Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

đề tài quá trình giao lưu văn hoá của nền văn minh chăm pa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.44 KB, 49 trang )



ĐỀ TÀI

Q TRÌNH GIAO LƯU VĂN HỐ
CỦA NỀN VĂN MINH CHĂM PA

Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện

:
:

1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam - điểm đến du lịch của thiên niên kỷ - Đó là một lời chào
của đất nước Việt Nam chúng ta. Trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau xa
xôi. Đất nước Việt Nam thống nhất lãnh thổ từ Bắc đến Nam chạy dài suốt biển
Đông cùng dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Đất nước cong cong hình chữ S, gánh lấy
sứ mệnh nối liền dải đất Miền Trung đầy nắng và gió. Nơi đây đã từng tồn tại một
nền văn hố vơ cùng rực rỡ là nền văn hoá nơi đến của cư dân Chăm Pa.
Việt Nam một đất nước phải gánh chịu trên vai mình suốt chiều dài lịch sử là
những cuộc chiến tranh đẫm máu, là những cuộc chiến tranh không ngừng nghỉ để
chống áp bức, chống nô dịch và chống đồng hoá. Trải qua biết bao thăng trầm của


lịch sử “ta vẫn là ta” vẫn giữ được bản sắc văn hoá của dân tộc, giữ được nét riêng
truyền thống thiêng liêng của đất nước. Là cửa ngõ thông thương nằm trên trục
đường giao thương buôn bán của thế giới, Việt Nam có một vị trí vơ cùng chiến
lược cho sự trung chuyển và phát triển kinh tế từ lâu đời. Nhưng đó cũng chính là
những điểm mà kẻ thù ln ln tranh thủ và nhịm ngó để xâm chiếm.
Đất nước cịn lại hơm nay đó chính là một q trình đấu tranh gian cường và
anh dũng để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ nền văn hoá, bảo vệ cái ý thức cộng đồng
tồn tại trong mỗi con người. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của lòng yêu nước, của ý
chí và của những con người anh hùng. Lịch sử Việt Nam là những trang đầy máu
và nước mắt cũng là những trang sử vinh quang và hào hùng. Đó là một sức mạnh
khơng gì có thể lay chuyển, là sức mạnh của sự đoàn kết keo sơn chung sức chung
lòng đấu tranh bảo vệ, là sức mạnh của tình nhân ái một lịng bao dung. Đó là tinh
thần hoà hợp sống với nhau của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam.
Chăm Pa-nhắc đến nó chúng ta có thể hình dung ra được rằng những giá trị
văn hố vơ cùng độc đáo cịn lại cho đến ngày nay mà không ở đâu trên đất nước
Việt Nam này có được. Là những di sản văn hố của thế giới. Nền văn hoá của cư
3


dân Chăm Pa đã tồn tại một thời rực rỡ trong lịch sử dân tộc Việt Nam để lại
những thành tựu vô cùng quý giá.
Một vương quốc nằm ở miền đất Nam Trung Bộ-nơi đây thực sự hội tụ đủ các
yếu tố cho sự phát triển của một nền văn hố. Với vị trí thuận lợi, cư dân đã định
cư lâu đời ở đây. Đã xây dựng cho mình một phức hợp văn hố đủ các loại hình.
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử dân tộc. Vương quốc Chăm Pa vẫn tồn tại
được trong một thời gian dài gần mười thế kỷ. Bằng chính sự lao động khơng mệt
mỏi và tài năng sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng nền văn minh của
chính họ bằng những giá trị văn hoá độc đáo trải dài từ suốt dải đất miền Trung
đầy nắng và gió cho đến vùng đất phía Nam trù phú của tổ quốc.
Vương quốc Chăm Pa với một vị trí địa lí đặc biệt, nằm trong khu vực Đông

Nam Á nơi được xem là “ ngã tư đường” giao lưu quốc tế, nơi hội tụ của các nền
văn minh. Bên cạnh đó là các yếu tố bản địa núi, biển, đồng bằng xen kẽ đã tạo nên
nét độc đáo trong văn hóa Chăm. Đặc biệt nghề đi biển rất phát triển. Chính con
đường thơng thương trên biển đã giúp nơi đây bên cạnh việc lưu giữ các tín
ngưỡng, lễ hội dân gian của cư dân nơng nghiệp lúa nước ( có thần mưa, thần biển,
các lễ hội nông nghiệp…) làm nền tảng cùng nền văn hóa của chế độ mẫu hệ ( Pơ
Inư Nưgat-bà mệ xứ sở) còn tiếp thu dung hòa một cách thân thiện với các nền văn
hóa An Độ, văn hóa Hồi Giáo và cả cac nước láng giềng. Tiếp thu những nét mới
du nhập, đồng thời để phù hợp với một xã hội mà chế độ mẫu hệ là độc tôn, cư dân
Chăm Pa đã từng bước “ bản địa hóa” các luồng văn hóa du nhập vào vương quốc
này, tạo nên sự khác biệt, mới mẻ rất riêng của ChămPa so với cái gốc của các nền
văn hóa mà nó chịu ảnh hưởng. Chính điều này đã tạo sự phong phú, độc đáo trong
văn hóa Chăm trong suốt chiều dài lịch sử tồn tại của vương Quốc Chămpa và đến
cả ngày nay văn hóa Chămpa vẫn cịn nhiều ẩn số cần tìm hiểu.
Nền văn hóa của vương quốc ChămPa xưa kia và của người Chămpa ngày
nay mang đậm sắc thái tơn giáo. “ Khơng có một người Chămpa nào khơng có tơn
giáo…Những yếu tố tơn giáo đã in đậm dấu ấn trong mọi dạng thức sinh hoạt văn
hóa của người Chămpa” ( Phan Xuân Biên – Phan An – Phan Văn Dốp – Văn Hóa
Chăm). Cương chính tơn giáo la biểu hiện trong mối giao lưu tiếp biến giữa văn

4


hóa Chămpa với văn hóa của nhiều thành phần dân tộc cư dân vùng lục địa và hải
đảo Châu Á.
Với q trình giao lưu văn hố của cư dân Chăm Pa bằng cả con đường tự
nguyện lẫn chiến tranh. Dù bằng phương thức nào nhưng với sự sáng tạo của mình
họ đã tạo ra những giá trị văn hố tuyệt vời, mà ngày nay nó vẫn là một thứ cực kỳ
quý giá trong kho tàng lịch sử dân tộc.
Nền văn minh Chăm Pa đã tồn tại từ II đến XIX. Đó là một q trình mà cư

dân Chăm Pa đã sinh sống và tạo ra nền văn hố của chính họ, một nền văn hoá hội
tụ đủ yếu tố bản địa vơ cùng độc đáo, chúng cũng có những yếu tố du nhập vào đây
chất sáng tạo. Đó là một q trình giao lưu văn hố, của sự phân ly và tích hợp, để
rồi cải biến một cách tuyệt vời để biến cái ngoại lai thành cái nội sinh.
Quá trình giao lưu văn hoá diễn ra trên mọi lĩnh vực từ văn hố, tơn giáo tín
ngưỡng, nghệ thuật điêu khắc, văn học trên nền tảng của những điều kiện tự nhiên,
kinh tế, xã hội thuận lợi nhất của cư dân Chăm Pa có được.

