Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Việc xác định cha mẹ cho con theo thủ tục tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.13 KB, 8 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG..............................................................................................1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON THEO THỦ
TỤC TƯ PHÁP.....................................................................................................1
1.1. Khái niệm cha, mẹ và xác định cha mẹ trong quan hệ pháp luật.........1
1.1.1. Khái niệm cha, mẹ con dưới góc độ pháp lý........................................1
1.1.2. Xác định cha, mẹ con trong quan hệ pháp luật....................................1
1.2. Nội dung xác định cha mẹ con theo quy định pháp luật hiện hành.....1
1.2.1. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ có hơn nhân hợp pháp.............1
1.2.2. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp..2
1.2.3. Xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng phương pháp
khoa học.........................................................................................................3
II. VÍ DỤ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON THEO THỦ TỤC TƯ
PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.......................................................................4
2.1. Một số ví dụ về việc xác định cha mẹ theo thủ tục tư pháp...................4
2.1.1. Ví dụ 1..................................................................................................4
2.1.2. Ví dụ 2..................................................................................................4
2.2. Những vướng mắc khi xác định cha mẹ con theo thủ tục tư pháp.......4
2.2.1. Sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan
được giao xác định cha mẹ con......................................................................4
2.2.2. Thủ tục tố tụng để thụ lí giải quyết vụ án trong trường hợp cha mẹ
con đã chết.....................................................................................................5
2.2.3. Quy định về người có quyền u cầu Tịa án xác định quan hệ cha mẹ
con..................................................................................................................5
2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật...............................................6
KẾT LUẬN................................................................................................................6
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................7

i



PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Xác định cha, mẹ, con là một vấn đề rất quan trọng. Từ việc xác định cha,
mẹ cho con sẽ làm phát sinh ra rất nhiều vấn đề liên quan đến quyền nhân thân và
quyền tài sản đối với các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên trên thực tế, trong
một số trường hợp, việc xác định cha mẹ con lại nảy sinh ra một số vấn đề pháp lý
hết sức phức tạp và pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập về vấn đề
này. Do đó, tác giả đã chọn đề tài “ Phân tích việc xác định cha mẹ cho con theo
thủ tục tư pháp? Cho ví dụ”
PHẦN II: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON THEO
THỦ TỤC TƯ PHÁP
1.1. Khái niệm cha, mẹ và xác định cha mẹ trong quan hệ pháp luật
1.1.1. Khái niệm cha, mẹ con dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý tư cách là cha mẹ đẻ con đẻ chỉ được chính thức thừa
nhận thơng qua những thủ tục pháp lý nhất định vì mối quan hệ này có xuất phát
điểm là sự kiện sinh đẻ nhằm bảo đảm tính huyết hệ tự nhiên giữa hai thế hệ sinh ra
kế tiếp nhau.
Cha đẻ, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con là người trực tiếp sinh ra người
con, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ trong mối quan hệ
với cha mẹ là người được cha mẹ sinh ra có quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật.
Khái niệm con được xác định trong một số trường hợp đặc biệt:
-Con trong giá thú là con có cha mẹ đăng kí kết hơn hợp pháp
-Con ngồi giá thú là con có cha mẹ khơng đăng kí kết hơn hợp pháp
1.1.2. Xác định cha, mẹ con trong quan hệ pháp luật
Với tư cách là quan hệ pháp luật: xác định cha mẹ con là các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tư cách làm cha, mẹ, con về mặt huyết
thống của các chủ thể được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
Từ đây chúng ta có thể hiểu xác định cha, mẹ con theo thủ tục tư pháp là việc

giải quyết vụ án dân sự, vị việc dân sự của chủ thể có yêu cầu do cơ quan có thẩm
quyền là Tịa án giải quyết.
1.2. Nội dung xác định cha mẹ con theo quy định pháp luật hiện hành
1.2.1. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ có hơn nhân hợp pháp
*Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân

