Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật thình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.88 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em là nhiệm vụ chung của toàn nhân
loại, không có sự phân biệt giữa các quốc gia có chế độ xã hội và bản
sắc dân tộc khác nhau. Với người Việt Nam, việc chăm sóc và bảo vệ
trẻ em không chỉ là nhiệm vụ mà còn là một truyền thống tốt đẹp, lâu
đời của dân tộc. Quyền và lợi ích trẻ em không chỉ được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật trong nước như Hiến pháp, Luật Bảo vệ,
Chăm sóc và Giáo dục trẻ em.... mà còn thể hiện ở những cam kết,
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam là một trong
những nước đầu tiên ở Châu Á tham gia Công ước về quyền trẻ em
của Liên hợp quốc.
Người dưới 18 tuổi hay còn được gọi là người chưa thành niên
là những người còn non nớt về thể chất và trí tuệ, nên việc nghiên
cứu chính sách pháp luật áp dụng khi họ có hành vi vi phạm pháp
luật nói chung và vi phạm pháp luật hình sự nói riêng là một việc làm
cần thiết, đây cũng chính là lý do tôi lựa chọn đề tài "Các biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật thình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng" làm luận văn Thạc sĩ Luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Các nghiên cứu do phạm vi và mục đích của mình nên chưa đi
sâu về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi, thường là
các bài viết nghiên cứu trên các tạp chí. Biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi thường chỉ là một phần trong toàn bộ nghiên cứu
về trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi hoặc các chế tài áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi. Chính vì vậy, các nghiên cứu về
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi chỉ dừng lại ở việc
nghiên cứu các điều kiện áp dụng mà chưa có sự so sánh với các chế
1



tài khác, tìm hiểu về sự thay đổi trong quy định của pháp luật liên
quan đến biện pháp tư pháp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ về mặt lý luận cũng như
những nội dung cơ bản của hệ thống biện pháp tư pháp đối với dưới
18 tuổi phạm tội theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở đánh giá thực
tiễn áp dụng các biện pháp này để kiến nghị việc hoàn thiện các quy
định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo
pháp luật hình sự nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận để làm rõ khái niệm, đặc điểm cơ
bản của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phân
tích các nguyên tắc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Trên cơ sở những nghiên cứu, phân tích, đánh giá tác giả đưa
ra đề xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm đạt được mục đích
của việc xử lý tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và
thực tiễn của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Phần
chung (Chương VI, Chương X) của BLHS Việt Nam hiện hành.

2


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa vào cơ sở
phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, về đấu
tranh phòng chống tội phạm và trên cơ sở chính sách hình sự của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp được sử dụng
chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm các phương pháp nghiên cứu
khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý nói
riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ
thống hóa pháp luật...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa
học về mặt lý luận và thực tiễn của biện pháp tư pháp đối với ngưới
dưới 18 tuổi phạm tội.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn phân tích một cách cụ thể và
toàn diện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Phân tích, đánh giá đặc điểm
của biện pháp tư pháp, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp
luật quốc tế. Nghiên cứu, đưa ra các giải pháp kiến nghị việc hoàn
thiện các quy định đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
bằng biện pháp tư pháp, từ đó, tăng cường hiệu quả của công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm lứa tuổi vị thành
niên nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm ba chương:

Chương 1: Các vấn đề lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
và các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
3


Chương 2: Thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật Hình sự năm 1999 về các biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện các quy định của bộ luật hình
sự và giải pháp áp dụng đúng các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM
TỘIVÀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Các vấn đề lý luận về người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội
Gần đây, tham gia góp ý sửa đổi, bổ sung BLHS, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra khái niệm ngắn gọn hơn: “Người chưa thành
niên phạm tội là người ở thời điểm thực hiện hành vi phạm tội đã đủ
14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi”. Từ những quy định nêu trên, có thể
đưa ra khái niệm về người chưa thành niên phạm tội theo những quy
định của pháp luật hiện hành như sau: Người chưa thành niên phạm
tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm
hình sự và có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được BLHS quy định là tội phạm.
1.1.2. Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
Nguyên tắc thứ nhất, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

Nguyên tắc thứ hai, người dưới 18 tuổi có thể được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội
nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được
4


gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Nguyên tắc thứ ba, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người
dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện
chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành
vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc thứ tư, ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng thay thế cho
hình phạt trong trường hợp không cần thiết.
Nguyên tắc thứ năm là không xử phạt tù chung thân hoặc tử
hình đối với người dưới 18 tuổi, hạn chế áp dụng hình phạt tù. Khi xử
phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên
phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Nguyên tắc thứ sáu, án đã tuyên đối với người dưới 18 tuổi khi
chưa đủ 16 tuổi, thì không để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy
hiểm.
1.2. Các vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.2.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
những chế tài hình sự của Nhà nước áp dụng đối với người dưới 18

tuổi phạm tội, có tính chất ít nghiêm khắc hơn hình phạt, được các cơ
quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng nhằm hỗ trợ hay thay
thế cho hình phạt.
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
5


