Mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài. Việt Nam thực hiện đổi mới, chuyển nền
kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Trong quá trình đổi
mới, Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu quan trọng: giữ vững đợc định h-
ớng XHCN, kinh tế tăng trởng liên tục với tốc độ cao, đời sống nhân dân đợc
cải thiện. Tuy nhiên, sự phân hoá giầu - nghèo có xu hớng gia tăng. Vấn đề
thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập, gắn tăng trởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội là một vấn đề vừa cấp bách vừa thờng xuyên lâu dài
và cũng là vấn đề nhạy cảm nhất trong đời sống kinh tế - xã hội ở nớc ta. Để
giải quyết vấn đề trên Nhà nớc có vai trò quyết định. Vì thế, chúng tôi chọn
vấn đề " Vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị tr-
ờng định hớng XHCN ở Việt Nam " làm đề tài nghiên cứu.
Tình hình nghiên cứu đề tài. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu về phân phối thu nhập, tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu nghiên cứu
một chính sách phân phối cụ thể, đơn lẻ nh chính sách tiền lơng, chính sách
thuế, chính sách việc làm, chính sách xoá đói, giảm nghèo, các chính sách
thuộc hệ thống an sinh xã hội. Không còn nghi ngờ gì nữa, những nghiên cứu
đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển lý luận phân phối ở những lĩnh vực
riêng biệt. Hiện có rất ít những công trình nghiên cứu sâu có tính chất khái
quát về phân phối thu nhập. Nhà nớc có vai trò quyết định đối với phân phối
và điều tiết thu nhập đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả. Vì
thế, cần có những công trình nghiên cứu tổng quát, có tính hệ thống về vai
trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập trong kinh tế thị trờng định hớng
XHCN. Đề tài nghiên cứu này mong góp một phần nào đó giải quyết vấn đề
trên.
1
Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ khoa học. Dựa trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, quan
điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập và thông qua việc phân tích, đánh
giá thực trạng phân phối và điều tiết của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập
trong thời gian qua, công trình nghiên cứu này nêu lên những quan điểm cần
quán triệt trong quá trình phân phối và điều tiết thu nhập của Nhà nớc và nêu
lên những giải pháp thiết thực để tăng cờng vai trò điều tiết của Nhà nớc đối
với phân phối thu nhập theo định hớng XHCN.
Những nhiệm vụ khoa học cần giải quyết:
- Phân tích khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân
phối và giá trị khoa học của những quan điểm đó trong điều kiện ngày nay,
làm rõ quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu
nhập.
- Làm rõ những nguyên tắc (hình thức) phân phối thu nhập trong kinh
tế thị trờng định hớng XHCN và cơ chế, chính sách phân phối và điều tiết thu
nhập của Nhà nớc.
- Đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập
thông qua việc phân tích, xem xét các chính sách phân phối cơ bản của Nhà
nớc ở nớc ta trong thời gian qua.
- Nêu lên những quan điểm cần quán triệt trong quá trình phân phối và
điều tiết thu nhập của Nhà nớc, các giải pháp tăng cờng vai trò của Nhà nớc
đối với phân phối thu nhập thông qua việc làm rõ phơng hớng và nội dung
tiếp tục cải cách, hoàn thiện các chính sách phân phối.
Đối tợng nghiên cứu. Công trình này nghiên cứu vai trò của Nhà nớc
đối với phân phối thu nhập thông qua việc xem xét, đánh giá sự đổi mới, các
chính sách phân phối thu nhập của Nhà nớc và phơng hớng hoàn thiện chúng
trong thời gian tới.
2
Đóng góp khoa học của đề tài:
- Làm rõ giá trị khoa học của các quan điểm, nguyên tắc phân phối thu
nhập của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng ta về phân phối
trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN, làm rõ cơ chế phân phối, điều tiết
thu nhập của Nhà nớc.
- Phân tích, đánh giá sát thực tình hình các chính sách phân phối thông
qua đó đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập
trong thời gian qua.
- Nêu lên một số quan điểm có giá trị khoa học và thực tế về phân
phối, điều tiết thu nhập của Nhà nớc và các giải pháp thiết thực nhằm tăng c-
ờng vai trò của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập bằng việc tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện các chính sách phân phối thu nhập trong thời gian tới.