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VĂN MINH CHĂM PA
1. Định nghĩa giao lưu văn hoá tộc người
5


Mỗi tộc người trong qúa trình tồn tại và phát triển của mình ở những điều kiện
địa lý tự nhiên cụ thể, đã tạo ra nền văn hóa phản ánh sắc thái riêng thích ứng với
trình độ phát triển của tộc người đó. Mặt khác, trong suốt chiều dài tồn tại và phát
triển, các tộc người khơng chỉ khép kín trong phạm vi lãnh thổ cư trú của mình mà
thường mở rộng ra giao tiếp với tộc người khác. Trong q trình giao tiếp ấy, họ
đã tiếp nhận có ý thức hoặc khơng có ý thức những thành tố văn hoá của những tộc
người láng giềng để làm phong phú thêm văn hố của mình. Trải qua nhiều thế hệ,
những yếu tố văn hoá tiếp nhận từ các tộc người khác đã thử nghiệm qua thời gian
và thực tế cuộc sống, đã gắn bó, hồ quyện vào các yếu tố của bản thân tộc người
tạo nên một phức hợp văn hố của tộc người đó. Giao lưu văn hố đã xảy ra trong
suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại vì con người muốn tồn tại và phát
triển thì phải có nhu cầu giao tiếp với thế giới xung quanh, chính yếu tố đó đã thúc
đẩy tộc người này giao lưu với tộc người khác.


Giao lưu văn hoá là sự di chuyển qua lại giữa các nền văn hố. Nói


cách khác giao lưu văn hố là sự tiếp xúc và trao đổi văn hố trong q trình vận
động, phát triển của xã hội. Hay giao lưu văn hoá là sự tiếp thu những nét cơ bản
từ một trạng thái văn hoá ngoại sinh, trong khi vẫn giữ những nét cơ bản của trạng
thái văn hoá nội sinh ở một dạng phát triển hơn.
Giao lưu văn hố có thể sảy ra ở một khu vực rộng lớn bao gồm nhiều quốc
gia, chủng tộc, cũng có thể xảy ra ở những vùng rộng hẹp khác nhau, trong cùng
một quốc gia muốn diễn ra giao lưu văn hố thì cần phải có những điều kiện nhất
định. Tuỳ từng giai đoạn khác nhau của tiến trình lịch sử nhân loại, những điều
kiện giao lưu văn hoá giữa các tộc người cũng khác nhau.


Điều kiện đầu tiên là mơi trường khung cảnh

địa lý nơi tộc người đó cư trú và coi đây là điều kiện quan trọng tác động sâu sắc

6


đến q trình giao lưu văn hố tộc người khi những tộc người bị ngăn cách với
nhau bởi những chướng ngại tự nhiên thì giữa hai tộc người đó khơng có điều kiện
tiếp xúc thường xun với nhau thì khơng thể sảy ra việc giao lưu văn hoá. Ngược
lại, giữa hai tộc người có diều kiện tiếp xúc với nhau thuận lợi thì diễn ra q trình
giao lưu văn hố. Vì tuy là các cư dân có nguồn gốc khác nhau nhưng do cùng
sống trong một không gian sống với nhau khá lâu dài nên giữa họ đã tạo nên những
yếu tố văn hoá chung nhất, tiếp thu một phần văn hoá của tộc người láng giềng vào
nền văn hoá của mình.


Giao lưu và tiếp xúc văn hố giữa các tộc người


diễn ra rất đa dạng mà một trong những hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao
lưu và tiếp xúc văn hoá là trao đổi kinh tế. Các tộc người sinh sống ở những vùng
lãnh thổ khác nhau không phải bất kỳ nơi nào cũng đáp ứng được nhu cầu của đời
sống. Các sản phẩm làm ra của một cộng đồng cư dân nào đó, trước hết là đáp ứng
nhu cầu của chính nhu cầu của cộng đồng đó, nhưng trong nhiều trường hợp các
sản phẩm làm ra không những đáp ứng nhu cầu của cộng đồng mà cịn có thể trao
đổi. Lúc đầu có thể là những trao đổi sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng
bạn, nhưng dần dần lại mang ý nghĩa trao đổi văn hoá. Từ việc trao đổi các sản
phẩm các tộc người dần dần tiếp thu những yếu tố văn hoá của tộc người khác dựa
vào sản phẩm biến nó thành nét văn hố của mình.


Một hiện tượng khác trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại có

ảnh hưởng đến giao lưu văn hố là hiện tượng di dân. Di dân là một hiện tượng xã
hội nhưng cũng là một hiện tượng văn hoá, xảy ra ở hầu hết các dân tộc. Di dân
sảy ra trong suốt tiến trình của lịch sử nhân loại chịu tác động của các yếu tố kinh
tế, văn hoá, xã hội những cuộc chiến tranh những tác động của thiên tai. Di dân sảy
ra làm tăng quá trình giao lưu, tiếp xúc tộc người. Khi các đợt di dân sảy ra với
cường độ không lớn tức với số lượng không đông sẽ ít phá vỡ lãnh thổ tộc người.
Lớp cư dân mới đến cộng cư hoà nhập vào lớp cư dân bản địa làm cho quá trình
7


giao lưu văn hoá tăng lên. Trong trường hợp di dân với cường độ lớn có thể đẩy
người bản địa ra khỏi lãnh thổ cư trú tạo nên sự xáo trộn rất lớn trong lãnh thổ cư
trú, giao lưu văn hoá tăng. Di dân làm tăng nhanh và mở rộng quá trình giao tiếp
tộc người và làm tăng nhanh quá trình giao lưu văn hố.
Ngồi hoạt động kinh tế, di dân cịn có những hoạt động trao đổi phi kinh tế
ảnh hưởng của chúng đế giao lưu văn hoá là khơng nhỏ. Đó là sự trao đổi tặng

phẩm, vật phẩm tơn giáo. Lúc đầu những vật phẩm tặng phẩm có ý nghĩa khuyếch
trương hơn. Cùng với sự tồn tại và phát triển của các tộc người đã dẫn đến những
giao tiếp tộc người như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao những tiếp xúc đó
đều kéo theo những tiếp xúc văn hố.
Những q trình tiếp xúc trong giai đoạn đầu đơn thuần là giao tiếp tộc người
nhưng càng về sau thì chứa đựng những yếu tố văn hố. Qua trình đó diễn ra liên
tục, dưới nhiều hình thức khác nhau, làm cho sự giao lưu văn hoá tăng lên.
Như vậy từ sự tiếp xúc văn hoá - xã hội giữa các tộc người đã tạo ra sự tiếp
xúc và giao lưu văn hố. Khi diễn ra q trình tiếp xúc, giao lưu văn hố cũng là
diễn ra q trình tiếp biến văn hoá. Tức là khả năng của một tộc người tiếp nhận
các yếu tố văn hoá tộc người khác biến đổi nó thành của mình. Q tình giao lưu
văn hoá diễn ra rất phức tạp bị chi phối bởi các điều kiện tự nhiên, môi trường khác
nhau.

2.