Theo GS.TSKH Lê Cảm, các biện pháp tư pháp có các đặc
điểm (dấu hiệu):
Thứ nhất, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trước hết là một biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ có thể
được áp dụng khi có hành vi phạm tội do người dưới 18 tuổi thực
hiện.
Thứ hai, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi là biện
pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt và
việc áp dụng biện pháp tư pháp thay thế hình phạt không để lại án
tích.
Thứ ba, biện pháp tư pháp cũng chỉ có thể xuất hiện khi có sự
việc phạm tội (vì không có tội phạm, thì cũng không thể áp dụng biện
pháp tư pháp với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít
nghiêm khắc hơn hình phạt);
Thứ tư, căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể,
biện pháp tư pháp hỗ trợ hình phạt có thể do cơ quan tư pháp hình
sự khác có thẩm quyền áp dụng và đối với người phạm tội nói chung
(kể cả người bị kết án), còn biện pháp tư pháp thay thế hình phạt chỉ
do Tòa án áp dụng đối với người bị kết án nói riêng;
Thư năm, biện pháp tư pháp chỉ nhằm hạn chế (chứ không
tước đoạt) quyền, tự do của người phạm tội hoặc nhằm hỗ trợ hoặc
nhằm thay thế cho hình phạt;

Thứ sáu, cũng như hình phạt, là biện pháp cưỡng chế về hình
sự, biện pháp tư pháp cũng được quy định trong pháp luật hình sự và
phải do cơ quan tư pháp có thẩm quyền áp dụng theo một trình tự
đặc biệt do luật tố tụng hình sự quy định;
Thứ bảy, cũng như hình phạt, biện pháp tư pháp chỉ mang tính
chất cá nhân vì theo pháp luật hình sự Việt Nam nó chỉ được áp dụng
đối với riêng bản thân người phạm tội (kể cả người bị kết án).
6


Trên đây là những đặc điểm nổi bật của biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài ra các biện pháp còn có
những đặc điểm khác như việc áp dụng các biện pháp này theo một
trình tự do luật tố tụng hình sự quy định, các biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ được áp dụng riêng đối với bản
thân người dưới 18 tuổi, đây là đặc điểm về chủ thể đặc biệt chấp
hành.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế và một số nước về biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Nghiên cứu pháp luật của các nước trên thế giới cho thấy,
nhiều cách xử lý người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật đều mang tính
giáo dục, phòng ngừa mà không sử dụng tới hình phạt - chế tài hình
sự nghiêm khắc nhất đối với việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
đã được cộng đồng quốc tế xây dựng và thực hiện, trong đó có các
biện pháp tư pháp áp dụng cho người dưới 18 tuổi phạm tội.
Nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội đã được cộng
đồng quốc tế ghi nhận thông qua Công ước Liên Hợp Quốc về quyền
trẻ em và hàng loạt các chuẩn mực quốc tế về tư pháp người dưới 18
tuổi như: Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư
pháp vị thành niên (Quy tắc Bắc Kinh), Hướng dẫn Riyadh của Liên

Hợp Quốc về phòng ngừa vi phạm pháp luật của người dưới 18 tuổi,
Quy tắc chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về các biện pháp không
giam giữ (Quy tắc Kyoto).
Trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế, việc áp dụng các biện pháp
có mức độ nghiêm khắc nhẹ hơn hình phạt như các biện pháp tư pháp
hay xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có
những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, về thời điểm áp dụng và các cơ quan có thẩm quyền
áp dụng.
7


