Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

luận văn vận động thương mại xuất nhập khẩu và nhu cầu kinh tế mở hội nhập sâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.52 KB, 40 trang )






Luận văn: Vận động thương mại xuất
nhập khẩu và nhu cầu kinh tế mở hội
nhập sâu
Lời nói đầu
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã trở thành một hiện thực sống động, tạo ra một
bước ngoặt quan trọng đời sống kinh tế xã hội nước ta, được bạn bè quốc tế quan
tâm sâu sắc và đánh giá cao. Đường lối chính sách ấy được khởi nguồn từ Đại
hội Đảng toàn quốc Việt Nam lần thứ VI. Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam đã
phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra
định hướng lớn để thoát khỏi tình trạng đó, đồng thời cũng đề ra đường lối đổi
mới toàn diện cho nền kinh tế Nhà nước.Thương mại nước ta, từ đó cũng liên tục
vận động cho phù hơp với thời kỳ đổi mới, trong đó phải kể đến một bộ phận vô
cùng quan trọng đó là thương mại quốc tế mà cụ thể là lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Nhập khẩu từ lâu đã được thừa nhận là một mặt hoạt động cơ bản của kinh tế đối
ngoại là một phương tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế. Nhập khẩu cho
phép khai thác các tiềm năng thế mạnh của các nước trên thế giới, bổ sung các
sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đủ nhu cầu tiêu
dùng trong nước.
Như chúng ta đã• biết, Việt Nam cũng như một số nước nghèo chậm phát triển
khác đang tăng cường nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến. Ta cũng biết rằng
máy móc, thiết bị, vật tư giữ một vị trí không nhỏ trong công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thời đại ngày nay những phát minh sáng chế
trong việc thiết kế chế tạo máy móc, thiết bị của thế giới thay đổi từng ngày từng
giờ, nếu không nắm bắt được các thông tin đầy đủ, chính xác kịp thời thì việc
chúng ta nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ sẽ có thể dẫn đến tổn thất không
nhỏ cho đất nước. Vì vậy, việc nhập khẩu máy móc, vật tư thiết bị như thế nào để


phù hợp với điều kiện nền kinh tế của Việt Nam và đạt hiệu quả cao là vấn đề mà
các nhà doanh nghiệp nhập khẩu và các nghành các cấp có liên quan đang rất
quan tâm xem xét. Đặc biệt việc nhập khẩu máy móc thiết bị trong lĩnh vực giao
thông vận tải luôn có một lĩnh vực giao thông vận tải có một ý nghĩa quan trọng
trong việc củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng hiện có, đồng
thời tạo điều kiện cho quá trình phát triển các ngành khác và toàn bộ nền kinh tế.
Đó là một mục tiêu lớn của Nhà nước nói chung cũng như của ngành Giao thông
vận tải nói riêng.
Qua nhận thức về mặt lý luận cũng với thời gian thực tập nghiên cứu ở Công ty
Xuất Nhập Khẩu và Hợp tác Đầu tư Giao thông Vận tải Hà Nội
(TRACIMEXCO Hà Nội), được sự hướng dẫn giúp đỡ tận tình của thầy giáo và
các cán bộ ở cơ quan thực tập tôi xin chọn đề tài: "Biện pháp hoàn thiện hoạt
động nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị giao thông vận tải ở Công ty xuất nhập
khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội - TRACIMEXCO Hà Nội".
Đề tài được kết cấu gồm ba phần:
Chương 1: Vai trò, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
hàng hoá trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu vật tư , máy móc, thiết bị
giao thông vận tải ở Công ty TRACIMEXCO Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và biện pháphoàn thiện hoạt động nhập khẩu vật tư,
máy móc, thiết bị giao thông vận tải ở Công ty TRACIMEXCO Hà Nội.
Kết luận.
Với thời gian thực tập, nghiên cứu ngẵn, trình độ có hạn, phạm vi nghiên cứu
rộng, đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót nhất điụnh, kính mong được sự
giúp đỡ góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên của Công ty
TRACIMEXCO Hà Nội, cùng tất cả các bạn quan tâm đến đề tài này.
Chương 1: Vai trò, nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập
khẩu hàng hoá trong nền kinh tế
thị trường
I. Hoạt động nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.