Sơ lược về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Chăm Pa
2.1 Điều kiện tự nhiên.
8


Vương quốc Chăm Pa hình thành và phát tiển trên dải ven biển miền Trung
trong một phần cao nguyên Trường Sơn lúc lớn mạnh trải dài đến Hồng Sơn,
sơng Gianh ở phía Bắc đến sơng Dinh –Hàm Tân, phái Nam khu vực sông Krông
Po Cô và sông Đà Rằng trên Tây Ninh. Vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi
có nhiều núi và lãnh thổ giáp biển đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế
và giao lưu với các nước.
Vùng có hệ thống sơng ngịi tương đối nhiều chỉ riêng từ Quảng Bình đến
Bình Thuận cứ 15-20km lại có một con sơng đổ ra biển có những rãnh núi đâm
ngang nên mỗi sông là một hệ thống riêng lẻ. Vùng có nguồn động thực vật phong

phú. Các con sông mang lại lượng phù sa màu mỡ của vùng, tạo điều kiện cho sự
phát triển các ngành kinh tế.
Vùng biển có bờ biển dài, dạng răng cưa gồm bộ phận bồi tụ mài mòn xen kẽ.
Các vũng vịnh rộng lớn thường là các bán đảo lồi ra được các bán đảo che chở.
Vùng có tài nguyên động thực vật phong phú có tài ngun khống sản tuy số
lượng không lớn lắm phần lớn tập trung ở Quảng Nam Đà Nẵng các loại thân đá,
đá quý, vàng…tạo kiện cho cư dân champa sớm hướng ra biển.
Tất cả những điều kiện tự nhiên ấy giúp Chăm Pa phát triển một nền kinh tế
vững mạnh dựa vào các ưu thế vốn có của vùng.
Nền kinh tế chủ yếu là nơng nghiệp, Nhân dân trồng các loại ngũ cốc, nếp, kê,
đậu, vừng đây là vùng đất mới khai phá sau nên đất đai phì nhiêu họ cịn trồng các
loại mía, chuối, thốt nốt, dừa, sen, cau, đặc biệt là mía. Ngồi ra người Chăm Pa
cịn ni trâu bị, ngựa, voi và voi được sử dụng chủ yếu trong quân đội. tại đây
Chăm Pa cũng học cách cày cấy bằng trâu bò cửa Cửu Chân. Ruộng hai mùa, mùa
trồng lúa trắng mùa trồng lúa đỏ tên lúa là Chiêm đây cũng là loại lúa được người
Việt tiếp nhận qua đó cho thấy quá trình giao lưu học hỏi người Đại Việt và người
Chăm Pa hình thành rất sớm.
9


Việc chuyển hướng từ nông nghiệp khai thác biển sang nông nghiệp thuần
túy là sự kiện đặc biệt cho quá trình này.Trên cơ sở phát triển của kỹ thuật
luyện kim đồng thau đã tạo điều kiện cho năng suất tăng, dư thừa để trao đổi,
buôn bán, xuất hiện giao lưu tieáp bieán
Hơn nữa với vùng tự nhiên giáp Đại Việt trong cơng cuộc chống Bắc thuộc
hai vùng cũng có những mối quan hệ bang giao và kéo dài theo chiều dài lịch sử
mối quan hệ ở mỗi giai đoạn tuy có biến đổi nhưng đặc biệt trong các đợt chống
ngoại xâm phương Bắc hai nước thể hiện tinh thần hoà hiếu với nhau rất thân thiết.
Quá trình hợp tác lâu đời giữa hai dân tộc Đại Việt- Chămpa do cùng cư
trú trong một khu vực địa lí chung, và trong cuộc đấu tranh lâu dài với thiên

nhiên mà bộ phận cư dân Đai Việt- Chămpa trong vùng cùng nhau ghánh vác.
Hai dân tộc sử dụng chung nhiều con đập, đường mương trong vùng từ đó đưa
đến việc cùng nhau lao động để bảo vệ các nguồn cung cấp nước và qua lao
động hai cư dân có dịp tiếp xúc và giao lưu với nhau.
Nhân dân trồng dâu ni tằm ngành dệt lụa rất phát triển, nghề khai quặng nấu
quặng và rèn đúc kim loại cũng rất phát tiển, sản xuất được nhiều vàng, bạc, sắt.
Chăm Pa cũng rất giàu lâm sản quý như hương liệu, tê giác, ngà voi, sáp ong, hổ
phách, đồi mồi đặc biệt là vùng có trầm hương các sản phẩm này thường dùng
thông thương với nước ngoài và là thứ hàng trao đổi hàng năm của ngoại thương
Chăm Pa.
Ngoại thương là ngành kinh tế quan trọng của Chăm Pa, thường các vua
Chăm giàu có hnờ ngoại thương. Đặc điểm ngoại thương ở Chăm Pa là trong ngoại
thương cướp biển trở thành một bộ phận quan trọng trong đó đặc biệt là bán và
cướp nơ lệ hoạt động ngoại thương chủ yếu bằng đường biển do địa hình có biển
chạy dọc lãnh thổ nên Chăm Pa rất thuận lợi trong giao lưu buôn bán bằng đường

10


biển với các nước khác. Các sản phẩm của Chăm Pa rất được thương nhân nước
ngoài ưa chuộng. Trầm hương trở thành hàng xuất khẩu có vị trí quan trọng, gốm
Chăm Pa với trình độ phát triển cao đã có mặt ở nhiều nơi.
2.2. Điều kiện xã hội
Thế kỷ III, người ta phát hiện ra bia viết chữ Chăm chứng tỏ người Chăm Pa
có chữ viết riêng của mình từ rất sớm. Nó đã xây dựng trên cơ sở từ chữ Nam Ấn
gần chữ Phạn qua đó cho thấy Chăm Pa tiếp thu nền văn hoá Ấn cũng từ rất sớm.
Nghệ thuật Chăm Pa cũng rất phát triển với các tháp Chàm nổi tiếng những
bức phù điêu, những pho tượng Phật, Mỹ Sơn là di chỉ thành cổ Chăm rất nổi
tiếng. Đạo Phật Chăm pa được du nhập và phát triển rất sớm. Nhân dân Chăm pa
phần lớn theo đạo Phật trong đó vua theo đạo ni càn một phái tu hành khổ hạnh,

các quan lại có một số theo đạo Bà la mơn-Bà ni. Khi đó nhiều nhà sư sang Giao
Châu để truyền đạo và ở lại bên ấy.
Người Chăm rất lịch sự gặp nhau thường chắp tay vái hay cú đầu chào, họ lại
có tục ăn trầu như người Việt nên người Trung Quốc qua đây nói người Chăm ăn
cau ln mồm khơng biết mỏi.
Trong gia đình người phụ nữ có vai trị rất quan trọng trong xã hội và trong
sản xuất. Thường theo phong tục người Chăm người con gái đi hỏi con trai vì con
gái quý hơn con trai.
Nguồn gốc tộc người: họ là người nói tiếng Malayo – Polynesian nhóm người
nói tiếng Nam Á và sự di chuyển dân cư của nguời Nam Đảo họ di từ biển Đông
vào định cư ở ven bờ biển từ suốt chiều dài từ Bắc đến Nam mang theo cả bản sắc
của họ.

