa Trung Quốc chứa độc tố
Melamine đã bị phát hiện, vụ công ty Vedan xả thải độc tố ra sông Thị vải đang
bị lên án và trừng trị thích đáng, v.v… ;
- Phát triển bền vững: Đây là xu thế cao đẹp nhất và mang tính nhân bản
nhất: ‘bảo vệ môi trường thiên nhiên và sinh thái cho muôn đời sau’ và cũng chỉ
với phương châm này ‘nền kinh tế của mọi quốc gia mới bền vững được’.
Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật – công nghệ là yếu tố tiền đề chủ yếu
của nền kinh tế tri thức, động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngày
nay.
Trang 2
1.3. Các đặc điểm của cách mạng khoa học kĩ thuật – công nghệ và xu thế
phát triển của giáo dục
1.3.1. Lượng thông tin khoa học – công nghệ tăng nhanh
Sự bùng nổ thông tin do sự phát triển nhanh khoa học công nghệ dẫn đến
kết quả là xuất hiện nhanh, nhiều những tri thức, những kĩ năng và những lĩnh
vực nghiên cứu mới. Đồng thời những tri thức cũ nhanh chóng trở nên lỗi thời,

lạc hậu. Hiện tượng “lão hóa” tri thức diễn ra với tốc độ ngày càng tăng.
Theo tính toán của các nhà khoa học, thời gian để lượng tri thức tăng gấp
đôi ngày càng rút ngắn: từ hàng ngàn năm rút xuống còn vài ba năm. Ngày nay,
cứ khảng 7 đến 10 năm, thậm chí 3 đến 7 năm lượng thông tin khoa học tăng
lên gấp hai lần, 2/3 lượng tri thức và 90 % lượng thông tin khoa học kĩ thuật
của nhân loại là do loài người thu được trong thế kỉ XX. Hiện nay hằng năm thế
giới có khảng 4 triệu bài báo và hàng vạn đầu sách mới. Hiện tượng “lão hóa”
tri thức đang diễn ra hàng năm với tốc độ 15 đến 20 %; tri thức nghề nghiệp: 30
% trong vòng 5 đến 7 năm.
Trước những thay đổi ấy, nếu con người không trang bị cho mình những
tri thức mới, những hiểu biết mới họ nhanh chóng trở nên lạc hậu với thời cuộc
và bị đào thải. Xã hội hiện đại đòi hỏi con người phải nhạy cảm với cái mới,
nhanh chóng tiếp cận và nắm bắt các thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại. Xã
hội ngày nay cần phải tăng cường khả năng tự học, tính tích cực tìm hiểu suy
nghĩ, khả năng độc lập, sáng tạo cho thế hệ trẻ. Do lượng thông tin tăng nhanh
nên giáo dục phải tiếp cận được những thành tựu mới nhất của khoa học - công
nghệ: chọn lọc nội dung, đổi mới phương pháp dạy học.
1.3.2. Với sự ra đời và phổ cập của nhiều thế hệ máy vi tính, tính chất của
lao động đang dần dần thay đổi.
Máy móc đang và dần dần đảm đương những công việc nặng nhọc (kể cả
lao động trí óc, lao động độc hại và nguy hiểm, trong vũ trụ, trong lòng đất hay
dưới đáy đại dương, …). Sự thay đổi về chất của quá trình sản xuất sẽ dẫn đến
sự thay đổi vai trò người lao động trong các khâu của quá trình sản xuất. Con
người được tách ra khỏi quá trình sản xuất và đảm nhận những chức năng khác
bao quát hơn. Lao động trở nên nhẹ nhàng hơn, ít tốn năng lượng cơ bắp hơn,
song căng thẳng hơn, phức tạp hơn và hàm lượng chất xám tăng lên rất nhiều.
Trong tương lai, lợi thế sẽ thuộc về các quốc gia có lực lượng lao động được
đào tạo ngang tầm với yêu cầu cao của nền sản xuất công nghiệp hiện đại, trong
đó khoa học - công nghệ phải là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực thúc
đẩy xã hội phát triển.

Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, máy vi tính đã đóng một vai trò
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng của công việc và quản lí.
Trong nhà trường hiện nay, việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại, nhất
là máy vi tính đã là một xu hướng để nâng cao hiệu quả trong quá trình dạy học.
1.3.3. Do yêu cầu của cuộc sống và thực tiễn, thời gian từ lúc phát minh ra
các nguyên lí khoa học đến khi áp dụng nó vào quá trình sản xuất ngày càng rút
ngắn. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Có thể dẫn ra các số liệu thống kê sau đây:
Trang 3
Tên các phát minh sáng chế Năm phát minh Năm sản xuất Thời gian
Máy hơi nước 1660 1780 120 năm
Máy ảnh 1727 1839 112 năm
Máy chiếu bóng 1756 1844 88 năm
Phim ảnh 1832 1895 65 năm
Máy bay 1897 1911 4 năm
Pin mặt trời 1953 1955 2 năm
La ze 1954 1954 6 tháng