1


Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình: Thời kỳ hơn
nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết
hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân.
Thời điểm bắt đầu thời kì hơn nhân: Theo thủ tục đăng kí kết hơn, hai bên
cùng kí vào giấy chứng nhận đăng kí kết hơn. Đó chính là ngày mà thời điểm bắt
đầu thời kì hơn nhân.
Thời điểm chấm dứt hôn nhân: Chấm dứt hôn nhân do vợ chồng chết; Chấm
dứt hơn nhân khi có quyết định của tịa án tuyên bố vợ chồng chết; Chấm dứt hôn
nhân do ly hơn.
*Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ:
Q trình sinh đẻ con người mang tính chất sinh học xã hội; đó là năng lực
đẻ con; sự kiện sinh đẻ luôn gắn liền với yếu tố xã hội mà trước hết là hơn nhân và
gia đình. Do vậy pháp luật gắn sự kiện này trong việc xác định cha mẹ con. Theo
nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ con theo Điều 88. Xác định cha, mẹ.
“Con sinh ra trong thời kỳ hơn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn
nhân là con chung của vợ chồng”.
*Căn cứ vào sự thừa nhận của cha mẹ và con
Đây là trường hợp đặc biệt chỉ áp dụng trong trường hợp người vợ sinh con
trước ngày đăng ký kết hôn. Tức là người vợ đã thực hiện toàn bộ quá trình sinh đẻ
trước khi kết hơn, trong trường hợp này sau khi sinh con hai bên nam nữ có đăng ký
kết hơn thì đây chính là điều kiện tiên quyết để vợ chồng thừa nhận đứa trẻ và đứa

trẻ được trở thành con chung của vợ chồng một cách hợp pháp.
1.2.2. Cách xác định cha mẹ con khi cha mẹ khơng có hơn nhân hợp pháp
*Căn cứ vào thời điểm thụ thai thời gian mang thai và thời điểm sinh con
Việc xác định thời điểm thụ thai và mang thai chỉ mang tính chất tương đối;
thời gian mang thai có thể là khoảng 9 tháng 10 ngày; tối đa là 10 tháng tối thiểu có
thể là 6 đến 7 tháng. Do đó để xác định được thời gian mang thai phải căn cứ vào
thời điểm sinh con; thế trạng của đứa trẻ và người mẹ của đứa trẻ đó. Do đó để xác
định được thời điểm thụ thai phải xác định vào thời điểm khi đứa trẻ được ra đời để
tính ngược trở lại.
*Căn cứ vào khoảng thời gian hai bên nam nữ quan hệ tình dục
Sau khi xác định được thời điểm thụ thai, sẽ phải xác định trong khoảng thời
gian có thể thụ thai thì hai bên nam nữ có quan hệ sinh lý với nhau hay khơng? Có
thể trong khoảng thời gian có thể thụ thai họ chung sống như vợ chồng hoặc trường
hợp hai bên nam nữ đã kết hơn trái pháp lập mà sau đó việc kết hơn trái pháp luật bị
hủy thì có thể căn cứ vào thời kỳ chung sống như vợ chồng, kể từ thời điểm được
2


cấp giấy chứng nhận kết hôn đến thời điểm việc kết hơn trái pháp luật đó bị hủy bởi
một quyết định có hiệu lực pháp luật.
*Căn cứ vào mối quan hệ giữa cha mẹ và con trên thực tế
Tức là sự phủ nhận quan hệ cha mẹ và còn bằng các hành vi của mình đối
với trẻ như chăm sóc ni dưỡng. Ngồi ra có thể căn cứ vào tư cách, phẩm chất
của người mẹ. Đây được coi là một căn cứ khơng chính thức nhưng điều này là rất
quan trọng khi người mẹ đứa trẻ khơng có hơn nhân hợp pháp; những hành vi ứng
xử và những mối quan hệ xung quanh của người phụ nữ được coi là yếu tố tích cực
để xem xét thì xác định cha con.
1.2.3. Xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng phương pháp khoa học
*Căn cứ vào thời kì hơn nhân của cặp vợ chồng vơ sinh
Thời kì hơn nhân không chỉ là căn cứ để xác định cha, mẹ, con được sinh ra