11


Chủ nhân của nền văn hoá Sa Huỳnh tiền thân vương quốc Chăm pa là cư dân
nói tiếng Nam đảo, tộc người Chăm Pa là cư dân đa chủng tộc có nhiều nét văn hố
khác nhau.
Chính trị: Chăm pa là một nhà nước quân chủ chuyên chế vua đứng đầu giải
quyết mọi việc từ sản xuất đến việc theo dõi các hình phạt uy quyền của nhà vua
rất lớn quan lại cũng không được đến gần nhân dân thấy vua phải quỳ cịn quan lại
yết kiến nhà vua mà thơi. Dưới vua có các quan lại họ khơng có lương bổng chỉ
được tư cấp theo thổ tục địa phương, đôi khi được cấp thức ăn, miễn tiêu, dịch. Để
đảm bảo quyền lực nhà vua có một đạo quân mạnh thường trực. Quân lính mỗi
tháng được cấp hai học gạo nếp, mỗi năm cấp từ 3-5 áo đông và hè họ được trang
bị vũ khí gươm giáo, cung tên thuốc độc. Trong nước ai phạm tội thì phạt bằng gậy
đánh hoăc tội nặng thì trèo cây lấy ngọn cây đâm vào cổ, hay tội nặng hơn nữa thì
cho voi dày hay voi quật chết, cũng có khi bắt tự tử ở núi Bất lao.
Khi mới thành lập vương quốc Chăm pa vào cuối thế kỷ II thì liên tiếp tiến

hành giao hảo với Giao châu và cử xứ sang. Thế kỷ III Châu khu liên là Phạm
hung (cháu ngoại) liên kết với Phù Nam để tấn công các trưởng lại nhà Tấn và tấn
công cả Giao Chỉ nhưng cuộc tấn công thất bại. Năm 284 Chăm Pa cử sứ sang Tấn
triều cống và ngừng cuộc xâm lấn. Với vị trí như vậy Chăm pa ln có các mối
quan hệ phức tạp với phương Bắc, với Đại Việt với Phù Nam và Chăm Pa thường
phải nộp triều cống cho Đại Việt và phương Bắc.
Chăm Pa và Đại Việt có lúc mối quan hệ diễn ra hồ bình hồ hiếu cùng nhau
tồn tại và phát triển nhưng có lúc quan hệ trở nên căng thẳng, đặc biệt là vùng phía
Bắc Chăm Pa và phía Nam Đại Việt có thời gian thường sảy ra tranh chấp và theo
thời gian do sự mở rộng về phía Nam của Đại Việt làm lãnh thổ Chăm Pa ngày
càng thu hẹp về phía Nam và cuối cùng sát nhập hoàn toàn vào Đại Việt. Lãnh thổ
Chăm Pa tuy khơng cịn nhưng dân tộc Chăm vẫn tồn tại họ sống chủ yếu ở phía
Nam đặc biệt là Ninh Thuận-Bình Thuận, qua thời gian họ vẫn giữ vững bản sắc
12


văn hố riêng của mình và bản sắc văn hố hồ vào tạo thành nền văn hố đa dạng
của 54 dân tộc Việt Nam. Bản sắc văn hố đó cần được phát huy, bảo tồn và phát
triển.
Bất kỳ một nền văn hóa nào được hình thành đều có xu hướng là thích
ứng với điều kiện địa lý và giao lưu tiếp biến với khu vực. Ngay từ sớm trong
mối bang giao rộng rãi với các cư dân trong vùng phụ cận Đông Nam làm
cho văn hóa Champa đa dạng và phong phú. Đó là quá trình phát triển ngôn
ngữ, chữ viết trong sự đan xen văn hóa cao nguyên miền núi với văn hóa
biển.Đó là sự hòa hợp giữa tiến ngưỡng dân gian với các tôn giáo Balamôn,
Bani, Islam. Tất cả thực hiện trên dạng thức văn hóa vật chất và tinh thần vừa
đồng nhất lại vừa dị biệt.


Tóm lại: Với vị trí địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương


buôn bán, dựa trên một nền thủ công nghiệp phát triển từ đó tạo cơ sở cho các hoạt
động trao đổi hàng hoá đối với các nước lân bang một cách thuận lợi. Để nền văn
minh Chăm Pa đạt đến trình độ rực rỡ nhất, chính những điều kiện đó cũng tạo cho
q trình giao lưu văn hố thuận lợi và diễn ra trên phạm vi rộng với nhiều lĩnh
vực khác nhau có sự tiếp biến và giao lưu các giá trị văn hoá một cách năng động
và nhanh chóng.


Trong việc bn bán và giao tiếp các nước lánh giềng việc sử

dụng người Hồi giáo làm đại diện trung gian với những nơi đang có một cộng đồng
A ráp hồi giáo như Trung Hoa, Giava, sẽ thuận lợi nhiều mặt.
Đất nước Chăm Pa nằm trên đường mậu dịch hàng hải Đơng Tây vì vậy nó
đóng vai trị khu vực dừng chân và trung chuyển của thương mại, ngoại giao và
giao lưu văn hoá giữa các nước từ Á-Âu, trong khu vực và của Chăm Pa đối với
các nước phía Nam lẫn phái Đơng bán đảo Đơng Dương và khu vực Đơng Nam Á.
Sản phẩm cho ra đời đó là quá trình phân ly, tiếp biến và quy tụ các giá trị văn hoá

13


tạo ra nhiều nét mới và làm hoàn hảo giữa các lĩnh vực từ tín ngưỡng tơn giáo, chữ
viết, văn học, nghệ thuật, điêu khắc. Lĩnh vực nào cũng diễn ra sự giao lưu tiếp
biến. Đem lại nét độc đáo cho nền văn hoá văn minh Chăm Pa. Như vậy, Chăm Pa
có q trình giao lưu văn hố bao gồm những điều kiện thuận lợi như:
Do ngành hải thương phát triển mạnh, Chăm Pa có giao lưu văn hố rộng rãi.
Tuy nhiên, sự tiếp xúc của Chăm Pa có xu hướng về phía Nam như Ấn Độ, Mã Lai
nhiều hơn về phía Bắc (Đại Việt và Trung Quốc). Sự tiếp xúc với Trung Quốc chủ
yếu thông quan Đại Việt, và bằng các cuộc chiến tranh.

Do có cơ sở ven biển và giao lưu nhiều. Đây cũng là vùng đất trù phú và dồi
dào về tài nguyên khoáng sản nhất là kim loại và kim loại quý do sự phát triển của
đồ trang sức rất phổ biến.
Ở đây nghề gốm cũng phát triển nên có sự giao lưu mạnh mẽ với Ấn Độ và
Trung Quốc
Đa số những giá trị văn hoá được giao lưu chủ yếu qua đường thương mại và
buôn bán nhất là Ấn Độ và Trung Quốc, Campuchia và A rập.
Văn hoá và giao lưu văn hoá ở Chăm Pa phát triển mạnh hiện nay vẫn còn
nhiều giá trị văn hóa độc đáo khơng đâu có được.
Là nơi thương nhân dừng chân buôn bán, trung chuyển quốc tế, nghỉ chân nên
nơi đây là cửa ngõ thông thương và tạo điều kiện cho giao lưu văn hoá tốt hơn,
rộng rãi hơn với nhiều nước.
Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chính, từ đó quyết định văn hố của văn
minh Chăm Pa-một nền văn hố nơng nghiệp.
Kết quả bn bán và giao thương với A rập tạo ra đạo Hồi, với Ấn Độ tạo ra
Phật Giáo+ Blamôn+ Hinđu, chữ viết Phạn, kiến trúc đền tháp…
Sau đây là quá trình giao lưu văn hóa từ đó tạo ra được những nhân tố mới
trong nền văn hóa.