1. Tính tất yếu khách quan của thương mại Quốc tế.
Mỗi một quốc gia không thể sản xuất ra tất cả những thứ mà quốc gia đó cần.
Nhưng nhu cầu tiêu dùng lại rất đa dạng và phong phú, nếu một quốc gia không
mở cửa, giao lưu buôn bán với các nước khác trên thế giới thì nó không thể nào
đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và cũng không thể phát triển được
nền kinh tế cũng như mọi mặt chính trị, văn hoá, xã hội…Nhận biết được điều
này, ông cha ta từ ngàn xưa đã biết mở cửa, buôn bán hàng hoá với các nước ở
các khu vực khác nhau trên thế giới. Truyền thống tốt đẹp đó ngày nay đã được
Đảng và Nhà nước ta kế thừa và phát huy, phát triển cho phù hợp với tình hình
kinh tế mới của đất nước.
Thương mại quốc tế là mối quan hệ trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa một quốc gia
với các quốc gia khác, là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế của một nước
với các nước khác trên thế giới. Sự trao đổi đó là một hình thức của mỗi quan hệ
xã hội phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của những hoạt động sản xuất
hàng hoá riêng biệt.
Nói đến thương mại quốc tế có nghĩa là nói đến lĩnh vực phân phối lưu thông
hàng hoá và dịch vụ với nước ngoài. Lĩnh vực này thuộc hai khâu của quá trình
tái sản xuất mở rộng, chắp nối sản xuất và tiêu dùng của nước ta với sản xuất và
tiêu dùng nước ngoài, nếu làm tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống.
Nừu xem xét quá trình tái sản xuất theo nghĩa liên tục không ngừng và theo ý
nghĩa kinh tế mở cửa thì hai khâu phân phối và lưu thông hàng hoá, dịch vụ là
những khâu không thể thiếu được cuả quá trình tái sản xuất.
Thương mại xuất hiện được sự đa dạng về điều kiện tự nhiên của sản xuất giữa
các nước, các khu vực. Vì điều kiện sản xuất rất khác nhau giữa các nước cho
nên mỗi nước dựa vào điều kiện thuận lợi của nước mình chuyên môn hoá sản
xuất những mặt hàng cụ thể phù hợp với điều kiện tài nguyên thiên nhiên và nhân
lực của mình, xuất khẩu sản phẩm hàng hoá đó và nhập khẩu từ những nước khác
các hàng hoá mà họ chuyên sản xuất (chuyên môn hoá).
Điều kiện để có thương mại quốc tế là trao đổi và chuyên môn hoá sản xuất trên
cơ sở lợi thế so sánh. Trong thời gian hiện nay thương mại Quốc tế lại càng trở

nên quan trọng bởi vì nó luôn tác động đến phân công lao động Quốc tế và
chuyên môn hoá sâu để có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao trong nhiều ngành
công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất
giảm và hiệu quả kinh tế theo quy mô sẽ được thực hiện. Mặt khác sự khác nhau
về sở thích và nhu cầu của người dân ở các quốc gia khác nhau cũng là một
nguyên nhân để có buôn bán quốc tế, ngay cả trong trường hợp hiệu quả tuyệt
đối ở hai nơi sản xuất giống hệt nhau cũng có thể diễn ra sự trao đổi buôn bán do
sở thích khác nhau.
Thương mại Quốc tế làm tăng khả năng thương mại của mỗi quốc gia. Mỗi nước
chỉ có thể sản xuất ra một vài thứ dùng cái đó để đổi lấy những cai khác. Mỗi
nước có các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên như đất đai, khoáng sản, rừng
cây, sông biển… khác nhau, có nguồn lực vê lao động khác nhau, có nguồn vốn
khác nhau như: Các nước có lực lượng sản xuất phát triển, có kỹ thuật công nghệ
tiên tiến sản xuất ra nhiều mặt hàng khác nhau và có chất lượng tốt hơn. Sự khác
biệt về lợi thế và nguồn lực đã làm cho chi phí để sản xuất ra mỗi sản phẩm có sự
khác nhau giữa nước này với nước khác. Do đó trao đổi hàng hoá trong thương
mại Quốc tế làm cho mỗi nước có nhiều loại hàng hoá hơn, có thể sống khá giả
hơn, thịnh vượng hơn.
Thương mại Quốc tế góp phần mở rộng thị trường của mỗi quốc gia. Mỗi nước
có thể sản xuất nhiều sản phẩm hơn, có thể sử dụng công nghệ tiên tiến có năng
suất lao động cao, có thể phát huy tính kinh tế về quy mô để giảm giá thành của
mỗi đơn vị sản phẩm, để hạ giá bán trên thị trường trong nước và quốc tế, tức là
thúc đẩy khả năng phát triển sản xuất trong nước.
Thông qua Thương mại Quốc tế một nươcơ sở có thể mua hàng hoá từ nước khác
với mức giá thấp hơn so với chi phí sản xuất loại hàng hoá đó ở trong nước với
chất lượng sản phẩm tốt hơn. Nhưng sự cạnh tranh của sản phẩm, chất lượng cao
và giá rẻ nhiều khi là một thách thứcđối với sản xuất trong nước và có thể gây ra
những khó khaưn cho một tầng lớp dân cư đặc biệt là ngành hàng nhập ngoại có
giá rẻ và chất lượng cao hơn. ngoài ra, thông qua quan hệ Thương mại Quốc tế
cũng du nhập vào trong nước những nền văn hoá phong tục tập quán, truyền

