Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp tư pháp, các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.28 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................i
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................3
CHƯƠNG I: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI........................................................3
1.1. Người dưới 18 tuổi phạm tội...........................................................3
1.2. Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
...................................................................................................................3
1.2.1. Biện pháp khiển trách áp dụng đối với người dưới 18 tuổi.........4
1.2.2. Hòa giải tại cộng đồng, áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:...............................4
1.2.3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn do cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát..........................................................................................................5
1.3. Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội..............................................................................................................6
1.3.1. Biện pháp khiển trách..................................................................6
1.3.2. Hòa giải tại cộng đồng................................................................7
1.3.3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.................................................7
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỐI..............8
2.1. Tình hình và nguyên nhân ngƣời chƣa thành niên phạm tội......8
2.1.1. Tình hình người chưa thành niên phạm tội.................................8
2.1.2. Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên.....................9

i


2.2. Những bất cập trong tư pháp, các biện pháp giám giáo dục đối
với người dưới 18 tuổi...........................................................................10
2.2.1. Đối với biện pháp tư pháp.........................................................10


2.2.2. Đối với các biện pháp giám sát, giáo dục..................................11
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI...13
3.1. Đối với các biện pháp tư pháp.......................................................13
3.2. Đối với các biện pháp giám sát, giáo dục.....................................15
KẾT LUẬN....................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................17

ii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của tồn nhân loại,
khơng có sự phân biệt giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản sắc dân tộc
khác nhau. Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em khơng chỉ là
nhiệm vụ mà cịn là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời của dân tộc. Quyền và
lợi ích trẻ em không chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trong
nước như Hiến pháp, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (năm 2004)
… mà còn thể hiện ở những cam kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công
ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng pháp luật, biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội còn tồn tại một số điểm hạn chế
như hiệu quả áp dụng của biện pháp không cao, người bị áp dụng lẫn gia
đình, cộng đồng nơi người đó sinh sống thường có tâm lý được "tha bổng", cơ
chế phân cơng, theo dõi khơng chặt chẽ, việc tái hịa nhập của người chưa
thành niên bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là khó khăn,
phạm vi áp dụng cịn hạn chế, biện pháp lựa chọn cịn ít…, chưa tương thích
với các chuẩn mực quốc tế. Xuất phát từ những điểm hạn chế trên cho thấy
cần phải nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp đang được quy định

trong Bộ luật Hình sự. Đồng thời, cần nghiên cứu bổ sung thêm một số biện
pháp tư pháp để tăng thêm sự lựa chọn nhằm có những biện pháp áp dụng
hiệu quả nhất đối với người chưa thành niên phạm tội.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hồn thiện các quy định của Bộ luật
Hình sự về biện pháp tư pháp, giám sát và giáo dục là một việc làm quan
trọng và mang tính cấp thiết, đây cũng chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài "
Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp tư pháp, các biện pháp giám sát,
giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội" làm đề tài nghiên cứu
1


2


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Người dưới 18 tuổi phạm tội
Thứ nhất, áp dụng bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cụ thể là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của
Chương xii; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái
với quy định của Chương XII Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm
2017.
Vậy hiện nay ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, chưa có
một khái niệm nào cụ thể, nhất định quy định chung cho người dưới 18 tuổi
hay còn gọi là người chưa thành niên.
Ở Việt Nam, độ tuổi chịu trách nhiệm dân sự trong các vụ việc được bộ
luật dân sự quy định cụ thể và chia ra thành nhiều giai đoạn khác nhau. Đối
với Bộ luật hình sự, điều 90 quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi

phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương xii;
theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định
của Chương XII Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
1.2. Biện pháp tư pháp giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Để tạo điều kiện cho nghười dưới 18 tuổi sửa chữa lầm lỗi, khắc phục
hậu quả, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, trong quá trình giải quyết vụ án,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm
hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc
người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện
pháp này. Cụ thể:
3


1.2.1. Biện pháp khiển trách áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
Đối với phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây nhằm giúp họ
nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả gây ra đối với cộng đồng, xã hội và
nghĩa vụ của họ:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng,
phạm tội nghiêm trọng, trừ các tội: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác; hiếp dâm; cướp tài sản và các tội phạm về ma túy
quy định tại các điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự; Người
dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trị không đáng kể trong vụ án.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp dụng biện pháp
khiển trách. Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự
chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
- Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3
Điều 93 Bộ luật Hình sự.
Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực
hiện các nghĩa vụ quy định trên từ 03 tháng đến 01 năm.