14


CHƯƠNG II: Q TRÌNH GIAO LƯU VĂN HỐ CỦA NỀN
VĂN MINH CHĂM PA.
1. Sự hình thành những nhân tố mới trong q trình giao lưu tiếp
biến văn hố của nguời ChămPa
Trước khi lập quốc, Chăm Pa đã chịu sự đô hộ của người Hán và cũng chịu
ảnh hưởng sâu sắc các yếu tố Hán trong nền văn hố của mình. Trong khi đó, ngay
từ trước cơng ngun, trước nhu cầu phát triển sự bn bán trao đổi hàng hố. Các
thương nhân Ấn Độ đã tìm đến khu vực Đơng Nam Á trong đó có cả miền Trung

của Việt Nam lúc bấy giờ. Từ đó các yếu tố văn hố Ấn Độ bắt đầu xâm nhập và
ngày càng mạnh mẽ vào đời sống của người Chăm Pa trên hầu hết các lĩnh vực.
Rồi trải qua thời kỳ phát triển lâu dài chịu ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh xâm
chiếm và bị thơn tính, Chăm Pa có điều kiện giao lưu và tiếp xúc với văn hoá Khơme, Đại Việt, Phù Nam, Java… Như vậy, có thể nói văn hố Chăm Pa là sự tổng
hồ các yếu tố văn hố của các nhà nước, tộc người này.Tuy nhiên, người Chăm Pa
đã biết kết hợp những yếu tố văn hố đó với yếu tố văn hoá bản địa để tạo ra những
yếu tố văn hố mới cho riêng mình.

Giao lưu với Ấn Độ và Ấn Độ giáo


Tôn giáo

Khi người Ấn Độ đến khu vực này, đi theo họ là những người Balamôn, Phật
tử…để làm sứ mệnh tâm linh là cầu mong sự đi lại bình an, sự bn bán thuận lợi
hay những võ sĩ tầng lớp Katriya có sức mạnh chuyên chở vũ khí để bảo vệ, che
chở cho chuyến đi. Khi đến đây, họ đã xây dựng các thương điếm của mình. Từ
những cơ sở này, họ đã duy trì sinh hoạt tơn giáo và tìm cách ảnh hưởng ra bên

15


ngoài với những người dân ở đây, gây ảnh hưởng đến đời sống tình cảm, tâm linh
của cư dân. Từ đó, tơn giáo của Ấn Độ bắt đầu du nhập vào Chăm Pa.
Thế kỷ VII, Ấn Độ giáo mà chủ yếu là Siva giáo đã trở thành tơn giáo chính
thống của vua chúa Chăm Pa, đã ra đời cả một thánh địa tôn giáo-khu Mỹ Sơn, đã
mọc lên nhiều đền thờ Ấn giáo và nhiều tượng thần dưới nhiều dạng khác nhau
được làm ra để thờ phụng. Dưới vương triều đầu tiên của vương quốc Chăm Pa:
Vương triều Gangaraji (cuối thế kỷ II-đầu thế kỷ IX) những tơn giáo chính của Ấn
Độ như: Phật giáo và Ấn Độ giáo đã phổ biến rộng ở khu vực phía Bắc của Chăm

Pa. Nhưng đến khoảng thế kỷ XI cả hai tôn giáo này khơng chỉ cùng tồn tại mà cịn
cùng hồ vào nhau, khơng bài xích nhau theo ý niệm của người theo tôn giáo này
hay tôn giáo kia. Tôn giáo Chăm Pa thời kỳ này gần như là Nhị giáo đồng nguyên.
Nhưng Siva giáo vẫn là chính thống của vương triều, quốc gia.
Nhìn vào hình thức thể hiện thì hiển nhiên Chăm Pa đã tiếp nhận gần như
trọn vẹn hai tôn giáo lớn ở Ấn Độ là Ấn Độ giáo và Phật giáo. Nhìn vào lịch sử
hơn chục thế kỷ tiếp nhận các tơn giáo Ấn Độ ở Chăm Pa, có thể thấy rất rõ q
trình hồ nhập các hình thức Ấn Độ vào tơn giáo, tín ngưỡng bản địa của người
Chăm. Tính Siva giáo vẫn bao trùm tồn bộ tơn giáo, vương triều hoặc quốc gia
của Chăm Pa.
Tín ngưỡng của người Chăm trước khi tôn giáo của Ấn Độ gia nhập vào cho
đến nay vẫn chưa có tư liệu rõ ràng. Trên cơ sở tài liệu của nền văn hoá Sa Huỳnh
ta có thể thấy những mộ chum điển hình và có chóp theo đồ tuỳ táng. Mang đặc
trưng của cư dân nơng nghiệp lúa nước, có lẽ người Chăm cũng như tộc người
khác có tín ngưỡng đa thần giáo. Họ thờ cúng các hiện tượng tự nhiên: Thần mưa,
thần sấm, thần sét, thần sông, thần đất, thần biển…, thờ cúng tổ tiên, tộc họ. Chính
cơ sở đó, khi văn hố Ấn Độ ảnh hưởng đến đây mang nhiều tính chất tương đồng.
Hơn nữa, văn hố tơn giáo Ấn Độ du nhập vào Chăm Pa bằng con đường hồ bình
nên đã nhanh chóng hồ đồng chung với các tín ngưỡng dân gian của người Chăm
16


Pa ở đây. Tức là, văn hoá Ấn Độ tuy vẫn giữ được tính chất nền tảng nhưng có sự
bản địa hố.
Văn hố tơn giáo Ấn Độ đã ảnh hưởng trên hầu hết các lĩnh vực như kiến trúc,
điêu khắc, chữ viết, văn học…Nhưng trong đó, những yếu tố kiến trúc, điêu khắc
trên tháp Chăm Pa đã thể hiện rõ nhất tính bản địa đó.


Ban đầu, các đền tháp có chức năng thờ Tam vị nhất thể (Trimurti,


Sava, Brahma, Visnu) theo tín ngưỡng Balamơn với một tổng thể kiến trúc gồm ba
tháp trên cùng một trục như khu tháp Hoà Lai (thế kỷ IX), Khương Mỹ (thế kỷ X).
Càng về sau, người Chăm càng suy tơn thần Siva và hình thành nên Siva giáo với
tổng thể kiến trúc thường chỉ một tháp thờ thần Siva hoặc được một bố cục gồm
tháp ở vị trí tung tâm hay trên trục trung tâm và các tháp phụ khác quy mô nhỏ hơn
như khu tháp Bánh Ít (Bình Định thế kỷ XII), khu tháp Po Kloong Gia rai ( thế kỷ
XIII-XIV), khu tháp Ponagar. Sức mạnh văn hoá bản địa của văn hoá Chăm Pa và
sự suy tôn thần Siva được thể hiện qua kiến trúc được mơ phỏng bằng hình tượng
Linga-Yoni. Người Chăm đã tạc những mẫu tượng Linga-Siva hoặc kết hợp thần
Siva và vợ là Uma để hình thành ngẫu tượng Siva-Uma vừa có râu, vừa có vú…
Ngồi ra, trong tín ngưỡng Chăm Pa xuất hiện một hình thức mới-tín ngưỡng
thần-vua, và các đền tháp ngồi chức năng thờ thần cịn có chức năng thờ vua
Chăm Pa như tháp Po Kloong Gia rai hay tháp Po Ro me.