thống của các quốc gia khác nhau. Chính vì vậy chính phủ các nước đều có chính
sách đối với quan hệ kinh tế Quốc tế nói chung và Thương mại Quốc tế nói riêng.
Thương mại Quốc tế trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu dẫn đến
cạnh tranh, theo dõi kiểm soát lẫn nhau rất chặt chẽ giữa các chủ thể kinh doanh
Thương mại Quốc tế. Chính sự cạnh tranh này làm cho chất lượng nền kinh tế
trong nước được nâng cao, việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới được thường
xuyên và có ý thức, đồng thời đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải được đào tạo nghiêm
túc. Thương mại Quốc tế đưa đến việc xoá bỏ nhanh chóng các chủ thể kinh
doanh hàng hoá lạc hậu. Nó góp phần làm thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
của Nhà nước và mỗi địa phương thông qua đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham
gia kinh doanh thương mại Quốc tế trong quá trình thực hiện. Ngoài ra Thương
mại Quốc tế dẫn đến sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa
học một cách thiết thực và có hiệu quả từ phía các nhà sản xuất, nó khai thông
nguồn chất xám trong và ngoài nước.
Tóm lại, Thương mại Quốc tế là tất yếu khách quan tạo ra hiệu quả kinh tế cao
nhất trong nền sản xuất của mỗi quốc gia cũng như trên toàn thế giới.
2. Vai trò của nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu máy móc, thiết bị nói
riêng trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt động kinh doanh buôn
bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là
cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả
bên trong và bên ngoài nhằm mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước, ổn định và từng bước nâng cao mức sống
của nhân dân. Do đó xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng là hoạt
động kinh tế đối ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến rất cao, hoặc có thể
gây thiệt hại vì nó phải đương đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà
các chủ thể tham gia nhập khẩu không dễ dàng khống chế được.
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của ngoại thương. Nhập khẩu tác động
một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Nhập khẩu
để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất

không đáp ứng được nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là để nhập về
hàng hoá mà nếu sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu.
Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ tác
động tích cực đến sự phát triển nền kinh tế trong nước, trong đó cân đối trực tiếp
ba yếu tố sản xuất: Công cụ lao động, đối tượng lao động và lao động đóng vai
trò quan trọng nhất.
* Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay của nước ta vai trò quan trọng của nhập
khẩu được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá đất
nước.
- Nhập khẩu bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế đảm bảo
phát triển nền kinh tế cân đối và ổn định.
- Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân. Nhập khẩu
vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng, vừa đảm bảo đầu
vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
- Nhập khẩu có vai trò tích cực thúc đẩy sản xuất, thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo
đầu vào cho hàng xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng
Việt Nam ra nước ngoài.
Nhập khẩu tăng khả năng tiêu dùng, đa dạng hoá mặt hàng, chủng loại, qui cách,
cho phép thoả mẫn tốt hơn nhu cầu trong nước. Nhập khẩu tăng cường sự chuyển
giao công nghệ, tạo ra sự phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm được
chi phí và thời gian. Đồng thời nhập khẩu cũng tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng
nội và hàng ngoại tức là tạo ra động lực buộc các nhà sản xuất trong nước phải
không ngừng vươn lên, thúc đẩy sản xuất trong nước.
* Ngày nay, nhập khẩu có những chức năng sau:
- Tạo vốn và kỹ thuật từ bên ngoài cho quá trình tái sản xuất trong nước.
- Thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình sản xuất
- Tăng hiệu quả của nền kinh tế thông qua lợi thế so sánh và tiếp thu áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới.

* Tính hiệu quả kinh tế của hoạt động nhập khẩu được thể hiện ở chỗ:
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nâng cao thu nhập bình quân.
- Sử dụng tốt mọi khả năng, tiềm năng sản xuất.
- ổn định giá cả chống lạm phát.
Nhà nước ta khuyến khích nhập khẩu các mặt hàng trong nước không sản xuất
được. Trong tình hình đó, các doanh nghiệp tronn nước muốn tồn tại và phát
triển được phải quan tâm hơn tới chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Hàng hoá
nhập khẩu không những mở rộng khả năng sản xuất tiêu dùng trong nước mà còn
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao tầm hiểu biết
của nhân dân về sự phát triển không ngừng của thế giới.
Việt Nam là một nước nghèo và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị
nhằm mục đích công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Theo số liệu của Bộ Thương
mại, xuất khẩu của Việt Nam hiện nay có thể bù đắp được 70 - 80% chỉ tiêu nhập
khẩu. Trong tổng kim ngạch nhl hiện nay thì có đến 80 - 90% là nhập khẩu tư
kiệu sản xuất, nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng chỉ chiếm một tỉ lệ không đáng kể.
Tuy nhiên, để phát huy được hết vai trò của hoạt động nhập khẩu thì điều đó còn
phụ thuộc rất nhiều vào đường lối, quan điểm của Đảng. ở nước ta trong cơ chế
quan liêu, bao cấp tự cung, tự cấp, quan hệ chỉ bó hẹp trong phạm vi một vài
nước xã hội chủ nghĩa hoạt động nhập khẩu chỉ dựa trên các khoản viện trợ và
mua bán theo nghị định thư là chính, sự quản lý quá cứng nhắccủa Nhà nước đã
làm mất đi tính linh hoạt uyển chuyển và tính hiệu quả của hoạt động nhập khẩu,
không phát huy được vai trò của hoạt động nhập khẩu trong nền kinh tế. Bên
cạnh đó, chủ thể của hoạt động nhập khẩu là những doanh nghiệp Nhà nước, độc
quyền, thụ động, cơ cấu cồng kềnh, trình độ cán bộ hạn chế, do vậy việc nhập
khẩu đã mang lại hiệu quả không cao, đặc biệt là nhập khẩu các máy móc thiết
bị. Tất nhiên những cái cũ không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại sẽ bị
diệt vong và thay vào đó những cái mới tiến bộ hơn, đó là nền kinh tế thị trường
với cơ chế mở. Đấy chính là một bước ngoặt lớn cho nền kinh tế nói chung và
hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy chỉ mới một thời gian ngắn nhưng hoạt
động nhập khẩu đã phát huy được vai trò quan trọng của nó, nhập khẩu đã tạo ra