Các tác giả của công trình này đã có nhiều cố gắng trong việc nghiên
cứu một vấn đề phức tạp, tuy nhiên, do hạn chế về trình độ và điều kiện
nghiên cứu, nên chắc chắn cha giải quyết đợc một cách thấu đáo mọi khía
cạnh của vấn đề nêu ra. Các tác giả rất mong nhận đợc những đóng góp quý
giá của các nhà khoa học và đồng nghiệp.
3
Nội dung
Chơng 1
Lý luận về vai trò của Nhà nớc trong
phân phối thu nhập
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phân phối.
Trong tiết này, công trình nghiên cứu một số lý thuyết về phân phối,
đặc biệt lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối.
1.1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối
Trong quá trình phê phán phơng thức phân phối TBCN, C. Mác và Ph.
Ăng ghen đã nêu lên quan điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phối trong xã
hội tơng lai. Hai ông đã vạch ra rằng phân phói là một khâu của quá trình tái
sản xuất và là một mặt của quan hệ sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định.
C. Mác chỉ rõ "Bất kỳ một sự phân phối nào về t liệu tiêu dùng cũng chỉ là
hậu quả của sự phân phối chính những điều kiện sản xuất" Quan điểm đó
của C. Mác, theo chúng tôi, vẫn giữ nguyên giá trị trong điều kiện ngày nay.
Trong tác phẩm " Phê phán cơng lĩnh Gô- ta", C.Mác đã nêu lên sơ đồ
phân phối tổng sản phẩm xã hội. Trong đó C. Mác đã vạch ra hai bớc phân
phối: bớc thứ nhất là phân chia tổng sản phẩm xã hội làm 6 phần phải khấu
trừ và toàn bộ t liệu tiêu dùng; bớc thứ hai là phân phối t liệu tiêu dùng cho
ngời lao động theo nguyên tắc phân phối theo lao động. Sơ đồ phân phối của
C. Mác là sơ đồ phân phối vĩ mô, vạch rõ khái quát việc phân phối tổng sản
phẩm xã hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở rộng vừa đảm bảo thoả mãn
nhu cầu chung của xã hội và của cá nhân, cũng nh sự tiến bộ xã hội. Có ngời
cho rằng C. Mác đã không nói rõ các tỷ lệ phân chia. Thiết nghĩ, không nên
đòi hỏi C. Mác phải giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể cho chúng ta.
C. Mác và Ph. Ăng ghen đã sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao
động, nêu lên nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân trong CNXH là phân
4
phối theo lao động. Điều kiện tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động là
nó đợc thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ công hữu và ở giai
đoạn đầu của xã hội cộng sản, không có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Dựa
trên điều kiện tiền đề đó, C. Mác vạch ra nguyên tắc và phơng thức phân phối
theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là ngời lao động, đối tợng
phân phối là t liệu tiêu dùng, tức là tổng sản phẩm xã hội sau khi trừ đi 6
khoản, căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phơng thức thực hiện phân
phối theo lao động là phiếu lao động. Thời gian lao động là thớc đo khách
quan để phân phối, sự khác biệt về lao động, do đó sự khác biệt về thu nhập
sẽ tồn tại.
Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C. Mác là ở chỗ: Một
là, trớc sau nh một C. Mác coi trình độ phát triển của lực sản xuất và chế độ
sở hữu là những nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Hai là, dới chế độ
công hữu, mọi ngời lao động đều có quyền bình đẳng đối với t liệu sản xuất,
lao động trở thành điều kiện tất yếu để nhận đợc thu nhập. Nh vậy, C. Mác đã
xác lập cơ sở của mối liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập. Ba là, lý luận
phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự khác biệt về thu
nhập và phủ nhận sự phân phối bình quân.
Nguyên tắc phân phối theo lao động đợc V.I Lê nin phát triển trong
quá trình xây dựng CNXH ở Nga. Ông thừa nhận rằng CNXH không thể xoá
bỏ đợc kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là điều kiện của phân
phối theo lao động và nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện hạch toán kinh
tế, gắn trực tiếp thu nhập với thành quả lao động và năng xuất lao động.