Quá trình công nghiệp hóa ở các nước dần dần cũng rút ngắn. Nước Anh:
120 năm; một số nước Tây Âu và Mỹ: 80 năm; Nhật Bản: 60 năm; Các nước
công ngiệp mới – các con rồng châu Á (Đài Loan, Singapo, Hồng Kông, Hàn
Quốc): 20 – 25 năm.
Trong xu thế phát triển chung của khoa học - công nghệ, các trường Đại
học trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học, ở nhiều nước (Mỹ, Nhật, Trung
Quốc, Nga, ) các “thung lũng khoa học” được hình thành và phát triển, tập
trung nhiều nhà khoa học nổi tiếng của đất nước. Nơi đây vừa là trung tâm
nghiên cứu vừa là nơi thực thi các dự án khoa học.
Trước yêu cầu này, người lao động ngày nay phải là người có khả năng
bắt kịp các tri thức khoa học mới, biết vận dụng sáng tạo các thành tựu ấy vào
thực tiễn. Giáo dục ngày nay không chỉ đào tạo ra những người có tri thức, am

hiểu thông thạo tri thức lý thuyết mà còn đào tạo ra những con người sáng tạo,
hoạt bát, biết bám sát thực tiễn, am hiểu thực tiễn, có khả năng vận dụng tri
thức để giải quyết các vấn đề do thực tiễn đề ra.
1.3.4. Sự xuất hiện các ngành khoa học mới, các vật liệu mới và sự xâm
nhập lẫn nhau của các khoa học… là kết quả của cách mạng công nghiệp hóa –
hiện đại hóa (CNH-HĐH).
Khoa học ngày càng phát triển, càng có xu hướng phân nhỏ thành nhiều
bộ phận, nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, nhiều ngành nghề mới xuất
hiện, nhiều lĩnh vực nghiên cứu mới ra đời. Đồng thời với xu thế này là xích lại
gần nhau, sự xâm nhập lẫn nhau của nhiều ngành khoa học, sự bắt tay giữa các
nhà khoa học thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Từ đây xuất hiện yêu
cầu người lao động giỏi một nghề và biết nhiều nghề, có khả năng liên kết
nhiều khoa học, nhiều ngành sản xuất lại với nhau, đáp ứng thực tế xích lại gần
nhau của các khoa học.
Trong quá trình sản xuất, ngày nay con người không chỉ ngày càng hoàn
thiện quá trình khai thác các sản phẩm tự nhiên mà còn tìm ra các biện pháp
mới sáng tạo ra nó với chất lượng cao: kim cương nhân tạo, vải sợi nhân tạo,
chất siêu dẫn, các hợp chất siêu bền và có sức chịu nhiệt cao … phục vụ cho đời
sống và sản xuất. Do vậy hiện nay các nước không có nhiều tài nguyên khoáng
sản vẫn có thể sản xuất được các ngành công nghiệp nhờ vào nền công nghiệp
sáng tạo ra sản phẩm thay thế, nhờ vào đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề
cao.
Trang 4
Cũng trong xu thế này mà hiện nay thế giới đang có sự “chuyển giao
công nghệ” giữa các nước. Trong nền văn minh công nghiệp, các ngành công
nghiệp khai thác tài nguyên hóa chất, luyện kim, chế tạo máy… đã đem lại cho
con người những lợi ích to lớn, song chúng cũng mang lại cho con người những
nỗi lo âu về nguy cơ cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Các nước phát
triển đang chuyển giao dần những cơ sở vật chất kĩ thuật đơn sơ của nền công
nghiệp ấy cho nhóm các quốc gia chậm phát triển, nhằm thực hiện các đề án