Để tránh việc người dưới 18 tuổi phải chịu những hình phạt
nghiêm khắc mà không cần thiết để đạt được mục đích giáo dục,
pháp luật các quốc gia thường cho phép việc áp dụng các biện pháp
tư pháp để thay thế. Bên cạnh đó, pháp luật các quốc gia đều cho
phép áp dụng xử lý chuyển hướng tại bất kỳ thời điểm nào của quá
trình tố tụng với vụ án và khuyến khích áp dụng càng sớm càng tốt
(như tại Philippines, Nam Phi, Úc, Thái Lan, Canada, Nhật Bản,…).
Theo pháp luật của các nước, các cơ quan có thẩm quyền như Công
an, Kiểm sát, Toà án được trao thẩm quyền tự quyết áp dụng các biện
pháp xử lý chuyển hướng khi thấy có đủ điều kiện của luật định. Hay
tại Philippines, thì đối với những vụ án mà có mức hình phạt tù dự
kiến là 6 năm tù trở lên thì phải do thẩm phán quyết định.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng các biện pháp tư pháp hình sự
và các biện pháp xử lý chuyển hướng.
Pháp luật một số nước quy định mức giới hạn của hình phạt tù
dự kiến có thể áp dụng đối với tội phạm mà người dưới 18 tuổi đã
thực hiện làm một trong những căn cứ để quyết định áp dụng các
biện pháp tư pháp để thay thế hay xử lý chuyển hướng; theo pháp

luật của Philippines, thì mức tù tối đa dự kiến là 12 năm, Thái Lan là
5 năm. Một số nước lại giới hạn không áp dụng đối với loại tội có sử
dụng bạo lực nghiêm trọng như giết người, cướp tài sản (Cộng hoà
Nam Phi). Tuy nhiên, nhiều quốc gia như: Úc, Nhật Bản,
Pháp,…không căn cứ vào loại tội phạm hay mức hình phạt tù có thể
áp dụng đối với tội phạm mà lại căn cứ vào thái độ, khả năng cải
tạo, phục thiện của người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như mối nguy
cơ đối với cộng đồng,…để xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp
tư pháp thay thế cho các hình phạt hoặc áp dụng xử lý chuyển hướng
phù hợp, bảo đảm hiệu quả giáo dục và phòng ngừa đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
8


Ngoài ra, pháp luật các nước cũng quy định các điều kiện khác
trên cơ sở phù hợp với khuyến nghị của Uỷ ban về quyền trẻ em của
Liên hợp quốc như: Người dưới 18 tuổi thành khẩn nhận tội; sự chấp
thuận của người dưới 18 tuổi và đại diện hợp pháp của họ về việc áp
dụng xử lý chuyển hướng cũng như các biện pháp can thiệp; người bị
hại đồng ý với cách thức xử lý và áp dụng các biện pháp tư pháp thay
cho hình phạt,…
Bên cạnh hệ thống các biện pháp tư pháp có thể áp dụng như
một chế tài hình sự khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, theo đúng
tinh thần của các Công ước quốc tế, pháp luật rất nhiều quốc gia còn
quy định về các biện pháp xử lý chuyển hướng để tạo cơ hội cho cán
bộ có thẩm quyền trong việc lựa chọn biện pháp xử lý phù hợp với
từng trường hợp cụ thể, với nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh của
người dưới 18 tuổi, các biện pháp xử lý chuyển hướng này rất đa
dạng, góp phần hỗ trợ cho việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội
cùng với hệ thống chế tài hình sự là các biện pháp tư pháp và hình

phạt như: nhắc nhở của cảnh sát, cảnh cáo của cảnh sát, công tố viên
(áp dụng phổ biến tại Canada); họp hoà giải, họp nhóm gia đình
(Philippines, Thái Lan, New Zeland, Lào)…
Hơn nữa, theo pháp luật các nước như Thái Lan, Canada,
Philippines, Nam Phi,…để đảm bảo người dưới 18 tuổi hoà nhập cộng
đồng, loại bỏ các yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến tái phạm, tuỳ từng
trường hợp cụ thể việc áp dụng xử lý chuyển hướng phải buộc đi kèm
theo các biện pháp can thiệp như buộc đi học văn hoá, học nghề; lao
động phục vụ cộng đồng; đền bù cho nạn nhân; tư vấn hoặc trị liệu cho
người nghiện ma tuý hoặc nghiện rượu; tham gia các chương trình
tham vấn, kỹ năng sống; trình diện cơ quan có thẩm quyền…

9


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC BIỆN PHÁP TƯ
PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
2.1.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
căn cứ áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
2.1.1.1.Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
căn cứ áp dụng
* Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Tại BLHS 1999 đã ghi nhận biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn thay cho biện pháp buộc phải chịu thử thách đã quy