bằng phương pháp khoa học mà còn là điều kiện bắt buộc để cặp vợ chồng vô sinh
được phép áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản. Có thể thấy rằng thời kỳ hơn nhân là
một căn cứ quan trọng nhất để xác định tư cách người cha người mẹ đối với đứa con
được sinh ra theo phương pháp khoa học.
*Căn cứ vào sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc
thân, của người cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi
Khác với sự thừa nhận con sinh ra bằng đường tự nhiên, việc con sinh ra theo
phương pháp khoa học, các chủ thể phải thể hiện ý chí của mình ngay từ thời điểm
bắt đầu tiến hành áp dụng hỗ trợ sinh sản. Điều này nhằm ràng buộc trách nhiệm và
là một trong những căn cứ quan trọng xác định quan hệ cha mẹ và con trong tương
lai.
*Căn cứ vào sự kiện sinh đẻ
Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh sẽ là người thực hiện tồn bộ q trình
sinh đẻ từ khi thụ thai cho đến khi sinh con. Tuy nhiên, về nguyên tắc phải nằm trọn
trong thời kì hơn nhân chứ khơng thể xảy ra trước ngày đăng kí kết hơn. Theo quy
định của pháp luật hơn nhân thì cặp vợ chồng vơ sinh sau thời gian bắt buộc sống
chung liên tục với nhau không sử dụng các biện pháp tránh thai nào mà khơng thụ
thai và sinh con thì mới áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản.
Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra. Việc xác định cha mẹ con
dựa vào sự tự nguyện của ngừoi phụ nữ độc thân đối với việc sinh con bằng phương
pháp khoa học và sự kiện sinh đẻ của người đó. Vì vậy trong trường hợp này chỉ có
quan hệ mẹ con duy nhất.

3


II. VÍ DỤ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH CHA MẸ CON THEO THỦ TỤC TƯ
PHÁP VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1. Một số ví dụ về việc xác định cha mẹ theo thủ tục tư pháp

2.1.1. Ví dụ 1
Giấy khai sinh của H đã ghi rõ tên của người cha là A, người mẹ là B. Sau có
thỏa thuận tự nguyện và khơng có tranh chấp về việc C mới thực sự là cha của H.
Trong trường hợp này, các bên chỉ cần làm đơn ra ủy ban nhân dân cấp xã làm thủ
tục nhận cha, mẹ con theo mục 6 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP. Căn cứ vào sự tự
nguyện và thỏa thuận, khơng có tranh chấp, Ủy ban nhân dân sẽ ra quyết định xác
nhận C là cha của H.
Việc sửa lại giấy khai sinh và Sổ đăng ký khai sinh theo thủ tục cải chính
được quy định tại mục 7 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP.
Cũng theo các quy định này, hoàn tồn có thể có việc sau khi đã xác nhận C
là cha của H, có thể tiếp tục có thỏa thuận giữa những người liên quan là không phải
C là cha của H, mà D mới là cha của H. Nếu có sự thỏa thuận tự nguyện, khơng có
tranh chấp thì Ủy ban nhân dân hồn có cơ sở để lại xác định D là cha của H.
2.1.2. Ví dụ 2
Giấy khai sinh của T đã ghi rõ tên của cha là P, tên người mẹ là Q. Sau đó có
u cầu của M muốn xác định mình mới là mẹ của T. Điều đáng nói là theo mối
quan hệ hiện tại thì M là chị gái của T, là con của ơng P và bà Q. Nói cách khác, M
và T là hai chị em cùng bố, cùng mẹ. Lý do mà M dùng làm cơ sở cho yêu cầu xác
định T là con mình là do M sinh con khi mới 15 tuổi. Để tránh dị nghị của làng
xóm, M đã nhờ bố mẹ khai sinh cho con mình. Theo M, phải chính là M mới là mẹ
của T, cịn P và Q là ơng bà ngoại của T. Ông P và bà Q cũng thừa nhận những điều
mà con gái M của mình đề nghị là đúng và cũng có yêu cầu xác định T là con của
M. T cũng cơng nhận mình là con gái của M và đề nghị xác nhận M là mẹ của
mình.
Việc xin nhận cha, mẹ, con diễn ra ở thời điểm bên nhận, bên được nhận là
cha, mẹ, con còn sống, việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp
nên căn cứ khoản 1 Điều 32, Điều 33 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, đây là thủ tục
đăng ký nhận cha, mẹ, con thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân cấp
xã.
2.2. Những vướng mắc khi xác định cha mẹ con theo thủ tục tư pháp