1.1.2. Một số lý thuyết phân phối trong kinh tế học hiện đại
. Trờng phái kinh tế thị trờng xã hội của CHLB Đức.A. Muller
Armack, đại biểu tiêu biểu của trờng phái này cho rằng việc phân phối kết
quả sản xuất cho cá nhân phải tơng ứng với phần đóng góp của mỗi ngời. Sau
đó, thông qua chính sách xã hội phù hợp mà giúp đỡ cho những ngời có thu
5
nhập thấp. Phân phối phải đợc thực hiện trên cơ sở công bằng theo cả chiều
ngang và công bằng theo cả chiêù dọc. Công bằng theo chiều ngang là phân
phối phải đảm bảo công bằng cho những ngời ngang nhau về đóng góp lao
động, đóng góp vốn. Công bằng theo chiều dọc là tái phân phối từ những ng-
ời có thu nhập cao sang những ngời có thu nhập thấp hoặc không có thu
nhập. Theo các nhà kinh tế học Đức công bằng trong phân phối phải đợc thể
hiện ở chỗ, một mặt, thực hiện tiền lơng tối thiểu và đảm bảo tiền lơng phân
biệt thông qua sự thoả thuận tự do; mặt khác, thực hiện công bằng thu nhâp,
xoá bỏ sự khác biệt vô lý trong thu nhập thông qua các biện pháp đánh thuế,
hỗ trợ những nhóm ngời có thu nhập thấp, phát triển hệ thống bảo hiểm xã
hội... Quan điểm và yêu cầu cần thực hiện các chính sách nh trên của trờng
phái này nhằm tạo ra sự ổn định xã hội.
Trờng phái chính hiện đại nghiên cứu vấn đề phân phối thu nhập trên
cơ sở quan điểm cơ chế thị trờng có sự can thiệp của Nhà nớc. Paul A.
Samuelson, ngời đứng đầu trờng phái này cho rằng phân phối thu nhập đợc
quyết định bởi quan hệ cung và cầu trên thị trờng. Ông cho rằng hàng hoá đ-
ợc sản xuất ra cho ai đợc xác định bởi mối quan hệ cung - cầu ở thị trờng các
yếu tố sản xuất. Những thị trờng này xác định mức lơng, tiền thuê đất, lãi
xuất và lợi nhuận những thứ này đi vào thu nhập của mọi ngời. Nh vậy, phân
phối thu nhập trong nhân dân đợc xác định bởi số lợng các nhân tố có đợc
(giờ công, mẫu đất) và giá cả các nhân tố đó(mức lơng, tiền thuê đất...). Cơ
chế (nguyên tắc) phân phối thu nhập đợc thực hiện thông qua thị trờng dới sự
tác động của quy luật cung - cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên, các nhà kinh tế của
trờng phái này cũng thừa nhận rằng thị trờng không có khả năng đặc biệt để
tìm ra giải pháp tốt nhất đối với vấn đề cho ai. Một nền kinh tế hiệu quả nhất
trên thế giới, vẫn có thể tạo ra một sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập.
Vì thế, theo họ, cần có sự can thiệp của Nhà nớc vào phân phối thu nhập
nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, nâng cao mức sống của
ngời nghèo. Tuy nhiên, họ lại cho rằng việc phân phối lại có thể làm giảm
6
bớt tình trạng bất bình đẳng, nhng cũng phải trả cái giá là tình trạng kém hiệu
quả, tức là công bằng và hiệu quả mâu thuẫn nhau.
Sự phân phối tối u Pareto cũng không nói rõ quan hệ giữa hiệu quả và
công bằng trong phân phối thu nhập. Bergson và Samuelson đã nêu lên "
hàm số phúc lợi xã hội", họ cho hiệu quả kinh tế là điều kiện cần, còn phân
phối hợp lý là điều kiện đủ của phúc lợi tối đa và đã chỉ ra sự tự do lựa chọn
của cá nhân là điều kiện quan trọng để tối đa hoá phúc lợi cá nhân. Nh vậy,
từ hệ số Gini đến phân phối " tối u Pareto" và nguyên lý " hàm số phúc lợi xã
hội " là một bớc tiến dài hớng đến tính hợp lý trong phân phối thu nhập của
xã hội TBCN, nhng đó chỉ là lý thuyết.