định trong BLHS 1985.Có sự thay đổi này bởi thực chất mọi hoạt
động của người phạm tội vẫn diễn ra bình thường dưới sự giám sát
của chính quyền địa phương mà không phải trải qua một thử thách
nào.
Đối với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, căn cứ để
áp dụng biện pháp này là độ tuổi và tính chất nghiêm trọng của tội
mà người dưới 18 tuổi phạm phải.
* Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
So với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng có tính nghiêm khắc hơn, bởi lúc này
người dưới 18 tuổi bị buộc phải cách ly với môi trường sống bên
ngoài bằng việc bị đưa vào một cơ sở giáo dục có tính kỷ luật cao
hơn. Chính vì tính nghiêm khắc của biện pháp này mà căn cứ để áp
dụng biện pháp cũng nhiều hơn so với biện pháp giáo dục tại xã,
10


phường, thị trấn.
Cụ thể, khoản 3 Điều 70 BLHS 1999 quy định: “Toà án có thể
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai
năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất
nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống
của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ
luật chặt chẽ”. Như vậy, không chỉ căn cứ vào tính chất nghiêm
trọng của tội phạm mà còn căn cứ vào nhân thân và môi trường sống
của người dưới 18 tuổi, họ sẽ bị áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng.
2.1.1.2. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội

Hai biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và đưa vào
trường giáo dưỡng với tư cách là biện pháp tư pháp đều do Tòa án có
thẩm quyền quyết định. Đây là một điểm giúp phân biệt với hai biện
pháp cùng tên với tư cách là “biện pháp xử lý hành chính”. Tại
khoản 2 Điều 98 Luật XLVPHC năm 2012 quy định thẩm quyền cho
Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã xem xét áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn. Và đối với biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng, Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ quan có
thẩm quyền xem xét áp dụng.
Thủ tục áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội được quy định như sau:
Thứ nhất, thủ tục tiến hành biện pháp tư pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn
Thứ hai, thủ tục áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường
giáo dưỡng

11


2.1.1.3. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
các trường hợp đặc biệt khi thi hành áp dụng các biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Trường hợp người được giáo dục bỏ trốn: Chủ tịch UBND cấp
xã báo cáo Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện ra quyết
định truy tìm và tổ chức truy tìm. Khi tiếp nhận người được giáo dục,
cơ quan tiếp nhận phải lập biên bản và đưa ngay người được giáo dục
đến cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được
giáo dục bỏ trốn để thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện đã ra quyết định truy tìm đến nhận, đưa người được
giáo dục trở về nơicư trú để tiếp tục chấp hành. (khoản 3 Điều 6 NĐ

10/2012).
Việc đi lại, vắng mặt của người được giáo dục: Theo quy định
tại Điều 10 Nghị định 10/2012 thì tuy chịu sự giám sát tại nơi cư trú,
nhưng người được giáo dục không bị tước đi quyền cơ bản của con
người, trong đó có quyền tự do đi lại. Song, người dưới 18 tuổi chỉ
được vắng mặt với lý do chính đáng, với tổng thời gian vắng mặt
không vượt quá một phần ba thời hạn áp dụng biện pháp. Ngoài ra,
người dưới 18 tuổi có nghĩa vụ báo cáo với người giám sát, giáo dục
để người này thông báo cho UBND cấp xã nơi người phạm tội cư trú;
đồng thời họ phải tiến hành thông báo lưu trú, đăng ký tạm trú với
nơi mới đến. UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với nơi người
được giáo dục lưu trú hoặc tạm trú để quản lý người dưới 18 tuổi.
Hoãn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng: Tính
nhân đạo của pháp luật và nhà nước Việt Nam không chỉ thể hiện ở
việc áp dụng các biện pháp tư pháp với người dưới 18 tuổi, mà ngay
trong việc thi hành các biện pháp này. Theo Điều 125 Luật THAHS
2010, người dưới 18 tuổi có thể được hoãn chấp hành biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng trong hai trường hợp sau:
12


- Đang ốm nặng, đang phải cấp cứu hoặc vì lý do sức khoẻ
khác mà không thể đi lại được và được cơ sở chữa bệnh hoặc bệnh
viện từ cấp huyện trở lên xác nhận;
- Có lý do chính đáng khác được Thủ trưởng cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp huyện xác nhận.
Trường hợp người dưới 18 tuổi đã được đưa vào trường giáo
dưỡng mà bỏ trốn: Trường giáo dưỡng là một môi trường có tính kỷ
luật chặt chẽ hơn môi trường cũ của người dưới 18 tuổi, song điều đó
không loại trừ việc người dưới 18 tuổi bỏ trốn. Hành vi đó, không chỉ

loại bỏ mục đích giáo dục của biện pháp mà còn gây nguy hiểm cho
xã hội. Khi đã tìm thấy người bỏ trốn, cơ quan Công an hoặc chính
quyền địa phương nơi phát hiện người bỏ trốn phải lập biên bản và
đưa ngay người dưới 18 tuổi trở lại trường giáo dưỡng.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự
năm 1999 về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội tại thành phố Đà Nẵng
2.2.1. Tình hình xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội tại
thành phố Đà Nẵng
Trong 5 năm từ 2012 đến 2016, đã có 870 người dưới 18 tuổi
phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Biểu đồ 2.1: Số người dưới 18 tuổi phạm tội từ 2012- 2016
(Báo cáo tổng kết 5 năm của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng)
13