thị trường trong nước sôi động, tràn ngập hàng hoá với đủ các qui cách, chất
lượng, chủng loại, mẫu mã đa dạng và phong phú, đáp ứng được phần nào nhu
cầu tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó nhập khẩu cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh
mẽ, sự phá sản và sự cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp đủ các thành phần
kinh tế, giúp nền kinh tế nước ta lúc đầu còn bỡ ngỡ đã dần tạo thế chủ động
bước vào thị trường thế giới. Thực tế thời gian qua đã chứng minh sự ưu việt của
nền kinh tế thị trường cũng như khẳng định lại vai trò của nhập khẩu trong cơ
chế mới.
Xuất nhập khẩu hàng hoá là một vấn đề hết sức quan trọng trong Thương mại
Quốc tế, đó là sự phát triển tất yếu của sản xuất và lưu thông hàng hoá để tạo ra
hiệu quả kinh tế cao nhất, cùng với xuất khẩu, nhập khẩu có một vai trò không
nhỏ trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Thương mại Quốc tế chỉ ra
và xác định rõ cho một nước biết đâu là lợi thế của mình, chỉ ra hướng đi đúng
đắn nên đầu tư vào đâu và lĩnh vực nào là có lợi nhất. Nhập khẩu máy móc thiết
bị hiện đại sẽ là nhân tố giúp chúng ta giải quyết những vướng mắc mà các nước
nghèo thường gặp phải. Phương châm đó là vay mượn công nghệ nước ngoài
trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Từng bước một chúng ta sẽ học tập và tìm
cách cải tiến những máy móc thiết bị kỹ thuật đ• có vào sản xuất với hiêụ quả cao
hơn.
Thực hiện nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ sẽ tạo cơ sở để tận dụng nguồn
lao động dư thừa trong nước, nâng cao trình độ kỹ năng của người lao động. Mặt
khác hàng hoá sản xuất ra từ máy móc thiết bị nhập khẩu có chất lượng tốt hơn,
mẫu mã đẹp hơn. Đó là một kích thích lớn đối với sự cạnh tranh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp trong nước, đòi hỏi họ phải phát triển cả về chiều rộng lẫn
chiều sâu, phân công lao động có hiệu quả, tạo ra động lực cho sự phát triển của
nền kinh tế trong nước. Như vậy nhập khẩu là cầu nối tiêu dùng và sản xuất của
ta với thế giới. Bên cạnh đó việc nhập khẩumáy móc thiết bị công nghệ cần thiết
cho nền kinh tế có thể đem đến cho chúng ta cơ hội phát triển những ngành tiềm
năng, là động lực ban đầu để nâng cao xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao,
mẫu mã phong phú, dần dần hội nhập vào thị trường quốc tế.

3. Các chính sách nhập khẩu ở nước ta hiện nay.
Nhận thức được vai trò quan trọng của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm đến đổi mới các chính sách nhập khẩu sao cho phù hợp với tình hình hiện tại.
với mục tiêu đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động nhập
khẩu nói riêng và các hoạt động ngoại thương, kinh tế đối ngoại nói chung là:
- Quán triệt bài học kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh thời đại trong
hoạt động.
- Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động dưới sự quản lý
thống nhất của Nhà nước.
- Coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội trong hoạt động nhập khẩu tức là không chỉ
chạy theo mục đích lợi nhuận mà bất chấp, bỏ qua những lợi ích xã hội mà ngược
lại phải kết hợp một cách hài hoà các lợi ích. Ví dụ như thu lợi nhuận nhưng
cũng phải tạo ra công ăn việc làm, nâng cao uy tín và địa vị của đất nước trên
thương trường quốc tế.
Những quan điểm này được cụ thể hoá trong các nguyên tắc cơ bản của chính
sách nhập khẩu sau:
a. Sử dụng vốn nhập khẩu tiết kiệm, đem lại hiệu quả kinh tế cao:
Thực hiện nguyên tắc này có nghĩa là đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như mỗi
doanh nghiệp phải:
- Xác định mặt hàng nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
khoa học kỹ thuật của đất nước.
- Sử dụng vốn tiết kiệm, dành ngoại tệ nhập vật tư, thiết bị sản xuất và đời sống,
khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng xuất khẩu.
- Nghiên cứu thị trường để nhập được hàng hoá thích hợp với giá cả có lợi, nhanh
chóng phát huy tác dụng, đẩy mạnh sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân.
b. Nhập khẩu thiết bị kỹ thuật tiên tiến hiện đại:
c. Bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, tăng nhanh xuất khẩu.
Đây chính là những nguyên tắc cơ bản của chính sách nhập khẩu mà Đảng và
Nhà nước ta đề ra. Đây cũng được hiểu như là cách xử sự hay đúng hơn là những
quy tắc thực hiện trong hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với lợi ích của xã