1.1.3. Quan điểm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân
phối thu nhập.
Trong các bài nói và viết xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, Chủ Tịch Hồ
Chí Minh đã nêu lên những quan điểm, t tởng cơ bản về phân phối thu nhập
trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Về mối quan hệ giữa phát triển sản xuất và nâng cao đời sống nhân
dân, Ngòi nói " Đời sống ví nh con thuyền, sản xuất ví nh nớc. Mức nớc lên
cao thì con thuyền càng nổi lên cao", " muốn sản xuất đợc nhiều phải chú ý
phân phối công bằng". Ngời luôn nhắc nhở cán bộ phải chăm lo thực hiện
phân phối công bằng: " Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng"
Về nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đề nghị phải "làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động".
Ngời giải thích " phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì đợc
phân phối nhiều, lao động ít thì đợc phân phối ít. Lao động khó thì đợc phân
phối nhiều, lao động dễ thì đợc phân phối ít. Không nên có tình trạng ngời
giỏi, ngời kém, việc khó, việc rễ cũng công điểm nh nhau. Đó là chủ nghĩa
bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân".
T tởng về phân phối thu nhập công bằng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đ-
ợc gắn liền với yêu cầu làm tốt chính sách bảo đảm xã hội. Ngời nói " Hết
7
sức chăm lo đời sống nhân dân. Phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm,
lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bớc cải thiện việc ăn, mặc, ở,
học, phục vụ sức khoẻ và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú trọng các vùng
bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình các liệt sĩ,
thơng binh, bộ đội, thanh niên xung phong"
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và t tởng của Chủ
Tịch Hồ Chí Minh về phân phối, Đại hôi VIII của đảng đã khẳng định" công
bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý t liệu sản xuất lẫn ở
khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi ngời đều có cơ
hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình"
Đảng ta khẳng định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN phải dựa trên cơ sở mức đóng góp các nguồn lực vào sản
xuất kinh doanh ( lao động, vốn, t liệu sản xuất...) và thực hiện nhiều hình
thức phân phối thu nhập. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ " kinh tế thị trờng
định hớng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội" và chủ trơng gắn
tăng trởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng
xã hội.
1.2. Những nhân tố quyết định phân phối và các nguyên tắc phân
phối trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
1.2.1. Những nhân tố quyết định phân phối
Một là, lực lợng sản xuất ảnh hởng tới phân phối thể hiện ở chỗ sự
phát triển lực lợng sản xuất làm tăng khối lợng của cải vật chất đa vào phân
phối; dẫn đến sự thay đổi hình thức phân phối; quyết định sự biến đổi của các
phơng thức phân phối xã hội. Hai là, chế độ sở hữu có vai trò quyết định đối
với chế độ phân phối, khi chế độ sở hữu thay đổi thì chế độ phân phối tơng
8
ứng với nó cũng biến đi theo. Ba là, kiến trúc thợng tầng ảnh hởng đến phân
phối thể hiện ở chỗ Nhà nớc sử dụng luật pháp để bảo vệ chế độ sở hữu và
quan hệ phân phối của chế độ xã hội đó; hình thái ý thức có tác động đến
phân phối thông qua việc chấp nhận hoặc phủ nhận, từ đó củng cố hoặc làm
suy yếu quan hệ phân phối đó.
1.2.2. Những nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trờng định hớng
XHCN
a. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong kinh tế thị trờng
định hớng XHCN
Lý luận kinh tế phơng Tây cho rằng giữa công bằng và hiệu quả tồn tại
quan hệ thay thế, đợc cái này mất cái kia và thờng chọn hiệu quả làm mục
tiêu u tiên trong phân phối. Một số nhà lý luận lại cho rằng phân phối không
công bằng là điều kiện cần thiết để tạo ra tăng trởng kinh tế nhanh. Việt Nam
xây dựng và phát triển kinh tế thị trờng nhằm mục đích thực hiện dân giàu, n-
ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để đạt đợc điều đó phải có
một nền kinh tế phát triển cao và chế độ công hữu về t liệu sản xuất cùng với
chế độ phân phối công bằng. Chế độ phân phối đó phải đảm bảo sự thống
nhất giữa hiệu quả và công bằng.
Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong kinh tế thị trờng định
hớng XHCN là sự thống nhất biện chứng. Hiệu quả tạo ra điều kiện vật chất
để thực hiện công bằng, chỉ có không ngừng nâng cao hiệu quả, tăng thêm
của cải, thì phân phối công bằng mới có điều kiện thực hiện và theo đó mà
phát triển. Ngợc lại, phân phối công bằng kích thích hiệu quả. Sự phân phối
công bằng sẽ khơi dậy tính tích cực và sáng tạo của ngời lao động để nâng
cao hiệu quả, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Sự thống nhất giữa hiệu quả và
công bằng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN.
b. Những nguyên tắc phân phối trong nền kinh tế thị trờng định h-
ớng XHCN
9
Nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, xét về cơ cấu thành phần,
cũng là một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở các hình thức sở hữu
khác nhau. Nhng sở hữu về t liệu sản xuất lại quyết định quan hệ phân phối.
Vì thế, trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN, phải thực hiện nhiều hình
thức phân phối thu nhập.
* Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
Nh đã trình bày, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối cơ
bản của CNXH, là đặc trng bản chất của kinh tế thị trờng định hớng XHCN
và là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu về t liệu sản
xuất. Nếu xoá bỏ phân phối theo lao động thì quyền bình đẳng của ngời lao
động đối với t liệu sản xuất thuộc chế độ công hữu trở thành vô nghĩa. Tính
định hớng XHCN của nền kinh tế nớc ta cũng không đợc thể hiện. Tuy nhiên,
hiện nay một số ngời cho rằng điều kiện kinh tế để thực hiện nguyên tắc đó
là kinh tế sản phẩm, nhng kinh tế thị trờng đã thay thế kinh tế sản phẩm,
nghĩa là điều kiện cơ sở của phân phối theo lao động không còn tồn tại. Vì
thế, họ cho rằng phân phối theo lao động khó có thể thực hiện đợc trong nền
kinh tế hàng hoá. Quan điểm đó không có cơ sở chắc chắn, không tin cậy.
Vấn đề còn vớng mắc trong phân phối theo lao động là đo lợng lao
động đóng góp nh thế nào? Trong điều kiện nền kinh tế dựa trên chế độ công
hữu và sản xuất hàng hoá đã tiêu vong, thì lao động của mỗi ngời, cũng nh
của tập thể xí nghiệp không thể trực tiếp mà phải bằng con đờng vòng mới
chuyển hoá thành lao động xã hội cần thiết, phải thông qua sự đánh giá và
quy đổi tự phát của thị trờng. Đảng ta đã vận dụng sáng tạo nguyên tắc phân
phối theo lao động của C. Mác trong điều kiện nền kinh tế thị trờng định h-
ớng XHCN khi nêu lên quan điểm: thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
Yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
trong điều kiện lao động nh nhau, những lao động mang lại kết quả ngang
10
nhau thì đợc trả công bằng nhau, những lao động mang lại kết quả khác nhau
thì đợc trả công khác nhau.
Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đợc thực
hiện qua hai khâu ( hai cấp): Khâu thứ nhất, tổng thu nhập của doanh nghiệp
trớc hết phải phân chia giữa doanh nghiệp và Nhà nớc. Khâu thứ hai, phân
phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp do doanh nghiệp với t cách là chủ
thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi ngời.
Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế đợc thực hiện dới
hình thức tiền lơng, phụ cấp, tiền thởng và phúc lợi tập thể. Về thực chất, tiền
lơng trong hợp đồng lao động là giá cả sức lao động. Nhà nớc quy định tiền l-
ơng tối thiểu bằng văn bản có tính chất pháp luật nhằm tạo ra lới an toàn cho
ngời lao động. Ngời sử dụng lao động không đợc trả lơng cho ngời lao động
thấp hơn tiền lơng tối thiểu do Nhà nớc quy định. Thu nhập của ngời lao
động trong các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu tuỳ thuộc vào kết quả
lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản.