hiện đại hóa cơ cấu kinh tế trên cơ sở tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm
lượng khoa học cao. Xu thế này vừa thuận lợi, song cũng là khó khăn cho các
nước đi sau. “Chuyển giao công nghệ” đã tạo điều kiện cho các nước đang phát
triển có thể rút ngắn thời gian công nghiệp hóa của đất nước mình, mang lại cho
họ những bài học quý giá về môi trường và bảo vệ sinh thái. Song nếu cứ chấp
nhận công nghệ lạc hậu, lỗi thời do các nước phát triển chuyển giao, nghĩa là tự
nguyện duy trì sự lạc hậu về công nghệ thì các nước đang phát triển không thể
nào theo kịp các nước phát triển. Đây là thách thức rất lớn đối với các đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Để chấm dứt sự lạc hậu và trì trệ này, vai trò và
nhiệm vụ của giáo dục là hết sức quan trọng. Giáo dục phải đào tạo ra được đội
ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật thông minh, sáng tạo, những con người có khả
năng đi tắt, đón đầu các thành tựu của khoa học kĩ thuật – công nghệ thế giới.
1.3.5. Đội ngũ các nhà khoa học, các cán bộ khoa học kĩ thuật tăng nhanh
chóng do đòi hỏi của cách mạng khoa học kĩ thuật - công nghệ
Có đến 9/10 các nhà khoa học của nhân loại từ trước đến nay là những
người đang sống cùng thời đại với chúng ta. Theo các nhà khoa học, bình quân
cứ 10 năm, số cán bộ khoa học kĩ thuật tăng gấp 2 lần. Trong xã hội tương lai,
xã hội dựa vào tri thức, cơ cấu phân công lao động trong xã hội là: cán bộ có
trình độ trung cấp: 60%, cán bộ có trình độ đại học: 34 % và cán bộ nghiên cứu
khoa học là 6 %.
Tất cả các đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật – công nghệ
đang có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc và toàn diện đến tất cả các lĩnh vực khác
nhau trong đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo.
1.4. Khái quát sự phát triển kinh tế ngày nay
- Thế giới đang diễn ra sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền sản xuất, từ nền
sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Tăng hàm lượng tri thức trong
sản phẩm, giảm dần hình thức lao động chân tay nặng nhọc, đẩy mạnh sản xuất
bằng công nghệ dây chuyền, tự động hóa.
- Nền kinh tế thị trường xã hội phát triển, là nền thị trường kết hợp giữa
kinh tế thị trường tự do và công bằng xã hội. Kinh tế thị trường xã hội đã

khuyến khích và nhấn mạnh các nhân tố kích thích các sáng kiến cá nhân vì lợi
ích của nền kinh tế; mặt khác, nó loại bỏ các phát triển không mong muốn bất
cứ khi nào có thể, ví dụ như sự thiếu thốn, cùng cực của một số nhóm xã hội,
lạm phát và thất nghiệp. Việt Nam chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế bao cấp
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, xây dựng nền kinh tế thực
hiện đầy đủ những nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đồng thời, càng đi vào
Trang 5
kinh tế thị trường, càng phải chăm lo tốt hơn phúc lợi xã hội, giải quyết việc
làm, xoá đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, văn hoá, chăm sóc sức khoẻ nhân
dân. Phải đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước và sự đóng góp của toàn xã
hội để thực hiện tốt yêu cầu này; phải đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực xã hội,
thực hiện tốt hơn yêu cầu gắn kết giữa kinh tế và xã hội.
- Xuất hiện nền kinh tế tri thức, tác động mạnh mẽ đến thị trường lao
động, lao động tay nghề cao chiếm ưu thế. Những sản phẩm của tri thức như:
những sáng chế, phát minh…nhanh chóng được áp dụng vào thực tiễn, đem lại
nhiều nguồn lợi to lớn cho xã hội, tri thức trở thành động lực chính của sự phát
triển kinh tế. Kinh tế tri thức là đặc trưng cơ bản và tất yếu của nền kinh tế hiện
đại.
- Toàn cầu hóa và hội nhập về kinh tế là một nét đặc trưng của kinh tế thế
giới hiện đại. Trong quá trình toàn cầu hóa, những nước có trình độ cao sẽ có
nhiều lợi thế, ngược lại những nước có trình độ thấp sẽ gặp nhiều bất lợi, trở
thành nơi cung cấp nguồn nhân công giá rẻ và công trường sản xuất, đối mặt
với ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…Toàn cầu hóa kinh tế đặt ra nhiều thách
thức đối với những nước đang phát triển và chậm phát triển.
1.5. Một số nét chính về tình hình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
- Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, CNH-HĐH đất nước. Chuyển dịch cơ
cấu từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu sang công nghiệp, dịch vụ. Tỷ lệ các
khu vực kinh tế trong nền kinh tế của 3 năm trở lại đây cho thấy cơ cấu kinh có
những chuyển dịch tích cực:
Khu vực Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013