hội cũng như của các doanh nghiệp.
* Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong những năm tới:
Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước
ta đến năm 2000 và những nguyên tác cơ bản của chính sách nhập khẩu. Chính
sách nhập khẩu của nước ta trong những năm tới là:
- Nhập khẩu chủ yếu là vật tư phục vụ cho sản xuất (xăng dầu, phân bón, sắt
thép, bông, dụng cụ phụ tùng), hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản
xuất được hoặc sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu. Hạn chế nhập khẩu hàng
tiêu dùng xa xỉ.
- Nhập khẩu thiết bị toàn bộ, dây chuyền sản xuất máy móc tiên tiến, hiện đại,
đổi mới công nghệ. Ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật, công nghệ để chế biến hàng xuất
khẩu.
4. Tổng quát về tình hình nhập khẩu của nước ta trong những năm qua.
Mở rộng thương mại quốc tế và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác là vận
dụng một trong những bài học kinh nghiệm quí báu rút ra từ thực tiễn nước ta
trong những năm qua. Tại đại hội VI Ban chấp hành Trung ươngĐảng đã nhấn
mạnh "Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng
như sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghiệp hoá XHCN của nước ta tiến
hành nhanh hay chậm, đều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng
và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại".
Nền sản xuất xã hội nước ta hướng ra ngoài và được các nước bầu bạn quốc tế
hướng vào nước ta vừa làm kinh tế, vừa hỗ trợ giúp đỡ thì ta sẽ có điều kiện cân
đối được xuất nhập khẩu, tiến lên có "xuất siêu" và như vậy là có được tích luỹ
cho sản xuất mở rộng. Kinh tế quốc dân vững mạnh thì uy tín chính trị cao và có
điều kiện góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loaị. Trong điều kiện của thế
giới hiện đại khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới trở nên sâu rộng
hơn bao giờ hết và khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã phát triển đến một
trình độ cao, trở thành một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển của nền
kinh tế, cho phép có thể phân chia các giai đoạn của quá trình sản xuất thành
những khâu khác nhau và phân bố ở những vị trí cách nhau hợp lý thì không một

nước nàocó thể đóng cửa nền kinh tế, tự mình thực hiện một chính sách biệt lập
tách khỏi mối quan hệ cũng co lợi với thế giới bên ngoài. Nhận thức được điều
đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những hướng đi mới trong đường lối chính sách
của mình. Trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, Đảng đ•
nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại đối với nhiệm vụ ổn định và
phát triển kinh tế của đất nước cũng như phát triển khoa học kỹ thuật và công
nghiệp.
Cho đến nay, tuy chưa lâu và cũng chưa phải là nhiều song chúng ta cũng thấy
được những kết quả đáng mừng từ chính sách mở rộng thương mại, giao lưu kinh
tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp độ sản xuất mới
bằng những công nghệ, khoa học tiên tiến, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm
ngày một tăng.
Chú thích: Qua bảng trên ta thấy kim ngạch XNK nói chung và nhập khẩu nói
riêng tăng nhanh bình quân trên 20% môic năm thời kỳ từ 1994 tới nay. Cũng
trong thời kỳ này tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng tăng chiếm trung bình 16%,
nhập máy móc thiết bị giảm, nhưng tỉ trọng nguyên vật liệu vẫn còn quá lớn,
trung bình là 60% đặc biệt là xăng dầu, và vật liệu xây dựng thị trường nhập
khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là các nước châu á - Thái Bình Dương. Cho đến
nay tuy vẫn là nước "nhập siêu" nhưng chênh lệch xuất nhập khẩu ngày càng
được thu hẹp.
5. Các hình thức nhập khẩu ở nước ta hiện nay:
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp
xuất khẩu trực tiếp nhưng trong thực tế, do tác động của điều kiện kinh doanh và
sự năng động sáng tạo của người kinh doanh mà đã tạo ra nhiều hình thức nhập
khẩu đa dạng khác nhau. Có thể kể ra ở đây một vài hình thức nhập khẩu thông
dụng đang được áp dụng tại các doanh nghiệp nước ta hiện nay.
a. Nhập khẩu tư doanh:
Hoạt động nhập khẩu tư doanh là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường trong
và ngoài nước, tính toán chi phí đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lãi, đúng