Biểu đồ 2.2: Tình hình áp dụng một số chế tài pháp luật hình sự
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Đà Nẵng
(Báo cáo tổng kết 5 năm của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng)
- Áp dụng hình phạt tù từ 3 - 7 năm: 80 người chiếm 7.62%
- Áp dụng hình phạt tù dưới 3 năm: 530 người chiếm 50.5%
Vậy, tỷ lệ áp dụng hình phạt tù và không được hưởng án treo là
58.12%
- Được áp dụng tù cho hưởng án treo: 390 người chiếm
37.14%
- Được áp dụng cải tạo không giam giữ: 50 người chiếm 4.74%
Bảng 2.3: So sánh áp dụng hình phạt của thành phố Đà Nẵng và cả nước
Đà Nẵng


Toàn quốc

Hình phạt tù

58.12%

64.7%

Án treo

37.14%

16.24%

Cải tạo không giam giữ

4.74%

5.18%

0%

0.3%

Áp dụng hình phạt

Biện pháp tư pháp

(Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân Tp. Đà Nẵng)


14


So với tình hình áp dụng hình phạt trong cả nước đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội thì thành phố Đà Nẵng chủ yếu áp dụng hình
phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (bao gồm hình phạt tù
cho hưởng án treo và không cho hưởng án treo) chiếm 95,26%;
không có trường hợp nào áp dụng biện pháp tư pháp.
2.2.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Đà Nẵng
và nguyên nhân
Qua thống kê công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại
thành phố Đà Nẵng cho thấy, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với tư cách là biện pháp
tư pháp hầu như không được Tòa án áp dụng.
Thực tế này là do những hạn chế chung về mặt pháp luật với cả
hai biện pháp:
Thứ nhất, điều 70 BLHS 1999 quy định thời hạn tối đa áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn cũng như biện pháp
đưa vào trường giáo dưỡng là hai năm. Vậy nếu hết thời hạn này mà
người được giáo dục không có tiến bộ, thậm chí vẫn có những vi
phạm pháp luật thì sẽ giải quyết như thế nào? Nói cách khác, trong
trường hợp này, mục đích áp dụng các biện pháp tư pháp không đạt
được thì có cách xử lý nào khác đối với người dưới 18 tuổi hay
không?
Thứ hai, hiện nay trong pháp luật Việt Nam chỉ có hai biện
pháp tư pháp được áp dụng. Nếu so sánh với kinh nghiệm của các
quốc gia khác thì số lượng biện pháp tư pháp này là tương đối ít. Hơn
nữa, hiện tại, tư pháp đối với người dưới 18 tuổi chỉ bao gồm các

biện pháp tư pháp và hình phạt. Qua tham khảo pháp luật các quốc
gia trên thế giới, ngoài hệ thống này, các quốc gia còn có hệ thống tư
15


pháp phục hồi với các “biện pháp chuyển hướng” để không viện đến
các thủ tục tố tụng tư pháp chính thức, hay nói cách khác là đưa
người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi hệ thống tư pháp với những điều
kiện nhất định.
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn chỉ đạt kết quả tốt khi có một
cơ chế quản lý đối tượng bị giáo dục chặt chẽ, hiệu quả. Pháp luật
hiện hành, tuy đã có những quy định cụ thể hơn về biện pháp này so
với pháp luật thời kỳ trước. Song, vẫn còn những quy định thiếu chặt
chẽ. Cụ thể:
- Phạm vi và đối tượng áp dụng của biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn còn hạn chế.
- Tại Điều 8 Nghị định 10/2012, “Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã, người đứng đầu tổ chức xã hội, Hiệu trưởng nhà trường được
giao giám sát, giáo dục quyết định phân công người trực tiếp giám
sát, giáo dục, giúp đỡ người được giáo dục”. Câu hỏi đặt ra là cơ chế
nào được xác định trong việc phối hợp giữa gia đình, người giám sát,
cộng đồng và chính quyền sở tại khi thực hiện biện pháp này? Trách
nhiệm phối hợp của các cơ quan này đến đâu? Nếu một trong số các
cơ quan này không hợp tác thì phải chịu chế tài nào?
- Một hệ quả của việc chưa quy định rõ trách nhiệm phối hợp
giữa các cơ quan là chưa xác định cụ thể cơ quan nào là cơ quan đầu
mối chịu trách nhiệm chính trong việc áp dụng biện pháp này, mà
chủ yếu quy định về sự phối hợp chung chung, đồng thời, trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhà trường (quy
định tại chương IV NĐ 10/2012) còn lẫn lộn, thiếu rõ ràng.