2.2.1. Sự tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các cơ quan được
giao xác định cha mẹ con
Xác định cha mẹ con trong hơn nhân và gia đình là việc xác nhận mối quan
hệ huyết thống giữa cha mẹ và con: Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
2014 thì phải căn cứ trên cơ sở tình trạng hôn nhân của người mẹ để xác định cha
4


cho con. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ
hơn nhân là con chung của vợ chồng. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
Khi người vợ sinh con trong thời kỳ hơn nhân thì đứa trẻ được khai sinh tại
Ủy ban nhân dân; người chồng của mẹ đứa trẻ được khai là cha của đứa trẻ. Như
vậy việc xác định cha cho con trong trường hợp này được thực hiện tại cơ quan
hành chính nhà nước đó là Ủy ban nhân dân.
Trường hợp người chồng của người mẹ đứa trẻ không thừa nhận đứa trẻ là
con của họ thì có quyền u cầu Tịa án xác định. Đây thuộc trường hợp có tranh
chấp và được giải quyết theo thủ tục tư pháp. Khi khởi kiện ra Tòa án người chồng
phải đưa ra những chứng cứ để chứng minh rằng họ không phải là cha của đứa trẻ.
Vấn đề khó khăn trong việc xác định thẩm quyền được đặt ra với trường hợp xác
nhận cha mẹ cho con ngoài hơn nhân ; con ngồi giá thú thường do người phụ nữ
khơng có chồng sinh ra hoặc tuy người phụ nữ đang có chồng nhưng người chồng
đã chứng minh, chứng tỏ rằng người con đó khơng phải là con của họ.
Như vậy việc cha mẹ nhận con có thể thơng qua thủ tục hành chính trong
trường hợp khơng có tranh chấp và không thuộc trường hợp pháp luật quy định
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Căn cứ theo quy định pháp luật hiện hành
việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh yêu cầu xác nhận cha mẹ con cịn phụ
thuộc vào tính chất vụ việc có tranh chấp hay khơng có tranh chấp và các quy định
của pháp luật khác.
2.2.2. Thủ tục tố tụng để thụ lí giải quyết vụ án trong trường hợp cha mẹ con đã

chết
Có những vụ án đương sự khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xác định cha mẹ cho
con mà người cha hoặc người mẹ được yêu cầu xác định là cha, mẹ của cháu bé đã
chết hoặc trong trường hợp cả người cha người mẹ của cháu đều đã chết. Điều này
không chỉ liên quan đến thủ tục tố tụng, từ việc thụ lý thơng báo thụ lý, hịa giải đến
việc đưa ra xét xử tại phiên tòa mà còn liên quan đến vấn đề xác định chứng cứ và
chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện.
Vấn đề bất cập đó chính là những người thân của người chết đó khơng đồng
ý cung cấp mẫu để giám định ADN thì chưa có cơ chế nào hữu hiệu để xác định
được quan hệ trong trường hợp này. Hoặc nếu có khai quật tử thi lên thì cũng sẽ gặp
nhiều khó khăn.
2.2.3. Quy định về người có quyền u cầu Tịa án xác định quan hệ cha mẹ con
Bất cập này chỉ ra trong trường hợp cha mẹ đã chết mà người chết đó khơng
có u cầu xác định cha, mẹ, con nhưng người thân thích của người đã chết lại
muốn làm đơn đề nghị xác định đứa trẻ là cháu, là người thân của họ thì lại chưa có
căn cứ pháp lý để họ có quyền u cầu Tịa án giải quyết.
5