phương hướng, chính sách, luật pháp quốc gia cũng như quốc tế.
b. Nhập khẩu đổi hàng:
- Nhập khẩu đổi hàng: Nhập khẩu đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai loại
nghiệp vụ chủi yếu của buôn bán đối lưu. nó là một hình thức nhập khẩu gắn
liền với xuất khẩu, thanh toán không dùng tiền mà là hàng hoá, ở đây, mục đích
của nhập hàng không phải chỉ để thu lãi từ hoạt động nhập mà còn nhằm để xuất
được hàng, thu lãi từ hoạt động xuất.
c. Nhập uỷ thác:
- Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu hình thành giữa một doanh nghiệp
trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một số loại hàng hoá
nhưng không có quyền tham gia quan hệ xuất nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho
doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập hàng
theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với nước
ngoài để làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của been uỷ thác và được
hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác.
d. Nhập khẩu liên doanh:
- Nhập khẩu liên doanh: là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết kinh
tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhấtmột doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp, nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề
ra các chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt
động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi hay cùng
chịu lỗ.
e. Nhập khẩu tái xuất:
- Nhập khẩu tái xuất: là hoạt động nhập hàng nhưng không phải để tiêu thụ trong
nước mà để xuất khẩu sang một nước thứ ba nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu và
thu lợi nhuận. Những hàng nhập khẩu này không được qua chế biến ở nước tái
xuất. Vậy kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất là mua hàng của một
nước (nước xuất khẩu ) để bán cho một nước khác (nước nhập khẩu ) nhằm mục
đích kiếm lời, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam trong một thời
gian nhất định rồi tái xuất mà không qua gia công chế biến.

Trên đây là các hình thức nhập khẩu phổ biến ở nước ta, căn cứ vào tình hình của
mỗi doanh nghiệp mà các doanh nghiệp lựa chọn hình thức phù hợp.
II. nội dung của hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu
Nhập khẩu là việc mua hàng hoá của nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh
doanh và đời sống. Song việc mua hàng ở đây có những nét riêng phức tạp hơn
mua bán trong nước: như giao dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị
trường rộng lớn khó kiểm soát, mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng
tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá phải vận chuyển qua biên giới, cửa
khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân thủ các tập quán, thông lệ quốc tế cũng
như của địa phương. Hoạt động nhập khẩu được tổ chức thực hiện với nhiều
nghiệp vụ nhiều khâu từ điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn
hàng hoá nhập khẩu, đối tác, tiến hành giao dịch đàm phán, ký két hợp đồng và
tổ chức thực hiện hợp đồng. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu thực
hiện đầy đủ, kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được
những lợi thế đảm bảo cho hoạt động kinh doanh nhập khẩu đạt hiệu quả cao
nhất. Như vậy cho dù nhập khẩu hình thức nào đi nữa thì các bước tiến hành
nhập khẩu ở các doanh nghiệp xuất khẩu đều bao gồm các trình tự sau:
1. Nghiên cứu thị trường nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng giao dịch.
Nghiên cứu thị trường bao gồm những bước sau:
a. Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu:
Mục đích của nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu để tiến hành nhập đúng chủng loại
mà thị trường trong nước cần, kinh doanh có hiệu quả, đạt được mục tiêu lợi
nhuận của doanh nghiệp. Việc nhận biết các mặt hàng nhập khẩu trước hết căn
cứ vào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, tính
thời vụ, thị hiếu cũng như tập quán tiêu dùng của từng vùng, từng lĩnh vực sản
xuất. Từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá cần nhập khẩu như:
công cụ, đặc tính quy cách, phẩm chất mẫu mã, giá cả, điều kiện mua bán, khả
năng sản xuất, các dịch vụ kèm theo v.v…
Để lựa chọn được mặt hàng kinh doanh, một nhân tố nữa phải được tính đến, đó

là tỷ suất ngoại tệ của các mặt hàng. trong nhập khẩu, tỷ suất ngoại tệ là tổng số
tiền bản tệ có thể thu được khi chỉ ra một đơn vị ngoại tệ để nhập khẩu. Nếu tỷ
suất ngoại tệ mặt hàng đó (VND/USD) lớn hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì
việc chọn mặt hàng nhập khẩu là hiệu quả. Ngoài ra, việc lựa chọn hàng hoá
nhập khẩu còn phải dựa vào kinh ngiệm của người nghiên cứu thị trường để dự
đoán xu hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như ngoài nước,
khả năng thương lượng để đạt tới điều kiện mua bán ưu thế hơn.
b. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng:
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi
thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nghiên
cứu dung lượng thị trường phải xác định nhu cầu thật của khách hàng và khả
năng cung cấp của nhà sản xuất.
Nghiên cứu thị trường nhằm hiểu rõ hơn về quy luật vận động của thị trường,
được thể hiện qua sự biến động của nhu cầu và khả năng sản xuất hàng hoá. Từ
đó, người nhập khẩu có thể giải quyết hàng loạt vấn đề có liên quan đến thị
trường. Đối với người nhập khẩu tìm hiểu dung lượng thị trường là rất quan
trọng.
Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo tình hình do tác động
tổng hợp của nhiều nhân tố trong thời gian nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng đến
dung lượng thị trường có thể chia làm 3 nhóm, căn cứ vào thời gian ảnh hưởng
của chúng với thị trường.
* Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chu kỳ:
Đó là sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới đặc biệt là các tư
bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng
hoá. Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tói tất cả các thị trường, đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất. Sự ảnh
hưởng này có thể phạm vi thế giới hoặc khu vực. Khi nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa rơi vào khủng hoảng thì dung lượng thị trường bị co hẹp còn ngược lại thì
dung lượng thị trường mở rộng.
Như đã nói ở trên một nhân tố nữa làm dung lượng thị trường thay đổi có tính