Nông, lâm, thủy sản 21.6 % 19.7 % 18.4 %
Công nghiệp, xây dựng 40.2 % 38.6 % 38.3 %
Dịch vụ 38.2 % 41.7 % 43.3 %
Biểu đồ cơ cấu kinh tế các năm 2011, 2012, 2013:
- Sau gần 30 năm thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, từ một nước nghèo
Trang 6
nàn, thiếu đói do hậu qảu chiến tranh, trở thành một trong những nước xuất
khẩu hàng đầu về các lĩnh vực nông - thủy sản. Việc thu hút, sử dụng đầu tư
nước ngoài thời gian qua cơ bản đã đáp ứng những mục tiêu đề ra về thu hút
vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động,
tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Tuy vậy việc thực thi chính
sách đổi mới và tốc độ phát triển nền kinh tế thị trường của Việt Nam suốt gần
30 năm qua chưa đạt được kết quả như mong đợi. Kinh tế Việt Nam vẫn chưa
thật sự thoát khỏi khu vực các nước thu nhập trung bình thấp. Doanh nghiệp tư
nhân còn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Các tập đoàn, tổng công ty nhà
nước vẫn là thành phần chủ đạo, chiếm gần 50% tín dụng ngân hàng, hiệu suất
thấp, lãng phí cao, nợ xấu, nợ khó đòi chồng chất.
- Khoa học kĩ thuật – công nghệ được xác định là động lực then chốt trong
công cuộc CNH-HĐH, bước đầu đạt được những thành tựu trên các lĩnh vực
như: tin học, y tế, giáo dục, xây dựng, giao thông vận tải, nông nghiệp Song
còn nhiều hạn chế, chuyển giao nhiều công nghệ lạc hậu (từ những năm 50-60
của thế kỉ XX), tỷ lệ công nghệ-thiết bị hiện đại thấp, trình độ cơ khí hóa của
nền kinh tế chưa cao, tiêu hao nhiều năng lượng trong sản xuất…
- Quá trình hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, đồng thời với việc tham gia
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) vào tháng 7-1995; là thành viên
đồng sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) vào tháng 3-1996; tham gia
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11-
1998; Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tham gia vào Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) và từ tháng1- 2007, Việt Nam là thành viên

chính thức của WTO. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn nước ngoài
đổ vào nền kinh tế mạnh mẽ và đã có những tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam, tốc độ tăng trưởng hàng năm của nền kinh tế nước ta
tăng dần kể từ năm 2001 cho đến năm 2005 và đạt ở mức cao, trên 8%, cho đến
năm 2007. Tuy nhiên chúng ta gặp nhiều thách thức như khả năng cạnh tranh
yếu của nền kinh tế, chính sách tiền tệ còn nhiều bất cập, tình trạng nhập siêu
và nợ công gia tăng…
Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong xã hội ngày nay đã tác động tích cực và
sâu sắc đến sự phát triển của xã hội nói chung và giáo dục nói riêng. Đặt ra yêu
cầu đổi mới căn bản, toàn diện và những thách thức đối với sự phát triển của
giáo dục Việt Nam.
2. Một số đặc điểm về nền giáo dục Việt Nam ngày nay
Giáo dục, hiểu theo nghĩa rộng nhất là sự truyền thụ kinh nghiệm xã hội từ
thế hệ trước cho thế hệ sau nhằm chuẩn bị cho thế hệ sau bước vào cuộc sống.
Với ý nghĩa đó, giáo dục đã ra đời từ khi xã hội loài người mới hình thành, do
nhu cầu của xã hội và trở thành một yếu tố cơ bản để làm phát triển loài người,
phát triển xã hội. Giáo dục là một hoạt động có ý thức của con người nhằm vào
mục đích phát triển chính con người và phát triển xã hội. Vì thế giáo dục là một
hiện tượng xã hội và là một trong những nhu cầu tất yếu của xã hội.
Trang 7
Sự ra đời và phát triển của giáo dục gắn liền với sự ra đời và phát triển của
xã hội. Một mặt, nó phục vụ cho sự phát triển xã hội, bởi lẽ xã hội sẽ không
phát triển thêm một bước nào cả nếu không có những điều kiện cần thiết do
giáo dục tạo ra. Mặt khác, sự phát triển của giáo dục luôn chịu sự quy định của
xã hội thông qua những yêu cầu ngày càng cao và những điều kiện ngày càng
thuận lợi do sự phát triển xã hội mang lại. Chính vì vậy mà trình độ phát triển
của giáo dục phản ánh những đặc điểm phát triển của xã hội. Giáo dục Việt
Nam với những đặc điểm của giáo dục thời đại đồng thời cũng có nhiều đặc
điểm riêng biệt.
2.1. Đặc điểm lịch sử- xã hội Việt Nam ngày nay:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN, tiếp nối truyền thống vẻ vang của dân
tộc, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên lật đổ chế độ thực dân - phong kiến, chế
độ bóc lột. Với sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945, nhân dân
ta bước sang xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ XHCN. Từ sau Đại hội Đảng
toàn quốc khóa VI, dân tộc ta đang trong thời kì đổi mới, CNH-HĐH đất nước.
2.2. Đặc điểm giáo dục Việt Nam ngày nay:
- Mang tư tưởng giáo dục của chủ nghĩa Mác - Lê nin: Trên cơ sở kế thừa
tư tưởng giáo dục của các nhà XHCN không tưởng thế kỉ IX và nhà trường của
các nước tư bản thế kỉ IX, Mác và Ăng ghen đã xây dựng hệ thống lí luận giáo
dục (gọi là học thuyết giáo dục Mác – Ăng ghen). Học thuyết này được Lê nin
bổ sung, phát triển và được phổ biến sâu rộng trong các nước XHCN.
- Mang tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận
dụng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn nước ta, cụ thể là:
+ Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng của cách mạng Việt Nam.
+ Giáo dục trực tiếp đào tạo con người XHCN theo yêu cầu của cách
mạng, của công cuộc đấu tranh và xây dựng CNXH.
+ Đào tạo thế hệ trẻ thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt và mai sau là những
công dân dũng cảm, cán bộ gương mẫu, người chủ xứng đáng của chế độ
XHCN, là những người vừa có khả năng lao động trí óc vừa có khả năng lao
động chân tay.
+ Coi trọng nội dung giáo dục toàn diện, cả đức lẫn tài.
+ Phương pháp giáo dục cần kết hợp chặt chẽ lí luận với thực hành, giáo
dục với lao động sản xuất, chống học vẹt, học gạo, phát huy tính tích cực, tự
giác.
+ Trong quá trình giáo dục cần kết hợp giáo dục của nhà trường với giáo
dục của gia đình, xã hội, giữa nhà trường với các đoàn thể.
+ Giáo dục là sự nghiệp cách mạng của quần chúng.
+ Coi trọng vai trò của thầy giáo trong giáo dục, nếu không có thầy giáo
thì không có giáo dục, nghề dạy học là nghề rất quan trọng và vẻ vang. Yêu cầu
cao đối với giáo viên cả về chuyên môn, năng lực và phẩm chất.