1.2.2. Hòa giải tại cộng đồng, áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm
tội nghiêm trọng thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, phạm
tội nghiêm trọng, trừ các tội: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác; hiếp dâm; cướp tài sản và các tội phạm về ma túy quy
định tại các điều 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật Hình sự.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự.

4


Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân dân
cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hịa giải và đề nghị miễn trách
nhiệm hình sự.
- Người bị áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải thực hiện các
nghĩa vụ sau: Xin lỗi người bị hại và bồi thường thiệt hại; Tham gia các
chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao động với
hình thức phù hợp.
Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin
lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ từ 03 tháng đến 01 năm.
1.2.3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
Ngồi ra Tịa án có thể áp dụng từ 01 năm đến 02 năm đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm
tội nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của
Bộ luật Hình sự;
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng thuộc

trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự.
Người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được giao cho
Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải thực hiện các nghĩa
vụ sau: Chấp hành đầy đủ nghĩa vụ về học tập, lao động; Chịu sự giám sát,
giáo dục của gia đình, xã, phường, thị trấn; Khơng đi khỏi nơi cư trú khi
không được phép và thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93
của Bộ luật Hình sự. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã
chấp hành một phần hai thời hạn và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy
ban nhân dân cấp xã được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Cơ quan đã áp
5


dụng biện pháp này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã,
phường, thị trấn.
1.3. Biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Các biện pháp giám sát, giáo dục được quy định tại Mục 2 Chương XII,
từ Điều 93 đến Điều 95 BLHS năm 2015. Bao gồm các biện pháp: Khiển
trách; hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Đó là các trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các
trường hợp quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của BLHS, thì có thể được miễn
TNHS và áp dụng các biện pháp khiển trách; hòa giải tại cộng đồng hoặc biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc
người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện
pháp này. Cụ thể như sau:
1.3.1. Biện pháp khiển trách
Điều 93 BLHS 2015 được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại
điểm a khoản 2 điều 91 của BLHS 2015; người dưới 18 tuổi là người đồng

phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
Việc khiển trách đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải có sự chứng
kiến của cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp của người dưới 18 tuổi. Người
bị khiển trách phải tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học
tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu; tham
gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức, tham gia lao
động với hình thức phù hợp.

6


Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian
thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều 93 BLHS
2015 từ 03 tháng đến 01 năm.
Biện pháp này nhằm giúp họ nhận thức rõ hành vi phạm tội và hậu quả
gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ của họ.
1.3.2. Hòa giải tại cộng đồng
Điều 94 BLHS năm 2015 được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng thuộc
trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 điều 91 của BLHS 2015; người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại điểm b khoản
2 Điều 91 của BLHS.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phối hợp với Ủy ban nhân
dân cấp xã tổ chức việc hòa giải tại cộng đồng khi người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của người bị hại đã tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
Người được áp dụng biện pháp hòa giải tại cộng đồng phải xin lỗi
người bị hại và bồi thường thiệt hại; tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của
nơi cư trú, học tập, làm việc; trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được
yêu cầu; tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa phương tổ chức,
tham gia lao động với hình thức phù hợp.

Tùy trường hợp cụ thể, cơ quan có thẩm quyền ấn định thời điểm xin
lỗi, thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại điểm a
khoản 3 điều 94 BLHS 2015 và nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản
3 điều 93 của BLHS 2015 từ 03 tháng đến 01 năm.
1.3.3. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Theo điều 95 BLHS năm 2015, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc
Tịa án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 01 năm
đến 02 năm đối với người từ đủ 16 t̉i đến dưới 18 t̉i phạm tợi ít nghiêm
7


trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 2 Điều 91 của
BLHS; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 91 của BLHS.
Người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án giao cho Ủy
ban nhân dân cấp xã tổ chức giám sát, giáo dục phải chấp hành đầy đủ nghĩa
vụ về học tập, lao động; chịu sự giám sát, giáo dục của gia đình, xã, phường,
thị trấn; không đi khỏi nơi cư trú khi không được phép và thực hiện các nghĩa
vụ theo quy định tại khoản 3 Điều 93 của BLHS 2015.
Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn đã chấp hành một
phần hai thời hạn, có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của Ủy ban nhân dân cấp
xã được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục, cơ quan đã áp dụng biện pháp
này có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý hình sự đối với người dưới
18 tuổi phạm tội là một trong những điểm mới nổi bật của BLHS 2015, thể
hiện rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, tăng tính hướng thiện trong
chính sách xử lý hình sự, nhất là đối với đối tượng cần bảo vệ đặc biệt là
người chưa thành niên.
CHƯƠNG II: NHỮNG ĐIỂM VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG
PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỐI

2.1. Tình hình và nguyên nhân ngƣời chƣa thành niên phạm tội
2.1.1. Tình hình người chưa thành niên phạm tội
Trong những năm qua, hoạt động tội phạm trong lứa tuổi người chưa
thành niên đang có xu hướng gia tăng với tính chất nghiêm trọng của hành vi
phạm tội. Cùng với sự gia tăng về số lượng thì mức độ nguy hiểm của tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện cũng có xu hướng nguy hiểm, liều
lĩnh hơn. Tội phạm có tính chất băng nhóm, dùng hung khí đã xuất hiện.

8


Về cơ cấu của tội phạm do người chưa thành niên phạm tội thường tập
trung vào các tội xâm phạm sở hữu hoặc tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người.
Về độ tuổi của người chưa thành niên phạm tội, chủ yếu do người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm
tội ít hơn.
2.1.2. Nguyên nhân phạm tội của người chưa thành niên
Về phía gia đình: Phần lớn trẻ em vi phạm pháp luật có hồn cảnh gia
đình kinh tế khó khăn hoặc gặp hoàn cảnh éo le: bố mẹ ly thân, ly dị, bố mẹ
khơng có việc làm hoặc việc làm khơng ổn định. Trong nhiều trường hợp,
người chưa thành niên phạm tội do thiếu sự quan tâm, giám sát dạy bảo của
người thân, nảy sinh tâm lý chán chường, bỏ học và bị bạn bè xấu rủ rê vào
con đường phạm tội.
Về phía nhà trường: Qua nghiên cứu cho thấy có lúc có nơi nhà trường
chưa thực hiện tốt chức năng của mình. Việc giáo dục lối sống, đạo đức cho
các em trong nhà trường chưa được quan tâm đúng mức, tình trạng học sinh
lười học, bỏ học đi lang thang còn nhiều. Một số vụ án phạm tội xẩy ra do nhà
trường chưa quản lý chặt chẽ, chưa nắm được những mâu thuẫn trong học
sinh để kịp thời can thiệp nên dẫn đến trường hợp học sinh tụ tập lại thành

từng nhóm giải quyết các mâu thuẫn theo kiểu xã hội đen, dẫn đến hành vi
phạm tội.
Nguyên nhân từ phía xã hội: Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển,
có sự giao thoa mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa giữa các nước. Cùng với những
yếu tố tích cực trong sự giao thoa kinh tế, văn hóa thì các yếu tố mang tính
tiêu cực cũng xâm nhập ảnh hưởng tới mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là
người chưa thành niên với tâm lý thích cái mới.

9


Về phía người chưa thành niên: Một trong những nguyên nhân của tình
hình phạm tội ở người chưa thành niên xuất phát từ chính đặc điểm tâm sinh
lý, nhận thức còn hạn chế của các em. Người chưa thành niên đang trong q
trình hồn thiện về thể chất và tinh thần, nhận thức cịn hạn chế nên dễ dàng
bị lơi kéo vào con đường phạm tội.
2.2. Những bất cập trong tư pháp, các biện pháp giám giáo dục đối với
người dưới 18 tuổi
2.2.1. Đối với biện pháp tư pháp
Qua thực tiễn cho thấy, tỷ lệ bị cáo áp dụng biện pháp tư pháp là rất
thấp, chủ yếu áp dụng hình phạt trong quá trình xử lý người chưa thành niên
phạm tội.
Bên cạnh đó, trong q trình nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn các
biện pháp tư pháp này ta còn nhận thấy một số điểm bất cập như sau:
Thứ nhất, về phạm vi áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn chỉ áp dụng đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Đây là
một hạn chế vì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về nhận
thức hạn chế hơn nhiều so với người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi, hành vi của họ
chỉ bị xử lý hình sự khi ở mức độ rất nguy hiểm hoặc đặc biệt nguy hiểm cho
xã hội nhưng xét ở một góc độ nhất định thì họ cũng chính là nạn nhân của