Trong nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN, phân phối theo mức
đóng góp vốn và tài sản là một tất yếu và cũng là nguyên tắc phân phối cơ
bản. Ngời sở hữu tài sản dới một hình thức nào đó là nhằm tham dự vào phân
phối dới hình thức tơng ứng, bất kỳ một sự chiếm hữu nào đối với t liệu sản
xuất đều nhằm nhận đợc thu nhập. Sở hữu phải đợc thực hiện về kinh tế, nếu
không sở hữu sẽ mất ý nghĩa kinh tế. Vì thế, ngời sở hữu vốn và t liệu sản
xuất góp vào sản xuất phải nhận đợc thu nhập dới hình thức nào đó. Vả lại,
vốn và t liệu sản xuất là những yếu tố đầu vào của sản xuất, tuy chúng không
tạo ra giá trị mới, nhng có tác dụng nhất định trong quá trình tạo ra của cải xã
hội. Với ý nghĩa đó, kết quả sản xuất kinh doanh phải đợc phân phối theo
mức đóng góp các yếu tố đó. Vì thế, phân phối theo vốn đóng góp là một tất
yếu và có ý nghĩa thực tế, vì chỉ có thừa nhận hình thức phân phối này mới
huy động đợc mọi nguồn vốn trong xã hội vào phát triển kinh tế.
11
Phân phối theo mức đóng góp vốn đợc thực hiện dới hình thức lợi
nhuận, lợi tức cổ phần, lợi tức.
* Phân phối thông qua phúc lợi xã hội
Phân phối thông qua phúc lợi xã hội cũng là một nguyên tắc phân
phối trong kinh tế thị trờng định hớng XHCN. Nó có ý nghĩa quan trọng, góp
phần thực hiện công bằng xã hội, giảm sự chênh lệch về thu nhập giữa các
tầng lớp dân c, nâng cao mức sống của nhân dân, đặc biệt là những ngời có
thu nhập thấp, tạo điều kiện cho con ngời phát triển toàn diện, giáo dục ý
thức cộng đồng. Đảng ta chủ trơng gắn tăng trởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội. Vì thế cần phải xây dựng và sử dụng hợp lý các quỹ phúc lợi xã
hội và tập thể.
3.1. Vai trò điều tiết của Nhà nớc trong phân phối thu nhập.
1.3.1. Vai trò của Nhà nớc trong phân phối thu nhập quốc dân
Vai trò của Nhà nớc trong phân phối là một trong những chức năng
kinh tế của Nhà nớc. Bất kỳ Nhà nớc nào cũng đều can thiệp vào phân phối
thu nhập trong xã hội. Nhà nớc XHCN có nhiệm vụ tổ chức sản xuất và đời
sống cho hàng chục triệu ngời theo một kế hoạch chung thống nhất, vì thế,
vai trò của Nhà nớc trong phân phối thu nhập đợc tăng cờng.
Mục tiêu cơ bản của sự điều tiết của Nhà nớc XHCN đối với phân phối
thu nhập là đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Sự điều tiết
phân phối thu nhập cần phải : (1) điều tiết phân phối thu nhập phải có lợi cho
việc giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội ; (2) điều tiết phân phối thu nhập
phải có tác dụng kích thích nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội; (3) trên cơ sở
thừa nhận sự khác biệt về thu nhập cá nhân, điều tiết phân phối thu nhập phải
làm cho sự khác biệt đó ở mức độ vừa phải, có thể chấp nhận đợc. Để thực
hiện mục tiêu trên, Nhà nớc cần phải:
- Nhà nớc xác định định hớng phân phối thu nhập quốc dân hay là xây
dựng kế hoạch tổng thể về phân phối. Nó có tác dụng điều tiết vĩ mô đối với
12
phân phối, duy trì cân bằng tổng lợng của phân phối thu nhập quốc dân, làm
căn cứ cho các quyết sách về tiền lơng, trợ cấp tài chính, an sinh xã hội, điều
chỉnh giá cả, vv....
- Nhà nớc xây dựng, ban hành và thực thi các chính sách về phân phối
bao gồm chính sách tiền lơng, chính sách thuế, chính sách BHXH, chính
sách cứu trợ xã hội. Chúng tạo thành cơ chế điều tiết tổng hợp thu nhập quốc
dân.