- Người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp được các cơ quan
yêu cầu viết một bản cam kết sẽ thực hiện các hoạt động dưới sự
giám sát của các cơ quan có liên quan và phải báo cáo tình hình của
họ. Vậy, khi các cơ quan, tổ chức yêu cầu thực hiện đầy đủ cam kết
16


mà người được giáo dục không thực hiện thì giải quyết ra sao?
- Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể để đảm bảo tính
khách quan trong công tác trực tiếp giám sát, giáo dục người dưới 18
tuổi phạm tội.
Đa số người dưới 18 tuổi bị đưa vào trường giáo dưỡng theo
quy trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính chứ không phải theo
thủ tục áp dụng biện pháp tư pháp. Điều này phần nào chứng tỏ pháp
luật hình sự về biện pháp tư pháp này vẫn còn nhiều hạn chế:
- Căn cứ tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội dùng để
xem xét đưa người dưới 18 tuổi phạm tội vào trường giáo dưỡng còn
chưa cụ thể.
- Trường hợp khi xét xử người chưa thành niên hơn 17 tuổi
hoặc gần 18 tuổi mà Tòa án quyết định đưa vào trường giáo dưỡng,
khi chưa hết thời hạn trong trường giáo dưỡng, họ đã trở thành người
thành niên (đủ 18 tuổi hoặc hơn 18 tuổi) khiến cơ quan tư pháp lúng
túng không biết xử lý thế nào. Bởi vì chức năng của trường giáo
dưỡng là chỉ thực hiện việc giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Nếu
đưa họ ra khỏi trường giáo dưỡng thì bản án không được thi hành
nghiêm minh.
- Trong pháp luật hình sự chưa có văn bản quy định chi tiết
việc thực hiện biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Như vậy, Nghị định này chỉ áp dụng đối với những đối tượng
bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng với tư cách là biện

pháp xử lý hành chính. Đối với những người dưới 18 tuổi phạm tội bị
áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng thì không có
Nghị định riêng hướng dẫn thi hành. Chính vì vậy, các cơ quan cũng
khó áp dụng một quy trình chuẩn khi muốn áp dụng biện pháp tư
pháp này, cũng không định rõ được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan khi thực thi biện pháp
17


CHƯƠNG 3
TIẾP TỤC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
3.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về
các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:
Thứ nhất, khắc phục các hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp liên
quan đến Điều 69 nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội theo
hướng quy định việc miễn trách nhiệm hình sự cho người dưới 18
tuổi là bắt buộc nếu thỏa mãn yêu cầu của pháp luật.
Thứ hai, quy định cụ thể về các trường hợp, điều kiện để được
áp dụng các biện pháp tư pháp theo Điều 70 Bộ luật Hình sự 1999 để
khắc phục hạn chế về sự tùy nghi, thiếu rõ ràng trong quy định hiện
hành (tại khoản 4 Điều 69 BLHS).
Thứ ba, trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội, việc áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào
trường giáo dưỡng như quy định tại khoản 3 Điều 70 BLHS thì Thẩm
phán còn lúng túng và áp dụng chưa đúng quy định pháp luật do điều
luật không quy định rõ tiêu chí để đánh giá tính chất nghiêm trọng

của hành vi phạm tội. Mặt khác, BLHS quy định việc đưa vào trường
giáo dưỡng được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, do Tòa án quyết định trong thời hạn từ 1
đến 2 năm. Như vậy, trường hợp khi xét xử người chưa thành niên
gần 18 tuổi mà Tòa án quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, khi
chưa hết thời hạn trong trường giáo dưỡng, họ đã trở thành người
thành niên (đủ 18 tuổi hoặc hơn 18 tuổi) khiến cơ quan tư pháp lúng
túng không biết xử lý thế nào khi chức năng của trường giáo dưỡng
18