nhận thức hạn chế, do đó, họ cần có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình ngay
trong chính cộng đồng, khơng nên áp dụng các biện pháp mang tính cách ly
đối với họ.
Thứ hai, thực tiễn xét xử cho thấy, việc áp dụng biện pháp giáo dục tại
xã, phường, thị trấn với tư cách là biện pháp tư pháp hầu như không được áp
dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp áp dụng biện pháp tư pháp này thì hiệu
quả lại không cao.

10


Thứ ba, hiệu quả của biện pháp này có vai trò quan trọng của người
trực tiếp giáo dục, giám sát người chưa thành niên phạm tội nhưng quy định
của pháp luật lại chưa cụ thể.
Thứ tư, trên thực tế khi chấp hành biện pháp này có tâm lý coi như tha
bổng nên các cơ quan có thẩm quyền cũng như người chưa thành niên phạm
tội không quan tâm đến thời hạn phải chấp hành, quyền, nghĩa vụ của mình và
quyền được chấm dứt thời hạn chấp hành biện pháp tư pháp. Thực tế này đã
làm mất quyền lợi của người chưa thành niên phạm tội.
Thứ năm, sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức, đồn thể và gia đình trong
việc giám sát, giáo dục người chấp hành biện pháp tư pháp nhìn chung cịn
thiếu đồng bộ, thiếu tính chặt chẽ, hiệu quả chưa cao.
Thứ sáu, qua thực tiễn áp dụng biện pháp này cho thấy việc tái hòa
nhập của người chưa thành niên phạm tội là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự
quan tâm của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng tại các trường giáo
dưỡng, các em chỉ được học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề mà
chưa có chương trình đào tạo kỹ năng sống, kỹ năng tái hịa nhập cộng đồng
hoặc các chương trình tham vấn, tư vấn trang bị các kỹ năng giúp các em tái
hòa nhập sau khi ra trường.
Thứ bảy, hạn chế trong việc chưa có sự hướng dẫn cụ thể về trình tự,

thủ tục áp dụng biện pháp tịch thu tiền, vật trực tiếp liên quan đến tội phạm và
biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại trong Bộ luật tố
tụng hình sự nên gây khó khăn trong thực tế áp dụng
2.2.2. Đối với các biện pháp giám sát, giáo dục
Mặc dù BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 đã quy định đầy đủ về
thẩm quyền, nghĩa vụ, thời hạn và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục nhưng hiện chưa có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn riêng về các biễu mẫu áp dụng đối với người chưa thành
11


niên phạm tội đối với những trường hợp trên nên Thẩm phán của các Tịa án
địa phương rất ít khi áp dụng các biện pháp này.
Hai là, việc đánh giá tâm lý người chưa thành niên của Hội đồng xét
xử: Mỗi cá nhân người chưa thành niên có mơi trường sống khác nhau nên
cách nhìn nhận của họ về cuộc sống, về xã hội cũng khác nhau. Do vậy, Hội
đồng xét xử mà trước hết là Thẩm phán chủ tọa phiên tịa phải thấu hiểu và có
cái nhìn đúng về mỗi cá nhân là người chưa thành niên khi phạm tội, để đánh
giá chứng cứ và xác định hình phạt cho chính xác nhằm đảm bảo tính nghiêm
minh của pháp luật nhưng cũng nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm,
trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Theo quy định tại Điều 415 của BLTTHS năm 2015 và Thơng tư số
02/2018/TT-TANDTC ngày 21/9/2018 của TANDTC thì việc xét xử vụ án
hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của
Tòa gia đình và người chưa thành niên; đối với các Tịa án chưa tổ chức được
Tịa gia đình và người chưa thành niên thì việc xét xử các vụ án này do Thẩm
phán chuyên trách thực hiện, là người có kinh nghiệm xét xử các vụ án liên
quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ
năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18
tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo

dục đối với người dưới 18 tuổi.
Mặc dù hiện nay chưa thành lập được Tịa gia đình và người chưa
thành niên tại các Tịa án địa phương nhưng trong giai đoan đang tinh giản
biên chế hiện nay thì số lượng Thẩm phán khơng tăng nhưng số lượng các
loại vụ án ngày càng tăng với tính chất ngày càng phức tạp. Cho nên, việc
phân cơng các vụ án có người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cho một
Thẩm phán chuyên trách đảm nhận là rất khó thực hiện, thực tế các Tịa án địa
phương chủ yếu phân đều cho các Thẩm phán trong đơn vị cùng giải quyết.
Trong số các Thẩm phán này có Thẩm phán có kinh nghiệm xét xử các vụ án
12


liên quan đến người dưới 18 tuổi và có Thẩm phán chưa có kinh nghiệm và
tất cả các Thẩm phán này đều chưa được đào tạo về tâm lý học, khoa học giáo
dục về tâm lý người dưới 18 tuổi. Thực tế hiện nay trong hệ thống Tòa án và
các tổ chức giáo dục chưa có những lớp tập huấn riêng về tâm lý người chưa
thành niên phạm tội nên việc hiểu tâm lý để đánh giá ý thức phạm tội của
người chưa thành niên của mỗi Thẩm phán, Hội đồng xét xử là khác nhau,
phụ thuộc chủ yếu vào ý thức chủ quan của mỗi Thẩm phán và Hội đồng xét
xử.

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ NHẰM HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
3.1. Đối với các biện pháp tư pháp
Về nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người chưa thành
niên phạm tội: Để khẳng định việc ưu tiên áp dụng biện pháp này, khoản 4
Điều 69 Bộ luật Hình sự có thể sửa đổi như sau:
"Khi xét xử, Tịa án ưu tiên áp dụng các biện pháp tư pháp quy định tại
Điều 70 của Bộ luật này trước khi xem xét việc áp dụng hình phạt. Biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn được ưu tiên áp dụng."

Về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Cần mở rộng phạm vi áp dụng của biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn để tạo cơ hội cho người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi được hưởng sự giáo dục từ cộng đồng.
Đồng thời, để biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đạt hiệu quả,
cần có quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức giao giám sát, giao
dục với gia đình và Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Pháp luật cũng cần phải hướng dẫn việc xác định các cơ quan, tổ chức
phù hợp với nhu cầu giáo dục của người chưa thành niên.
13


Vấn đề trách nhiệm của người chưa thành niên bị kết án cũng cần được
tăng cường.
Về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: cần bổ sung việc đào tạo,
hướng dẫn các kỹ năng sống, các hoạt động tham vấn, tư vấn để trang bị
những kiến thức cần thiết về tái hòa nhập cộng đồng.
Về biện pháp tịch thu vật, tiền liên quan đến việc phạm tội; trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi và bắt buộc
chữa bệnh.
Đối với các biện pháp tư pháp còn lại, để việc áp dụng các biện pháp
này được thuận lợi, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu hướng dẫn
cụ thể trình tự, thủ tục áp dụng của từng biện pháp.
Kiến nghị bổ sung thêm biện pháp tư pháp quy định tại Điều 70 Bộ luật
hình sự
Để tăng cường hiệu quả của việc xử lý hành vi phạm tội của người
chưa thành niên, theo tác giả nên mở rộng khả năng lựa chọn các biện pháp áp
dụng của Tịa án để phát huy tính linh hoạt, tránh việc áp dụng biện pháp cách
ly các em khỏi xã hội. Do đó, có thể bổ sung biện pháp lao động phục vụ
cộng đồng. Biện pháp tư pháp lao động phục vụ cộng đồng có thể được áp

dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
khi thực hiện các một trong các hành vi sau:
-

Hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp, hủy hoại, cố ý

làm hư hỏng tài sản quy định tại khoản 1 Điều 137, 138, 143 Bộ luật hình sự
trừ trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này mà còn vi phạm;
-

Hành vi tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép quy định tại

khoản 1 Điều 206, 207 Bộ luật hình sự.
14


Thời gian áp dụng từ 30 giờ đến 120 giờ, không quá 3 giờ một ngày.
Biện pháp lao động phục vụ cộng đồng được áp dụng trên cơ sở cân nhắc độ
tuổi, sức khỏe, khả năng của người chưa thành niên phạm tội.
Thời gian lao động không được ảnh hưởng tới thời gian học tập, lao
động bình thường của người chưa thành niên và công việc lao động phải phù
hợp với sự phát triển thể chất của người chưa thành niên.
3.2. Đối với các biện pháp giám sát, giáo dục
Để đảm bảo quyền quyền lợi của người dưới 18 tuổi phạm tội và áp
dụng pháp luật được thống nhất. Theo tác giả, các cơ quan tư pháp Trung
ương cần có văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định miễn trách
nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội tại khoản 2 Điều 91
BLHS năm 2015. Đồng thời, Hội đồng Thẩm phán TANDTC cần có Nghị
quyết ban hành các biễu mẫu hướng dẫn riêng đối với những trường hợp

người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp giám sát, giáo dục quy định tại Chương XII của BLHS.
Thứ hai, các cơ quan Tư pháp Trung ương, hệ thống Tòa án và các tổ
chức giáo dục cần có những lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học,
khoa học giáo dục đối với người người dưới 18 tuổi cho các cơ quan tư pháp,
cán bộ Đồn thanh niên và giáo viên, nhà trường,… Trong đó, trước mắt là
đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người
tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi cho đội ngũ điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Thứ ba, các cơ quan tư pháp Trung ương cần sớm có văn bản hướng
dẫn cụ thể về đối tượng, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng, hủy
bỏ biện pháp đặt tiền để bảo đảm và biện pháp bảo lĩnh đối với đối tượng bị
buộc tội là người 18 tuổi để các Tòa án địa phương có căn cứ áp dụng thống
nhất pháp luật.
15


KẾT LUẬN
Những quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp thể hiện tinh
thần đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý chuyển
hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, các uy định này thể
hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ
quyền con người trong chính sách xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
được ghi nhận tại Công ước quốc về quyền trẻ em. Điều này cho thấy nỗ lực
của Nhà nước trong việc làm hài hòa giữa hệ thống pháp luật quốc gia với
Công ước quốc tế về quyền trẻ em.
Nhìn chung, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp thay thế xử lý
hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là bước khởi điểm trong

sự thay đổi tư duy pháp lý, khi vấn đề ưu tiên áp dụng các biện pháp xử lý
chuyển hướng trước khi quyết định áp dụng hình phạt được đưa ra bàn luận.
Điều này thể hiện một góc nhìn nhân văn trong việc hồn thiện hệ thống tư
pháp hình sự dành cho người chưa thành niên. Tuy nhiên, để quy định này
phù hợp với mục tiêu cũng như định hướng của tư pháp phục hồi – xử lý
chuyển hướng, nhà làm luật cần nghiên cứu thêm, đặc biệt lưu ý sự đồng nhất
về quy định của cả Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015./.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hồn thiện chính sách hình phạt trong quy định của Bộ luật Hình sự
2015 theo tinh thần của các Công ước quốc tế về quyền con người –
ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
2) Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự 2015
về các hình phạt chính khơng tước tự do – ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng
3) Một vài ý kiến về hoàn thiện dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Hình sự 2015 về án treo và tha tù trước thời hạn có điều
kiện – ThS. Mai Khắc Phúc
4) Bàn về việc khắc phục một số hạn chế, sai sót trong Bộ luật Hình sự
2015 – PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa & ThS. Vũ Thị Thúy
5) Kiến nghị bổ sung quy định về thời điểm thực hiện hành vi phạm tội
trong Bộ luật Hình sự 2015 – TS. Vũ Thị Thúy
6) Phạm Mạnh Hùng (2007), "Bàn về trách nhiệm hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam", Kiểm sát.

17




×