chất vhu kỳ là tính thời vụ của sản xuất. Nhân tố này ảnh hưởng tới dung lượng
thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất và lưu thông hàng hoá ở phạm vi, mức
độ khác nhau.
* Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường: Các nhân tố thuộc
nhóm này tương đối nhiều dưới đây là một số nhân tố cơ bản:
- Tiến bộ khoa học kỹ thuật: Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất và
nhu cầu về hàng hoá cũng được mở rộng, có nghĩa là dung lượng thị trường cũng
thay đổi. Đặc biệt đối với máy móc thiết bị, nhu cầu nhập khẩu ở các nước kém
phát triển không ngừng tăng lên, làm ảnh hưởng tới dung lượng thị trường.
- Các chính sách của Nhà nước và tập đoàn lũng đoạn (Tập đoàn sản xuất lớn) .
- Thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, khả năng sản xuất hàng thay thế.
* Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường: bao gồm các hiện
tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung và cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên
tai, động đất, bão lũ, hạn hán… Các yếu tố về chính trị xã hội như đình công
v.v…
Trên đây là những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của dung lượng thị
trường. Khi nghiên cứu phải thấy rõ nhân tố nào có ý nghĩa quyết định đến xu
hướng vận động của thị trường trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Điều đó có
ý nghĩa quan trọng trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá, giúp cho nhà kinh
doanh xuất nhậpddeef ra các quyết định kịp thời, nhanh chóng đạt hiệu quả cao
nhất.
c. Lựa chọn đối tượng giao dịch
trong Thương mại Quốc tế, bạn hàng hay khách hàng là những người hoặc những
tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các quan hệ hợp đồng mua
bán hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay khoa học kỹ thuật liên
quan đến việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các hoạt động hợp tác kinh tế hay
khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá. Lựa chọn đối tượng
giao dịch bao gồm vẫn đề lựa chọn nước để giao dịch và lựa chọn thương giao
dịch.
- Khi chọn nước để nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước chúng

ta cần phải nghiên cứu tình hình sản xuất của nước đó, khả năng và chất lượng
hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thương mại của nước đó.
- Chọn thương nhân để giao, trong điều kiện cho phép, hiệu quả nhất là nên chọn
những người xuất nhập khẩu trực tiếp. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn
thương nhân bao gồm: quan điểm kinh doanh của thương nhân đó, lĩnh vực kinh
doanh của họ, khả năng vốn và cơ sở vật chất, uy tín và mối quan hệ trong kinh
doanh của họ.
d. Nghiên cứu giá cả hàng hoá nhập khẩu:
Giá cả biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, đồng thời biểu hiện một cách
tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế trong nền kinh tế quốc
dân. Giá cả luôn luôn gắn liền với thị trường và là một yếu tố cấu thành thị
trường.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả lại càng phức tạp càng phức tạp do việc mua bán
diễn ra giữa các khu vực khác nhau, trong một thời gian dài và các chính sách
thuế khác nhau. Nghiên cứu giá cả thị trường là một bộ phận của nghiên cứu thị
trường và bao gồm công việc như: nghiên cứu mức giá từng mặt hàng tại từng
điểm trên thị trường, xu hướng biến động và các nhân tố ảnh hưởng tới nó, các
loại giá.
Giá quốc tế có tính chất đại diện đối với loại hàng hoá nhất định trên thị trường
thế giới và là giá của những giao dịch thương mại thông thường, không kèm theo
một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Xu hướng biến động giá cả các loại hàng hoá trên thị trường thế giới rất phức tạp
nhưng nói chung có tính tạm thời. Giá cả trên thị trường thế giới luôn biến động
do các nguyên nhân sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có quy luật của nền kinh tế, là nhân tố cơ bản
ảnh hưởng đến sự biến động giá cả của tất cả các loại hàng hoá.
+ Nhân tố lũng đoạn: Làm xuất hiện nhiều mức giá của cùng một loại hàng trên
các thị trường khác nhau thậm chí trên cùng một thị trường.
+ Nhân tố cạnh tranh: Làm cho giá cả biến động theo xu hướng khác nhau tuỳ
thuộc đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán.