- Nhà nớc thông qua sự phối hợp đồng bộ cơ chế, chính sách phân phối
thực hiện điều tiết thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Điều hành phân
phối thu nhập phải lấy biện pháp kinh tế là chính, tuy nhiên cần dựa vào sức
mạnh của luật pháp và thông qua các quyết định, nghị định của Chính phủ để
quy định những nguyên tắc cơ bản và chính sách phân phối cụ thể, chúng là
chuẩn mực luật pháp cho hoạt động phân phối.
1.3.2. Cơ chế và chính sách phân phối thu nhập của Nhà nớc
Cơ chế và chính sách phân phối thu nhập quốc dân trong nền kinh tế
thị trờng định hớng XHCN đợc thực hiện bởi thị trờng và Nhà nớc, đó là cơ
chế hỗn hợp. Trong cơ chế đó, thị trờng điều tiết phân phối thu nhập bằng hệ
thống giá cả các yếu tố sản xuất do quan hệ cung - cầu về các yếu tố đó
quyết định. Tiền lơng, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, tiền thuê đất... là thu nhập
của các chủ sở hữu sức lao động, vốn và các tài sản thông qua cơ chế thị tr-
ờng. Tuy nhiên, cơ chế thị trờng không thể phân phối thu nhập một cách
công bằng, vì thế, Nhà nớc phải thực hiện chức năng phân phối thu nhập sao
cho đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả.
Để can thiệp vào phân phối, Nhà nớc phải sử dụng các công cụ, đó là
các chính sách về phân phối.
- Chính sách tiền lơng là một trong những chính sách quan trọng trong
hệ thống các chính sách phân phối, nó liên quan trực tiếp đến đời sống của
hàng chục triệu ngời, đến động lực tăng trởng và phát triển kinh tế. Việc thực
13
hiện chính sách tiền lơng có liên quan hệ mật thiết đến những cân đối lớn
trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa việc làm và thu nhập, giữa cung và
cầu về lao động, giữa khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh,
giữa kinh tế và xã hội,....Vì tính chất quan trọng và các mối quan hệ đó,
Đảng và Nhà nớc ta rất coi trọng chính sách tiền lơng. Đại hội IX của Đảng
đã nêu rõ " cải cách cơ bản chế độ tiền lơng cán bộ, công chức theo hớng tiền
tệ hoá đầy đủ tiền lơng; điều chỉnh tiền lơng tơng ứng với nhịp độ tăng thu
nhập trong xã hội"
- Chính sách giá cả. Một trong những chức năng của giá cả trong nền
kinh tế thị trờng là chức năng phân phối lại. Cơ chế giá cả gắn liền với quyết
sách kinh tế vĩ mô và thu chi của cá nhân. Sự biến động của tổng mức giá cả
là sự biểu hiện tập trung của sự phù hợp hay không giữa tổng cung và tổng
cầu, và phân phối thu nhập quốc dân có cân bằng hay không. Nhà nớc có thể
thông qua điều tiết tổng mức giá để điều tiết phân phối thu nhập quốc dân.
Giá cả cũng ảnh hởng đến phân phối thu nhập cá nhân. Trong kinh tế thị tr-
ờng, ngời lao động phải chuyển thu nhập bằng tiền của mình thành t liệu sinh
hoạt thông qua thị trờng. Vì vậy, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định giá
cả đợc coi là một chính sách quan trọng trong hệ thống chính sách phân phối.
Để thực hiện điều đó, Nhà nớc phải kiểm soát đợc lạm phát.
- Chính sách tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống
chính sách phân phối, là công cụ chủ yếu để Nhà nớc chủ động phân phối và
điều tiết thu nhập quốc dân. Tài chính thông qua phân phối lần đầu và phân
phối lại tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân tạo cơ sở tài chính của
Nhà nớc để Nhà nớc thực hiện các chức năng của mình. Chính sách tài chính
điều hoà các quan hệ phân phối lợi ích cơ bản giữa Nhà nớc, doanh nghiệp và
ngời lao động, giữa trung ơng và địa phơng, giữa các địa phơng, giữa các
nghành, giữa các tầng lớp dân c. Chính sách tài chính, một mặt, thông qua
thu chu của NSNN điều tiết cân bằng tổng thể của nền kinh tế, cân bằng cung
- cầu xã hội, mặt khác, thông qua các hình thức cụ thể của cơ chế tài chính
14
nh thuế, trợ cấp,.... nhằm điều tiết hành vi của các chủ thể kinh tế, điều hoà
thu nhập giữa các tầng lớp dân c.