Khi đó việc xác định tư cách chủ thể khởi kiện, theo Điều 102 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2014 có quy định các nhóm chủ thể có quyền trực tiếp yêu
cầu Tòa án giải quyết việc xác định cha mẹ con.
Ví dụ người tự nhận là ơng bà nội của cháu bé không thể tự khởi kiện yêu
cầu xác định cháu bé là con đẻ của con trai đã chết của mình do khơng thuộc trường
hợp quy định của pháp luật liệt kê.
2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật
Thứ nhất, để đảm bảo sự việc được giải quyết đúng thẩm quyền, đúng trình
tự, thủ tục và thống nhất trong việc xác định thẩm quyền giải quyết cần bổ sung
quy định tại Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình theo hướng bổ sung thẩm quyền
giải quyết của Tòa án theo thủ tục việc dân sự đối với trường hợp khơng có tranh

chấp để đương sự có lựa chọn cơ quan giải quyết phù hợp và thuận tiện. Đồng thời
cũng có sự thống nhất và phù hợp với Luật Hơn nhân và gia đình với BLTTDS năm
2015.
Cụ thể Điều 101 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 được sửa đổi bổ sung
như sau:
Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định
của pháp luật về hộ tịch; Tòa án nhân dân có thẩm quyền xác định cha, mẹ con theo
quy định pháp luật về thủ tục giải quyết việc dân sự trong trường hợp khơng có
tranh chấp”.
Tịa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợpcó tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và
trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan
đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong
quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
Thứ hai: Để cơ quan có thẩm quyền xác định được đâu là sự việc có tranh
chấp nào là sự việc khơng có tranh chấp cần sớm ban hành quy định hướng dẫn cụ
thể về vấn đề này.
Thứ ba, Luật Hơn nhân và gia đình cần quy định rõ hơn các trường hợp xác
định cha mẹ con theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp; pháp luật hiện hành chỉ
quy định chung chung về quyền nhận cha, mẹ, con mà chưa phân định rõ thẩm
quyền giải quyết.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và phân tích chúng tơi cho rằng hồn tồn có đầy đủ cơ sở
hiểu và buộc phải hiểu rằng đối với việc khai sinh lần đầu cho con trong đó có ghi
6


nhận tên cha, mẹ ngay hoặc khai sinh khi đã được đăng ký khai sinh nhưng khơng

có thơng tin về người cha thì cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền thực hiện trên
cơ sở có đầy đủ giấy tờ, minh chứng (kể cả có sự thỏa thuận của các bên liên quan)
đã được pháp luật quy định. Đối với trường hợp sửa đổi lại khai sinh về phần cha,
mẹ, con hoặc khơng có sự thừa nhận của các bên trong việc xác định cha, mẹ, con
thì cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ sửa đổi những thông tin này khi và chỉ khi đã có bản
án hoặc quyết định của Tòa án tuyên về vấn đề này. Như vậy, Tịa án có thẩm
quyền xác định cha, mẹ, con khi có tranh chấp hoặc kể cả khi có thỏa thuận nhưng
đứa trẻ đã có khai sinh (có ghi tên bố) hoặc chưa có khai sinh nhưng con sinh ra
trong thời kỳ hơn nhân thì đương nhiên là con hợp pháp của cha pháp lý, nên thẩm
quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con phải thuộc thẩm quyền duy nhất của
Tòa án.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Xem thêm bài viết của PGS.TS. Nguyễn Thị Lan (2018), “Mối liên hệ
giữa Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 với BLTTDS 2015 về giải quyết các vụ việc
hơn nhân và gia đình”, Tạp chí Tòa án online đăng ngày 01/7/2018 Nguồn:
/>[2]
Bản án 29/2020/HNGĐ-ST ngày 18/8/2020 V/v tranh chấp xác định
con cho cha của Tòa án nhân dân Huyện V
[3] Nguyễn Thị Lan, Xác định cha, mẹ, con theo Luật HNGĐ Việt Nam – Cơ
sở lí luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học
[4] Xem luận án tiến sĩ Nguyễn Thị Lan, xác định cha mẹ con trang 139,
Tỉnh Thái Bình.

7




×