Tính bản địa cịn thể hiện trong điêu khắc thơng qua hình ảnh các

Apsara Chăm ln thể hiện chân thực, gần gũi với tính nhân chủng. Và hình ảnh
người phụ nữ Chăm tươi tắn, tràn đầy sức sống nhưng cũng thầm kín và quyến rũ.
Apsara Chăm không giống với các Apsara Khơme với vẻ nghiêm trang đế gầy
guộc giữa rừng núi, cỏ cây và thần thánh.


Trong việc xây dựng các đền tháp, người Chăm cũng có những nét

riêng. Các đền tháp Chăm Pa có quy mô không quá lớn, độ xây dựng bằng gạch và

17



vật liệu lấy từ địa phương khơng hồnh tráng, đồ sộ như các đền tháp Ấn Độ và
Khơme.
* Phật giáo
So với n Độ giáo, phật giáo được truyền vào Chămpa muộn hơn và chịu
ảnh hưởng gắn hơn nhưng cũng có dấu ấn khá rõ nét trong lịch sử văn hóa của
cư dân Chămpa. Phật giáo được đoán định vào Chămpa khoảng thế kỷ IX trong
vương triều Indrapura với kinh đô Đồng Dương. Đồng Dương được coi là “trung
tâm phật giáo Chămpa”, là tu viện quan trọng của phật giáo Đại Thừa ở Đông
Nam Á thế kỷ thứ IX- X. như vậy tồn tại ngắn và ít ảnh hưởng hơn so với n độ
giáo và Hồi giáo nhưng phật giáo cũng ghi dấu ấn trong lịch sử văn hóa của
vương quốc Chaêmpa.. Phật giáo ảnh hưởng vào Chăm pa vào khoảng thế kỷ IV
nhưng phải đến thế kỷ IX trở đi, dấu ấn của Phật giáo mới được thể hiện rõ nét trên
kiến trúc và điêu khắc. Với sự xuất hiện của một vương triều mới tơn sùng Phật
giáo ở phía Bắc Chăm Pa. Một khu kiến trúc loại mới nhất Chăm Pa là tu viện Phật
giáo Đồng Dương. Khu kiến trúc này có những đặc điểm riêng và hình thành nên
một phong cách nghệ thuật mang đậm tính chất Phật giáo.


Về điêu khắc, các hiện vật thu được ở khu phế tích Đồng Dương là các

pho tượng phật bằng đồng phát hiện năm 1978 và nhiều các pho tượng Phật và các
vị La Hán…


Các tháp, đền Chăm Pa như PoNagar ở Nha Trang, Khánh Hoà. Là một

đề thờ quan trọng bậc nhất của người Chăm trong lịch sử. Trong tháp trung tâm
của tháp này cịn có pho tượng đá thể hiện Mẹ sứ sở ngồi trên bệ cao. Sự tồn tại
của khu đền tháp này là sản phẩm đặc sắc của tính mẫu hệ trong văn hố Chăm Pa.



Điêu khắc

18


Những tác phẩm điêu khắc Chăm Pa vào buổi đầu tuy khơng nhiều và tập
trung, nhưng lại có diện phân bố rộng và thể hiện những tinh thần tôn giáo khác
nhau. Ngoài ra, chúng lại mang những nét đặc trưng rời rạc chứ khơng thống nhất.
Tuy nhiên, có thể thấy một điều rõ rang là điêu khắc Chăm Pa trước thế kỷ VII gần
gũi một cách kỳ lạ với truyền thống nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ, chỉ từ nửa
thập niên thứ 2 của thế kỷ VII (tức là dưới triều vua Prakasadharma
Vikrantavarman I) thì nền nghệ thuật điêu khắc Chăm mới bộc lộ những cá tính
riêng biệt của mình.
Điêu khắc Chăm Pa có lúc hướng tới cái đẹp cổ điển của nghệ thuật Ấn Độ
nhưng xu thế chung của nền điêu khắc này là bứt khỏi khiếu thẩm mỹ tả thực cổ
điển của Ấn Độ. Do vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử, nền nghệ thuật cổ Chăm Pa
luôn chịu tác động rất mạnh của những ảnh hưởng từ bên ngồi tới. Chính những
tác động từ bên ngoài vào đã trở thành những động lực quan trọng để tạo ra những
nấc thang lớn trong lịch sử điêu khắc Chăm pa: Ảnh hưởng của Ấn Độ ở giai đoạn
trước thế kỷ thứ VII; Ảnh hưởng của Chân Lạp trong phong cách Mỹ Sơn E1; Ảnh
hưởng của Java trong phong cách Trà Kiệu; Ảnh hưởng của nghệ thuật Ăngko
trong phong cách Tháp Mắm…hầu như mỗi khi một ảnh hưởng nào đó từ bên
ngồi tác động mạnh vào là ở Chăm Pa lại xuất hiện một phong cách đieu khắc
mới. Thế nhưng, các chuẩn mực từ bên ngoài vào đều bị phá vỡ rất nhanh hoặc bị
nhập chung vào các truyền thống điêu khắc riêng của Chăm. Đặc trưng lớn nhất và
chung nhất cho điêu khắc cổ Chăm Pa là là xu thế hướng tới tượng tròn của hầu
như tất cả những hình chạm khắc dưới dạng phù điêu. Có thể chính vì điều này
khiến cho điêu khắc Chăm Pa không rạo rực, sôi động như phù điêu Khơme vốn có

thể nói là rất nơng và dùng nét là chính; không sinh động và hiện thực như phù
điêu của nghệ thuật nổi Java. Điêu khắc Chăm Pa mang tính của nền nghệ thuật ấn
tượng nhiều hơn là tả thực. Tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm lớn thứ hai tạo
nên vể đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.
19