Chính sách tài chính có vai trò quan trọng nh vậy, nên Đại hội IX của
Đảng yêu cầu phải hoàn thiện chính sách tài chính quốc gia theo hớng" thực
hiện nguyên tắc công bằng, hiệu quả trong chính sách phân phối và phân
phối lại thu nhập trong xã hội"
1.3.3. Điều tiết của Nhà nớc đối với thu nhập cá nhân
Nhà nớc điều tiết thu nhập cá nhân thông qua các chính sách:
Chính sách thuế, trong đó có thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp, đợc coi là công cụ điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân c,
giữa các đơn vị kinh tế để tạo nguồn thu cho NSNN và thực hiện công bằng
xã hội, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao đã đợc ban hành
và thực hiện từ năm 1991, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay thế thuế lợi
tức năm 1999
- Chính sách việc làm. Ngời lao động không có việc làm không chỉ bị
tớc mất quyền bình đẳng đợc làm việc để phát huy năng lực của mình, mà
còn không có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Vì thế, Nhà nớc phải có chính
sách giải quyết việc làm, tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho ngời lao động.
Đảng ta khẳng định bảo đảm công ăn, việc làm cho dân là mục tiêu xã hội
hàng đầu.
- Chính sách bảo đảm xã hội là chính sách điều tiết thu nhập cá nhân
nhằm cải thiện đời sống của những ngời có hoàn cảnh khó khăn, giảm mức
chênh lệch giàu nghèo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách bảo
đảm xã hội bao gồm chính sách bảo hiểm xã hội (kể cả bảo hiểm y tế) nhằm
giúp đỡ về vật chất cho những ngời lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn
mất cơ hội lao động và chính sách cứu trợ xã hội nhằm giúp đỡ những ngời
gặp phải những khó khăn, rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống vợt qua khó khăn,
ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng.
15
Chơng 2
Thực trạng vai trò điều tiết của Nhà nớc đối
với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở
nớc ta
2.1. Thực trạng các chính sách phân phối thu nhập trong thời gian
qua.
Sự điều tiết của Nhà nớc đối với phân phối thu nhập là một vấn đề rộng
lớn, phức tạp. ở đây, nó đợc xem xét, đánh giá qua thực trạng các chính sách
phân phối thu nhập.
2.1.1. Thực trạng chính sách tiền lơng
Chính sách tiền lơng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phân phối
thu nhập. Có thể nói nó là tụ điểm của mọi vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội,
đạo đức, công bằng xã hội. Vì thế, Đảng và nớc ta luôn coi trọng chính sách
tiền lơng, từ năm 1993 đến nay đã 4 lần điều chỉnh mức lơng tối thiểu.
Năm 1993 Nhà nớc thực hiện cải cách chính sách tiền lơng. Mục tiêu
chính sách tiền lơng tối thiểu năm 1993 là tạo ra lới an toàn cho ngời lao
động trong cơ chế thị trờng; làm căn cứ để xây dựng hệ thống trả công lao
động cho các khu vực, ngành nghề, tính mức lơng cho các loại lao động, làm
cơ sở cho thoả thuận ký kết hợp đồng lao động giữa ngời lao động và ngời sử
dụng lao động. Đánh giá khách quan và tổng quát về cải cách và điều chỉnh
tiền lơng ở nớc ta trong thời gian qua, chúng ta thấy:
Về mặt tích cực:Thứ nhất, mức lơng tối thiểu năm 1993 và việc điều
chỉnh tiền lơng tối thiểu theo mức độ trợt giá đã tăng thu nhập cho ngời lao
động làm công ăn lơng, cải thiện đời sống của họ. Tiền lơng tối thiểu đã tạm
đợc coi là lới an toàn cho ngời lao động làm công ăn lơng trong xã hội. Chế
độ tiền lơng đó phù hợp với khả năng của nền kinh tế còn thấp kém và gánh
nặng đảm bảo xã hội lớn của nớc ta. Thứ hai, tiền lơng tối thiểu cùng với việc
16