+ Nhân tố cung cầu: ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng hoá.
+ Nhân tố thời vụ: Giá cả biến động theo từng mùa vụ.
Ngoài ra còn các nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của giá cả hàng hoá như
lạm phát, các chính sách của Nhà nước, tình hình chính trị xã hội.
Qua trên khi định giá nhập khẩu cho một loại hàng hoá, chúng ta cần phải tham
khảo giá xuất khẩu mặt hàng đó đi các thị trường khác, cước phí vận tải… và với
mức giá đó cộng với các chi phí có liên quan liệu có phù hợp với thị trường trong
nước hay không.

Tóm lại qua nghiên cứu những nhân tố trên đây cho phép chúng ta biết rõ về thị
trường và quy luật vận động của nó. Điều cần lưu ý trong quá trình nghiên cứu
thị trường và phân tích thông tin thị trường chúng ta nên lựa chọn cho mình thị
trường trọng điểm và lựa chọn kinh doanh mặt hàng có hiệu quả nhất. Đồng thời
chúng ta sắp xếp thứ tự ưu tiên cho từng thị trường đối với từng mặt hàng cụ thể
để sau này chúng ta có lựa chọn đối tác giao dịch phù hợp với mình và lựa chọn
mặt hàng kinh doanh đảm bảo thực hiện được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
2. Đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu hàng hoá
a. Đặt hàng và hỏi hàng trong thương mại quốc tế:
- Đặt hàng là lời đề nghị của nhà nhập khẩu gửi cho nhà xuất khẩu biểu thị muốn
mua hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định theo những điều kiện nhất định về giá cả,
thời gian giao hàng, phương thức thanh toán.
- Chào hàng là lời đề nghị của nhà xuất khẩu gửi cho nhà nhập khẩu thể hiện ý
định muốn bán theo những điều kiện nhất định về giá cả, thời gian giao hàng và
phương thức thanh toán. Đây là các lời đề nghị ký kết hợp đồng, hai bên chưa có
gì ràng buộc với nhau.
b. Đàm phán và ký kết hợp đồng
Sau khi nhận được thủ tục chào hàng hay đặt hàng và có sự trả lời từ phía bên
kia, hai bên tổ chức đàm phán, thương lượng để đi đến một thoả thuận chung về
điều mua bán và tiến hành ký kết hợp đồng.
b1. Đàm phán: là việc bàn bạc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các

nhà kinh doanh để đi đến thống nhất ký hợp đồng. Trong Thương mại Quốc tế
thường có 3 hình thức đàm phán sau:
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại.
- Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp.
Mỗi hình thức đàm phán đều có ưu nhược điểm nhất định, tuỳ từng trường hợp
cụ thể mà lựa chọn hình thức đàm phán cho phù hợp. Chẳng hạn trong trường
hợp nhập khẩu máy móc thiết bị đòi hỏi phải có kinh nghiệm về kỹ thuật và nên
áp dụng hình thức đàm phán trực tiếp là tốt nhất.
b2. Các bước đàm phán trong nhập khẩu bao gồm:
- Hỏi giá
- Chào hàng (phát giá)
- Hoàn giá (mặc cả)
- Chấp nhận
- Xác nhận
b3. Hợp đồng kinh tế về nhập khẩu hàng hoá (hau hợp đồng nhập khẩu)
Hợp đồng kỹ thuật ngoại thương là sự thoả thuận của đương sự có quốc tịch khác
nhau trong đó một bên gọi là bên bán (hay bên xuất khẩu ) có nghĩa vụ phải
chuyển vào quyền sở hữu của bên kia gọi là bên mua (hay bên nhập khẩu) một tài
sản nhất định gọi là hàng hoá. Bên mua có trách nhiệm trả tiền và nhận hàng.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản là một hình thức bắt buộc đối với các đơn vị
xuất nhập khẩu ở nước ta. Các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên
bán thoả thuận chi tiết, mặc dù trước đó đơn đặt hàng và chào hàng, nhưng vẫn
phải thiết lập văn bản hợp đồng sao cho có cơ sở pháp lý cụ thể để tạo điều kiện
cho các hoạt động trao đổi hàng hoá từ quốc gia nàysang quốc gia khác và làm
căn cứ cho việc xác định lỗi (trách nhiệm) khi có tranh chấp xảy ra.
* Hợp đồng kinh tế ngoại thương có vai trò rất quan trọng vì:
+ Đây là bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia ký kết.
+ Đây là bằng chứng để quy trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng.
+ Hợp đồng kinh tế ngoại thương tạo điều kiện thuận lợi cho việc thống kê, theo

dõi và kiểm tra việc thực hiện hợp đồng.
* Đặc điểm của hợp đồng kinh tế ngoại thương:
+ Chủ thể của hợp đồng mua bán ngoại thương là các pháp nhân có quốc tịch
khác nhau.
+ Hàng được chuyển từ nước này sang nước khác
+ Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng là ngoại tệ hay có nguồn gốc ngoại lệ đối
với một trong hai bên ký kết hợp đồng.
* Trong buôn bán quốc tế có thể có nhiều phương thức ký kết hợp đồng khác
nhau:
+ Hai bên cũng ký kết vào một hợp đồng mua bán (một văn bản)

×