là chỉ thực hiện việc giáo dục đối với người dưới 18 tuổi. Nếu đưa họ
ra khỏi trường giáo dưỡng thì bản án không được thi hành nghiêm
minh.
Thứ tư, căn cứ theo độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12
của BLHS năm 1999) thì biện pháp này chỉ áp dụng được với người
chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Như vậy, đối với
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ áp dụng một biện pháp tư
pháp là đưa vào trường giáo dưỡng. Trong khi đó, đây là độ tuổi nhận
thức còn non nớt, hạn chế hơn so với độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18
tuổi. Việc chỉ có một lựa chọn duy nhất áp dụng đối với người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã bó hẹp về biện pháp và hiệu quả xử lý đối
với đối tượng này.
3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015 về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Mặc dù BLHS (sửa đổi 2015) chưa có hiệu lực thi hành, nhưng
với quan điểm khoa học, tác giả cho rằng: Chương XII của BLHS
(sửa đổi 2015) cần có những sửa đổi, bổ sung các quy định đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng

các chế tài không giam giữ nhằm tạo điều kiện cho người dưới 18
tuổi phạm tội có thêm nhiều cơ hội được giáo dục, cải tạo tại chính
gia đình, cộng đồng mà không phải bị cách ly khỏi xã hội. Nhiều
nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh rằng môi trường gia đình xã hội
chính là nơi tốt nhất để các em có thể nhận thức và sửa chữa được lỗi
của mình.
- Do đó, theo tác giả nên bổ sung hình thức “Tham gia lao
động giáo dục với hình thức phù hợp” vào Mục C. BIỆN PHÁP TƯ
PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG và đổi tên Mục
C, thành: CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
19


TUỔI PHẠM TỘI. BLHS (sửa đổi 2015), có quy định về nghĩa vụ
của người bị khiển trách tại điểm c, khoản 3, Điều 93, cụ thể là:
“Điều 93. Khiển trách
1. Khiển trách được áp dung đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trong những trường hợp sau đây nhằm giúp họ nhận thức rõ hành
vi phạm tội và hậu qủa gây ra đối với cộng đồng, xã hội và nghĩa vụ
của họ:
a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi lần đầu phạm tội ít
nghiêm trọng;
b) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không
đáng kể trong vụ án.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án quyết định áp
dụng biện pháp khiển trách. Việc khiển trách đối với người dưới 18
tuổi phạm tội phải có sự chứng kiến của cha mẹ hoặc người đại diện
hợp pháp của người dưới 18 tuổi.
3. Người bị khiển trách phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Tuân thủ pháp luật, nội quy, quy chế của nơi cư trú, học

tập, làm việc;
b) Trình diện trước cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu;
c) Tham gia các chương trình học tập, dạy nghề do địa
phương tổ chức, tham gia lao động với hình thức phù hợp.
4. Tùy từng trường hợp cụ thể cơ quan có thẩm quyền ấn định
thời gian thực hiện các nghĩa vụ quy định tại điểm b và điểm c khoản
3 Điều này từ 03 tháng đến 01 năm”.
Tác giả cơ bản nhất trí với quy định bổ sung biện pháp Khiển
trách áp dụng trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự; tuy
nhiên khoản 3 điểm c, đoạn cuối không nên gọi tên là “tham gia lao
động với hình thức phù hợp” vì khái niệm “tham gia lao động với
hình thức phù hợp” chưa đầy đủ,chưa đề cập và nhấn mạnh ý nghĩa
20


giáo dục; mặt khác dễ bị lợi dụng, tùy tiện về loại hình lao động.
Do đó đề nghị bổ sung là: “Tham gia lao động giáo dục với
hình thức phù hợp” và quy định rõ là một trong các biện pháp áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời nên nghiên cứu
quy chế: Giao cho ban chấp hành Đoàn thanh niên tổ chức cho người
dưới 18 tuổi thực hiện biện pháp “Tham gia lao động giáo dục với
hình thức phù hợp” tại các công trình phúc lợi xã hội như: chăm sóc
cây xanh, công viên,…”.
Thời hạn áp dụng biện pháp này kéo dài từ 03 tháng đến 01
năm như BLHS (sửa đổi 2015) quy định. Biện pháp “Tham gia lao
động giáo dục với hình thức phù hợp” được áp dụng trên cơ sở cân
nhắc độ tuổi, sức khỏe, khả năng của người dưới 18 tuổi phạm tội.
3.3. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
Bộ luật Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
tuổi phạm tội

3.3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật
Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Tòa án nhân dân tối cao cần tổ chức các Hội nghị chuyên đề
hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định của Bộ luật Hình sự về các
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong công tác
xét xử các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi, chú ý thực hiện
đúng trình tự, thủ tục tố tụng, những căn cứ cụ thể để quyết định hình
phạt, nguyên tắc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, bảo đảm
việc xét xử các vụ án có bị cáo là dưới 18 tuổi được nghiêm chỉnh,
đúng pháp luật.
3.3.2. Chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
21


Tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về
các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được coi
là khâu quan trọng nhằm đánh giá thực trạng thi hành BLHS nói
chung và thi hành các quy định về các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng, rút ra những hạn chế, bất cập
của Bộ luật Hình sự trong thực tiễn để từ đó nghiên cứu đề xuất sửa
đổi các quy định nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm trong tình hình mới.
Tổ chức, thực hiện thống kê việc áp dụng các biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có quan hệ hữu cơ với việc
đánh giá hiệu quả của việc áp dụng hình phạt cũng như đánh giá hiệu
quả giáo dục của từng loại hình phạt cụ thể nào đó đối với người dưới
18 tuổi phạm tội. Việc tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của Bộ

luật Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trên thực tế giúp cho các nhà chức trách, cơ quan có thẩm
quyền nhìn nhận lại những kết quả đạt được cũng như những hạn
chế, vướng mắc còn tồn động trong công tác xét xử. Qua đó, đề xuất
phương án khắc phục để nâng cao chất lượng công tác xét xử, hạn
chế những sai sót không đáng có trong quá trình thực thi công vụ.
3.3.3. Nâng cao chất lượng Thẩm phán trong áp dụng quy
định của Bộ luật Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Vì vậy, để nâng cao chất lượng Thẩm phán trong việc áp dụng
quy định của Bộ luật Hình sự về các biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội thì:
Thứ nhất, đội ngũ Thẩm phán phải là những người có phẩm
chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững vàng, có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, có kiến thức am hiểu về người dưới 18 tuổi phạm tội
thì quá trình xét xử mới mang lại hiệu quả cao;
22


Thứ hai, phải nâng cao ý thức chính trị tư tưởng, đạo đức tác
phong cho đội ngũ Thẩm phán; tuân thủ đúng quy định của pháp luật,
liêm khiết, trung thực, có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững
chắc;
Thứ ba, thường xuyên tham gia tập huấn, bồi dưỡng nâng cao
trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn cho đội ngũ Thẩm phán
Tòa án, trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng xét xử giữa đội ngũ làm công
tác Thẩm phán với nhau;
Thứ tư, khi giải quyết các vụ án người dưới 18 tuổi phạm tội,
các Thẩm phán phải đề cao nguyên tắc việc giải quyết để giúp đỡ,
giáo dục họ nhận thức và sửa chữa sai lầm khuyết điểm;

Thứ năm, đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên toà, thay đổi
nghi thức phòng xử án cho người dưới 18 tuổi phạm tội. Khi xét xử
phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực
sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật;
Thứ sáu, cùng với việc xây dựng hệ thống Toà chuyên trách
giải quyết các vụ án liên quan đến người 18 tuổi phạm tội thì cũng
phải xây dựng một thủ tục tố tụng riêng để áp dụng khi giải quyết các
vụ án này;
Thứ bảy, xây dựng đội ngũ Thẩm phán, cán bộ chuyên trách
với những trình tự, thủ tục riêng để xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của trẻ em,
người dưới 18 tuổi để tiến tới đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tư pháp
cho người dưới 18 tuổi đã được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế
mà Việt Nam là thành viên.

23


KẾT LUẬN
Hoàn thiện các chính sách pháp luật, trong đó có hoàn thiện
chính sách hình sự là nhiệm vụ được đặt ra hàng đầu trong chiến lược
cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định đường lối xử lý
người phạm tội đảm bảo tính nhân văn và bảo vệ quyền con người
của nước ta phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và xu thế hội nhập
quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng; việc nghiên cứu xác định đường lối
xử lý người phạm tội phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa,
tính hướng thiện, tính nhân đạo và bảo vệ quyền con người có ý
nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

Do vậy, theo tác giả luận văn này, muốn đấu tranh phòng
chống tội phạm dưới 18 tuổi hiệu quả, thì phải tìm ra những nguyên
nhân, điều kiện làm phát sinh loại tội phạm này, từ đó tìm ra những
giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tội phạm dưới 18 tuổi phát sinh. Vì
vậy, tác giả cho rằng trong thời gian sắp tới, các cơ quan, đoàn thể và
toàn xã hội cần nâng cao hơn nữa ý thức về việc xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội cũng như tăng cường việc áp dụng các biện pháp tư
pháp bên cạnh hình phạt với đối tượng này.
Các giải pháp mà luận văn đưa ra bao gồm cả việc sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật và cả các giải pháp tạo điều kiện
thực thi các quy định về biện pháp tư pháp áp dụng với người dưới
18 tuổi phạm tội trên thực tế. Để việc áp dụng các biện pháp này có
hiệu quả, những giải pháp trên cần được thực hiện một cách đồng bộ
và toàn diện, hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

24



×