Các kiến trúc được xếp vào phong cách Đông Dương là những đền tháp được
xây dựng vào cuối thế kỷ IX và một số kiến trúc ở Mỹ Sơn với các ký hiệu A10,
B4, C7…Phong cách Đông Dương chủ yếu là các kiến trúc mang tính Phật giáo,
các bảo tháp…Ngồi ra cũng còn một số đền tháp thờ cá thần Ấn Giáo. Đây là thời
kỳ Phật giáo chiếm ưu thế nhưng khơng loại trừ hồn tồn Balamơn giáo và các
tơn giáo khác. Cái đẹp của phong cách Đơng Dương chính là sự cực đoan thái quá
trên nẻo đường tìm về với bản sắc văn hoá dân tộc Chăm và sự loại bỏ dần những
ảnh huởng của Ấn Độ cũng như nhiều yếu tố bên ngoài khác tác động vào.
 Chữ viết
Người Chăm Pa sử dụng chữ viết từ rất sớm. Theo một tài liệu: Năm 340, vua
Phạm Văn đưa đồ cống sang nhà Tấn và kèm theo một bức thư viết bằng chữ
Mandi đến chữ Hồ Mandi đến dạng chữ Phạn cổ. Trên bia Võ Cạnh (Nha Trang)
đã được tìm thấy là khắc chữ này (chữ Ấn Độ cũ). Chữ Phạn trở thành một phương
tiện ghi chép chính thống trong suốt thời gian tồn tại của vương quốc Chăm Pa.
Trên cơ sở chữ Phạn, người Chăm Pa đã sáng tạo ra chữ viết của riêng của mình.
Chữ viết Chăm Pa gồm có 16 nguyên âm, 31 phụ âm, 32 dấu âm sắc đến chữ Phạn
cổ. Bia khắc chữ Chăm Pa cổ đầu tiên ghi bằng chữ địa phương của Đông Nam Á.
Xuất hiện lần đầu tiên tên văn minh Đông Yên Châu thế kỷ IV.
Cũng như nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á, người Chăm Pa đã
sớm tiếp thu hệ thống văn tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của chính mình.
Chăm pa là quốc gia có chữ viết sớm nhất ở Đơng Nam Á. Do chịu ảnh hưởng sâu
sắc của văng hoá Ấn Độ nên vua chúa Chăm Pa thường dùng chữ Phạn để bày tỏ ý
tưởng riêng của mình (tiếp thu từ những thế kỷ đầu sau cơng ngun) chữ Chăm có

65 ký hiệu, tong đó có 41 chữ cái (6 nguyên âm và 35 phụ âm) và 24 chân chữ bắt
nguồn tùe hệ thống chữ thảo của Ấn Độ. Người Chăm đã dùng một số kiểu chữ Ấn
Độ để viết thành chữ của mình:
-

Chữ Akhar Klanmưng (chữ con nhện)
20


-

Kiểu Akhar ator (chữ treo)

-

Kiểu Akhar thrah (chữ thảo) đây là loại chữ phổ biến hơn cả

Hiện nay, chữ thảo là loại chữ mà cho đến nay người Chăm vẫn cịn sử dụng.
 Văn học
Cũng như nền văn hố Việt Nam, văn học Chăm Pa bao gồm văn học truyền
khẩu và văn học thành văn. Đó là ca dao, tục ngữ, sử thi Chăm, truyện cổ Chăm,
trường ca trữ tình Chăm, trường ca thế sự Chăm, gia huấn và triết lý Chăm,
Dammưy, những bài ca cúng tế, ma thuật…
-

Sử thi-trường ca tôn giáo mang đậm triết lý Balamôn và Hồi giáo

-

Thơ triết lý Chăm


-

Những câu truyện tình ngang trái, bi thảm bởi tôn giáo Balamôn vfa

Hồi giáo.
Các tác phẩm văn học viết ra đời từ khi hình thành chữ viết Chăm nhằm ca
ngợi con người và đất nước Chăm Pa, ca ngợi công đức các vị vua, các bậc đế
vương, các chiến công quân sự.
 Âm nhạc và múa
Đối với người Chăm âm nhạc có vai trị quan trọng, nhất là đối với lễ nghi và
lẽ hội mang tính tơn giáo. Ảnh hưởng âm nhạc và múa Ấn Độ có tác động một
cách mạnh mẽ đến vương quốc Chăm Pa.
Hầu như các nhạc cụ có mặt trên các hình chạm khắc của Chăm Pa đều là
những nhạc cụ truyền thống của Ấn Độ: đàn vina, trống mriđang,trống mađđlam,
chela…
Ảnh hưởng của Ấn Độ đối với vũ đạo Chăm Pa không chỉ ở tư thế, động tác
và vũ điệu mà còn cả về quan điểm thẩm mỹ về cái đẹp của cơ thể con người.
Cũng như Ấn Độ trong khi múa, các vũ nữ Chăm Pa bao giờ cũng phô diễn vẻ đẹp
kiều diễm của cơ thể. Hầu như các vũ nữ Chăm pa đều để mình trần khi múa.

21


Những đồ trang sức, những tà áo mỏng trong suốt chỉ có vai trị phụ trợ cho động
tác múa.
Có thể nghệ thuật Ấn Độ mang tính nhà nghề cao nên hiện nay trong nghệ
thuật múa hiện đại của người Chăm, chúng ta rất ít thấy những ảnh xạ của truyền
thống Ấn Độ. Thế nhưng, dịp tổ chức múa vào những dịp cúng tế các thần trên
tháp, tính chức năng và biểu tượng của những điệu múa…có thể là những gì còn

lại của truyền thống Ấn Độ xưa trong nghệ thuật múa hiện đại của người Chăm.
Có thể nói nghệ thuật múa của người Chăm hiện nay là một trong những loại
hình văn hố nghệ thuật thuộc vào loại đặc sắc nhất của nước Việt Nam. Loại hình
này rất thu hút được sự chú ý của khách trong nước lẫn nước ngồi. Khơng chỉ
chúng tiếp thu loại hình nghệ thuật này từ Ấn Độ sang mà ngồi ra chúng cịn được
sự sáng tạo, hoà trộn của những người Chăm Việt, biến chúng thành cái riêng của
mình. Đây là loại hình nghệ thuật cần phải được phát huy trong thời gian sắp tới.

Giao lưu với Khơme
Có thể thấy nhiều đền tháp Chăm Pa có yếu tố nghệ thuật ảnh hưởng từ nghệ
thuật Khơme, ở cả hai giai đoạn: tiền Ăng co và Ăng co. Thậm chí, ngày ngày nay
cũng có nhiều ngơi đền tháp Chăm Pa với các tên gọi như “Tháp Khơme”, “Tháp
Chăm phong cách tiền Khơme. Những ảnh hưởng của Khơme thể hiện sâu đậm
qua những kiến trúc ở Bình Định (Tháp đôi Hùng Thạch và tháp Dương Long-đều
xây dựng từ vật liệu bằng đá, gạch).
Hình tượng rắn Naga đây là loại rắn tượng trưng cho thần Siva- bao hàm ý
nghĩa huỷ diệt và tái sinh. Do hoàn cảnh lịch sử vào khoảng thế kỷ XII, XIII đã sảy
ra nhiều cuộc chiến tranh giữa Chăm Pa với vương quốc Ăngkor của người Khơme
và người Chăm Pa từng bị Ăngkor xâm chiếm. Người Khơme vốn có tính bản địa

22


thờ rắn nên có lẽ hình tượng này vốn đã hiện diện trong văn hoá Khơme trước khi
chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ.
Ở Chăm Pa, tháp Dương Long là đền tháp chịu ảnh hưởng của văn hoá
Khơme rõ rệt nhất. Rắn Nagar được chạm khắc chi li, cầu kỳ, đa dạng, trang trí khá
đậm đặc từ xung quanh chân lên đến cửa giả, cửa chính các ơ khám và viền xung
quanh các tầng mái được thể hiện bằng nhiều kích cỡ, bố cục khác nhau. Có rắn 5
đầu, rắn 3 đầu, rắn 1 đầu…Hàng ngàn đá chạm thu được ở tháp Dương Long. Có

thể nói rắn Nagar tháp Dương Long là một hiện tượng đặc biệt trong điêu khắc cổ
Chăm Pa, nói lên q trình giao lưu, tiếp biến văn hoá giữa người Chăm, người Ấn
Độ và người Khơme.