Bác Hồ đã xây dựng nhiều tư tưởng giáo dục cho nền giáo dục XHCN
Việt Nam và cũng đã khẳng định phương hướng chiến lược cho sự phát triển
giáo dục nước ta.
Trang 8
3. Những tác động của sự phát triển kinh tế đối với giáo dục Việt
Nam ngày nay:
3.1. Thời cơ:
- Đất nước ổn định về chính trị, kinh tế - xã hội phát triển, sự đồng thuận
cao của xã hội đối với yêu cầu cấp thiết phải đổi mới giáo dục. Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội đặc biệt quan tâm, chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, mong
muốn đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục. Khẳng định giáo dục là yếu tố
quyết định sự phát triển kinh tế -xã hội từ đó ban hành những chính sách, đầu tư
các nguồn lực nhằm thúc đẩy giáo dục phát triển.
- Tốc độ phát triển kinh tế nhanh của nước ta, tạo nguồn lực đầu tư ngày
càng đa dạng và nhiều hơn cho phát triển giáo dục. Đáp ứng yêu cầu về cơ sở
vật chất như: xây dựng trường lớp, cung cấp đầy đủ về trang thiết bị - phương
tiện dạy học; chế độ chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ của ngành giáo dục…
- Kinh tế phát triển tạo điều kiện tạo điều kiện học tập tốt hơn. Ngày nay,
với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, giúp cho người học thuận tiện trong
việc tiếp cận thông tin với nhiều nguồn thông tin phong phú và phương tiện
hiện đại. Đáp ứng về phương tiện đi lại, học tập, nghiện cứu, sinh hoạt…cho
người dạy và người học.
- Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và
truyền thông phát triển mạnh làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã
hội, tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới giáo dục; giúp cho giáo dục phát triển
đến với tất cả người học và vùng miền khó khăn, xa xôi, hẻo lánh.
- Quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng tạo cơ hội thuận lợi để nước ta tiếp cận
với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục
hiện đại và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát triển giáo dục. Giáo dục
Việt Nam có thêm những bài học kinh nghiệm thành công, cũng như thất bại để

tránh được những rủi ro và tìm được cho mình đường đi, cách đi phù hợp, ngắn
nhất và hiệu quả nhất.
Sự đổi mới và cải cách giáo dục ở khắp các nước trên thế giới đang diễn
ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt cho giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp
cận được với nhiều xu thế mới, những tổ chức hệ thống và phương thức mới;
tận dụng được nhiều kinh nghiệm hay của các nền giáo dục tiên tiến. Chính
sách mở cửa của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút các
nguồn lực đa dạng trong sự hợp tác, liên kết song phương và đa phương với
nhiều quốc gia và tổ chức giáo dục, khoa học-công nghệ tiên tiến và hịên đại
cho phát triển giáo dục.
- Nhân dân ta với truyền thống hiếu học và chăm lo cho giáo dục, với
những điều kiện thuận lợi sẽ tiếp tục dành sự quan tâm và đầu tư cao cho giáo
dục và đào tạo, phát huy những tiềm năng to lớn của trí tuệ Việt Nam (Sự kiện
Ngô Bảo Châu đã tạo một niềm hứng khởi lớn cho giới khoa học, giáo dục cả
nước).
3.2. Thách thức:
- Nguồn lực Nhà nước và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho giáo
dục và đào tạo, nhất là về tài chính còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
Trang 9
đảm bảo chất lượng giáo dục trong khi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước và hội
nhập quốc tế tạo sức ép về số lượng cũng như chất lượng đối với nguồn nhân
lực, đòi hỏi giáo dục phải đổi mới.
- Nguồn nhân lực Việt Nam đạt chất lượng chưa được cao, tuy công dân
Việt Nam có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ dân trí, văn hóa,
kỹ thuật, công nghệ và tay nghề cao, tác phong công nghiệp và đạo đức, lối
sống lành mạnh nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu CNH-HĐH và hội nhập của
đất nước, cũng như đáp ứng nhu cầu nền kinh tế tri thức. Để đáp ứng nhu cầu
trên cần quan tâm, chú ý đến các vấn đề như : Chiến lược trong phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới là phải tăng nhanh về số
lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo, đặc biệt chú trọng đào tạo nghề,

đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với tiêu chuẩn về trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu
của một nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Nhu cầu hội nhập quốc tế rất
bức thiết, nhưng giáo dục, khoa học của chúng ta lại kém khả năng hội nhập.
Thách thức lớn đối với ngành giáo dục chính là sự lạc hậu trì trệ quá lâu. Mục
tiêu, tổ chức và phương pháp giáo dục quá cũ kỹ, hoàn toàn không thích hợp
với thời đại ngày nay. Do đó giáo dục cần phải đảm bảo đổi mới và đa dạng hóa
về mục tiêu, nội dung, phương pháp…
- Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, sự phát triển không đều
giữa các địa phương vẫn là nguyên nhân của sự bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận
giáo dục và sự chênh lệch chất lượng giáo dục giữa các đối tượng người học và
các vùng miền. Thứ hai là tình hình kinh tế tuy có khởi sắc nhưng còn nhiều
khó khăn đặt ra cho giáo dục những áp lực, những hạn chế khắc nghiệt. Chẳng
hạn như việc đầu tiên cần làm để chấn hưng giáo dục là giải tỏa cái nghịch lý
lương/thu nhập tồn tại từ hàng chục năm nay và chính nó là cái nguyên nhân
chủ yếu làm suy đồi giáo dục. Bình quân chi ngân sách trên đầu người học, nhất
là đối với học sinh, sinh viên gia tăng không đáng kể và nhìn chung còn rất thấp
so với khu vực và trên thế giới.
- Tổ chức bộ máy và nhân sự quản lý giáo dục Việt Nam còn chồng chéo,
yếu kém, chưa đủ khả năng ngăn chặn những tiêu cực, rủi ro trong tiến trình hội
nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Tư duy bao cấp, sức ỳ trong nhận thức, tác phong
quan liêu trong ứng xử với giáo dục của nhiều cấp, nhiều ngành, của nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục cũng như tư duy bao cấp và tâm lý khoa bảng của
người dân còn lớn, không theo kịp sự phát triển nhanh của kinh tế, xã hội và
khoa học công nghệ. Đội ngũ nhà giáo và đội ngũ cán bộ quản lý còn nhiều bất
cập, yếu kém.
- Hội nhập quốc tế và hiện tượng thương mại hóa giáo dục đang làm nảy
sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập lối sống không lành mạnh, xói
mòn bản sắc văn hoá dân tộc; sự thâm nhập của các loại dịch vụ giáo dục kém
chất lượng, lạm dụng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy điểm, v.v Nhiều

tiêu cực xuất hiện trong giáo dục do chạy theo mặt trái của nền kinh tế thị
trường, hoạt động vì lợi nhuận, trái với mục đích phát triển con người, phát
Trang 10
triển đất nước. Đòi hỏi phải coi trọng giáo dục đạo đức, giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc.
- Khoảng cách phát triển về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ giữa
nước ta và các nước tiên tiến có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên sự tụt hậu hiện
tại của nền giáo dục Việt Nam tạo ra một khoảng cách tương đối lớn so với các
nền giáo dục trong khu vực và trên thế giới. Giáo dục nước ta vừa phải phát
triển mạnh để thu hẹp khoảng cách, vừa phải khắc phục những mất cân đối nội
tại, những mâu thuẫn đang tồn tại hiện nay:
+ Quy mô và chất lượng còn rất mất cân đối. Chất lượng, hiệu quả giáo
dục đại trà còn thấp và rất không đồng đều ở các bậc, ở các vùng miền khác
nhau, giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân cư có thu nhập khác
nhau. Chúng ta cũng chưa có chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và sử
dụng nhân tài hợp lý.
+ Cung và cầu giáo dục có khoảng cách lớn. Cung ứng giáo dục không
theo được nhu cầu giáo dục mà thị trường lao động, việc làm đang đòi hỏi;
không đáp ứng được nhu cầu của người học và có khoảng cách xa trong việc
đáp ứng sự đòi hỏi của phát triển kinh tế-xã hội. Việc dạy và học không gắn
chặt với thực tiễn, nhất là các trường đại học. Đa phần các chương trình đào tạo
hiện nay là những gì nhà trường và các thầy cô đem áp đặt cho người học, chứ
chưa phải là những cái xã hội cần.
+ Cá thể và toàn thể: giáo dục hiện nay chưa đáp ứng được nguyện vọng
của mỗi người học cũng như đòi hỏi của cộng đồng.
+ Giáo dục và tính nhân văn: hiện nay chưa làm tốt việc dạy cho học sinh
các kỹ năng sống như diễn đạt, tư duy, ra quyết định, giải quyết vấn đề, và hiểu
biết được chính mình.
+ Hợp tác và cạnh tranh: Giáo dục cần mở rộng hợp tác toàn diện cả
trong và ngoài nước.