Sự ảnh hưởng văn hóa Hồi Giáo
Hồi giáo được du nhập vào Chăm pa qua những con đường giao lưu quốc tế
vì Đơng Nam Á là nơi hội tụ của nhiều nền văn hoá khác nhau, tạo cho cư dân ở
đây một truyền thống dung hồ các nền văn hố trong đó tơn giáo (hồi giáo) được
thể hiện rất rõ nét. Thoạt đầu, Hồi giáo đến với người Chăm bằng sự hiện diện của
một cộng đồng Hồi giáo gốc Trung Đông ngay trên đất Chăm Pa. Nhưng người
Chăm đã chắc chắn không chỉ tiếp xúc với Hồi giáo ngay tại quê hương của họ qua
những thương nhân Hồi giáo. Bởi vì cộng đồng Hồi giáo người nước ngồi do
những điều kiện không thuận lợi ở Cham Pa lúc bấy giờ đã khuếch trương công
việc làm ăn lúc bấy giờ của mình một cách mạnh mẽ và vững chắc. Đó cũng là lý
do mà họ không truyền bá đức tin Hồi giáo một cách tích cực được. Trong những
thế kỷ từ XII-XVI, người Chăm đã có hoạt động hàng hải khá phát triển.Chính
bằng những con đường hang hải họ đã tiếp xúc với Indônesia, Malaisia, Malcca…
mà từ thế kỷ thứ XII, ở những nơi này, Hồi giáo đã giữ vai trò ưu thế. Đây có lẽ là
con đường chủ yếu để người Chăm tiếp nhận Hồi giáo. Đến giữa thế kỷ XVII,
Chăm Pa đã được Hồi giáo hoá, đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn của người Chăm
23


Pa. Balamôn giáo gày càng suy giảm và một bộ phận dân chúng đã tin vào đức tin
mà thiên sứ Mohamet đã truyền giảng. Đạo Bani là một biến thái địa phương của
Hồi giáo ở người Chăm tại Việt Nam (đặc biệt là người Chăm ở vùng Thuận Hải).
Tín đồ đạo Bani tạo thành một cộng đồng Hồi giáo địa phương của người Chăm tại
Việt Nam và chỉ tập trung ở vùng Thuận Hải, có sinh hoạt tơn giáo độc lập với
cộng đồng Islam của người Chăm ở Nam Bộ cũng như cộng đồng Hồi giáo thế
giới. Họ tuân thủ giáo lý Hồi giáo theo một cách riêng, trong đó hồn tồn có

những điểm xa lạ với Hồi giáo chính thống.
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thì Hồi Giáo
đã tồn tại ở Chămpa dưới thời nhà Tống tư thế kỉ X và đến giữa thế kỉ XVII,
Chămpa đã được Hồi Giáo hóa. Chính những hoạt động buôn bán của các
thương nhân Hồi Giáo ở vương quốc Chămpa mà vương quốc này lại được tiếp
cận với một nền văn hóa mới.
Khi du nhập vào Chămpa, do hai con đường truyền bá khác nhau mà Hồi
Giáo được chia thành hai bộ phận. Người Chămpa theo đạo Hồi ở Ninh Thuận,
Bình Thuận ngày nay gọi là Chăm Bàni ( Hồi Giáo cũ), còn những người
Chămpa theo đạo Hồi ở Nam Bộ gọi là Chăm Islam ( Hồi Giáo mới). Hai bô
phận này thực hiện giáo luật rất khác nhau và sinh hoạt tôn giáo cũng khác
nhau.
Trong khi cộng đồng Hồi Giáo của người dân Chăm Islam ở Nam Bộ có
được tính chính thống hơn, họ vẫn thực hiện giáo luật và sinh hoạt tôn giáo một
cách nghiêm túc của một tín đồ Hồi giáo. Họ theo chế đôï phụ hệ và Hồi Giáo
chi phối sâu sắc mọi mặt trong đời sống kinh tế, văn hóa xã hội … của họ.
Khác với Chăm Islam ở Nam bộ, Chăm Bàni ở Ninh Thuận, Bình Thuận
là một thứ Hồi Giáo biến thể, khi du nhập vào đã được người dân Chămpa hóa
rất nhiều. Tuy cũng có thánh đường, có tháng ăn chay, có Tết riêng, kiêng ăn
thịt heo, chết thì chôn chứ không thiêu… nhưng họ lại tuân thủ tất nghiêm ngặt
luật lệ của cư dân mẫu hệ điều này là trái với luật Hồi giáo chính thống và đưa

24


cả tôn giáo khác hòa quyện vào Hồi Giáo tạo ra tính phi Hồi Giáo rất riêng của
cộng đồng theo đạo Hồi ở Chămpa so với cộng đồng Hồi giáo trên thế giới.
Ngôi thánh đường ( thangmưgik) của Chăm Bàni ngoài chức năng tôn
giáo còn là nơi hội họp của các tu só và các nhân só để bàn bạc những việc hệ
trọng của Palay ( làng).

Khác với cộng đồng Hồi Giáo trên thế giới Chăm Bàni quan niệm việc
thực hiện giáo luật Hồi Giáo là bổn phận của tầng lớp tu só còn tín đồ không
được bình đẳng trong việc học, đọc kinh Coran. Do đó đã tạo ra tầng lớp tu só
chuyên nghiệp trong cộng đồng Chăm Bàni.
Chăm Bàni, không chỉ có một đấng Ala duy nhất mà còn có thần mưa,
thần núi, thần biển trong văn hóa bản địa với sự duy trì một hệ thống tín ngưỡng
dân gian có sự đan xen của Balamon giáo trong các lễ hội. Trong các nghi lễ
nông nghiệp ngoài các tu só còn có các thầy char tham gia.
So với các tập tục Hồi Giáo trên thế giới, Chăm Bàni có sự khác biệt
nhất định. Trước nhất là lễ “ cắt bao quy đầu” (kho tan) được người Chăm Bàni
đổi thành lễ “ Kathar” cho các thiếu niên nam 15 tuổi và lễ “karơh” cho các
thiếu nữ ở tuổi dậy thì. Nếu lễ “cắt ra quy đầu” cho nam thiếu niên được coi là
phong tục quan trọng trong xã hội Hồi Giáo chính thống thì lễ “ Kathar” của
Chăm Bà Ni chỉ mang tính tượng trưng còn lễ “ karơh” mới là quan trọng trọng
xã hội theo chế độ mẫu hệ.
Trong lễ cưới, nếu ở hồi giáo chính thống người đàn ông có vị trí độc tôn
thì ở Chăm Bàni người con gái lại chủ động trong cưới xin là người quyết định
mọi công việc hệ trọng trong gia đình.
Trong tang lễ, ngoài các nghi lễ thực hiện đơn giãn của tập tục hồi giáo
còn thể hiện ở đó khá rõ nét tián ngưỡng dân gian (làm phép mở đường xuống
âm phủ, hình thức gửi lễ vật nhờ người chết mang hộ xuống âm phủ cho người
thân).
Có thể nói rằng tuy Hồi giáo đã ảnh hưởng rất đậm nét trong văn hóa
Chămpa và người Chămpa vẫn tự gọi mình là tín đồ Hồi giáo. Nhưng chính

25


×