+ Thị trường và phúc lợi giáo dục: Cần giải quyết được những bất cập
giữa phát triển thị trường dịch vụ giáo dục và giáo dục phúc lợi. Bên cạnh việc
quản lý, chỉ đạo, điều tiết, giám sát, tài trợ mọi hoạt động của thị trường dịch vụ
giáo dục, Nhà nước còn phải có nhiều chính sách để giáo dục phát huy được
đặc tính phúc lợi của mình với các vùng miền, ngành nghề, đối tượng người học
trong hoàn cảnh không thuận lợi.
+ Cục bộ và toàn cầu: đây là mâu thuẫn lớn, không những giữa các vùng
miền, khu vực trong nước, mà là giữa nước ta với khu vực và trên thế giới về sự
chênh lệch trong khoảng cách phát triển giáo dục.
+ Truyền thống và hiện đại: giáo dục phát triển theo hướng tiên tiến, hiện
đại nhưng phải giữ gìn được truyền thống và bản sắc dân tộc.
+ Lâu dài và trước mắt: cần xây dựng tầm nhìn và chiến lược phát triển
giáo dục nước ta đến năm 2020 và xa hơn, song lại cần có những mục tiêu cụ
thể, ngắn hạn và những bước đi hợp lý, hài hoà để trong một thời gian không
lâu nền giáo dục Việt Nam có thể có những chuyển biến về chất lượng.
3.3. Nguyên nhân thách thức:
Trang 11
- Quan niệm, tư duy về giáo dục xơ cứng, cũ kỹ: Đó là nguyên nhân sâu xa
khiến sự giả dối và nạn giáo điều lan tràn, từ tiêu cực trong thi cử, bệnh thành
tích, bệnh thi đua hình thức, học thuộc lòng… cứ tồn tại dai dẳng bất chấp sự
lên án của dư luận xã hội.
- Cần phải bình đẳng về cơ hội học tập thành công: Học thêm ngoài giờ ở
lớp, phải bỏ học chỉ vì chương trình nặng, học không nổi hay sách giáo khoa
quá đắt, không có tiền mua. Vì vậy hiện tượng học sinh bỏ học nhiều cần được
nhìn nhận là dấu hiệu đáng lo ngại của một nền giáo dục thiếu công bằng.
- Chính sách đối với người thầy: Chưa coi trọng việc xây dựng đội ngũ
thầy giáo theo chuẩn mực giáo dục hiện đại. Trong mọi khâu từ tuyển chọn đến
sử dụng và bồi dưỡng người thầy, khâu nào cũng còn nhiều bất cập, đặc biệt là
chính sách tiền lương chưa tương xứng vai trò quốc sách hàng đầu của giáo dục.
- Chú trọng thi hơn học: Có quá nhiều kỳ thi, nội dung và phương pháp

dạy học còn chủ yếu hướng đến việc chuẩn bị cho các kì thi, hạn chế khả năng
thực hành, vận dụng lí thuyết vào thực tiễn đối với người học.
- Chạy theo số lượng, hy sinh chất lượng: từ giữa thế kỷ XX mâu thuẫn
gay gắt giữa số lượng và chất lượng đã xuất hiện phổ biến trong phát triển giáo
dục ở hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam càng không phải là ngoại lệ đến
nay việc tiếp thu bài kinh nghiệm từ các nước về giải quyết vấn đề này còn
nhiều hạn chế.
- Khó khắc phục năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và
điều hành: Nguyên nhân quan trọng nhất, khó khắc phục nhất, là năng lực yếu
kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành. Xây dựng giáo dục để hội
nhập thành công trong thời toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đòi hỏi một trình độ
chuyên nghiệp cao và một tinh thần trách nhiệm lớn.
Tóm lại, với sự phát triển của nền kinh tế đã có sự tác động mạnh mẽ đến
giáo dục, giáo dục đổi mới mục tiêu, nội dung và cả phương pháp, phương tiện
dạy học, trên phương diện đa phương hoá, đa dạng hoá loại hình đào tạo, phù
hợp với sự đổi mới của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế thị trường
có định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam nói riêng. Phấn đấu xây dựng
một nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ
hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt
đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
4. Giáo dục Việt Nam cần phải làm gì trong bối cảnh kinh tế hiện
nay?
Với vai trò trang bị kỹ năng học tập tri thức trong bối cảnh hội nhập quốc
tế, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, bước vào nền kinh tế tri thức, giáo dục Việt
Nam cần quan tâm, thực hiện những vấn đề sau:
- Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo là “đổi mới những
vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới từ
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản

Trang 12
thân người học đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi
mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp
thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới kiên quyết chấn chỉnh những
nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài
hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học các giải pháp phải đồng bộ,
khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp”.(Nghị quyết Trung
ương 8-khóa XI)
- Đổi mới về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học ở các cấp học,
bậc học theo hướng hiện đại hóa, phân hóa- cá thể hóa vừa theo hướng tích hợp
các ngành khoa học. “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với
hành lý luận gắn với thực tiễn giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.” (Nghị quyết Trung ương 8-khóa XI). Loại bỏ kiểu học
thuộc lòng, học vẹt chuyển sang cách học tìm tòi, tự học nhằm phát huy tính
tích cực sáng tạo của người học. Luôn luôn cập nhật những tri thức mới công
nghệ mới vào chương trình học nhất là ở các trường kỹ thuật và trường đại học.
Trang bị kỹ năng ngoại ngữ (nhất là tiếng Anh) và kỹ năng tin học cho học sinh
ngay từ cấp tiểu học.
- Bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy và đội ngũ
quản lý đảm bảo về kiến thức, kĩ năng, năng lực, phẩm chất nghề nghiệp đáp
ứng với công cuộc đổi mới giáo dục.
- Đẩy mạnh và chủ động trong các hoạt động giao lưu, hợp tác, học hỏi
các mô hình giáo dục ở các nước tiên tiến từ đó sàng lọc những tinh hoa để áp
dụng vào giáo dục Việt Nam.
- Nhà nước tăng kinh phí đầu tư và khuyến khích cá nhân trong và ngoài
nước đầu tư vào giáo dục. Đồng thời tăng cường việc quản lý, kiểm tra giám sát
chất lượng các trường học.
- “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp quy luật

khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.”
- “Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá,
hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.”
- “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các
vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và
các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào
tạo.” (Nghị quyết Trung ương 8-khóa XI)
III. KẾT LUẬN
Giáo dục có ý nghĩa và vai trò quan trọng để thực hiện nhiệm vụ ổn định và
phát triển kinh tế xã hội, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) đã xác định “Giáo
Trang 13
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của
toàn dân”. Đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra mục tiêu giáo dục của nước ta
trong giai đoạn hiện nay là “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức, có tay nghề, có năng lực thực hành,
tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu
chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và năng
lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần”.
Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, nguồn lực còn hạn hẹp,
được sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, với những nỗ
lực của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc: thực hiện giáo dục toàn dân, nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài; góp phần giáo dục ý thức công dân, phẩm chất chính trị, lý

tưởng cách mạng cho các thế hệ con người Việt Nam; giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa; các điều kiện đảm bảo chất lượng được tăng cường; chất lượng
và hiệu quả giáo dục ở các cấp học, trình độ đào tạo có tiến bộ; hợp tác quốc tế
được mở rộng; lực lượng lao động qua đào tạo tăng khá nhanh. Những thành
tựu trên và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới cho phép và đòi hỏi
giáo dục Việt Nam chuyển từ phát triển thực tế chủ yếu theo mục tiêu số lượng
sang mục tiêu coi trọng cả chất lượng, hiệu quả và số lượng theo nhu cầu xã
hội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát
triển bền vững, giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập. Giáo dục vẫn chưa thực
sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu tiên nhất trong các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, chưa được coi là nhân tố quyết định của phát triển đất
nước. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục đã được nêu từ Nghị quyết Trung
ương 2 (Khóa VIII) vẫn chậm được khắc phục, có mặt còn nặng nề hơn. Khoa
học giáo dục còn lạc hậu, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội; chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực của nước ta
so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quản lý giáo dục còn nhiều bất
cập; kinh phí đầu tư cho giáo dục còn hạn chế. Thiếu dự báo nhu cầu nhân lực
cho quá trình CNH-HĐH đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân để làm cơ
sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.
Để thực hiện được những yêu cầu, nhiệm vụ to lớn của sự nghiệp giáo
dục nước nhà, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhất là đối với
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản giáo dục, phải tích cực trong công tác, trong
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất chính trị,
đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của đổi mới căn bản và toàn diện về giáo
dục và đào tạo./.
Trang 14

×