Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận PHÚC LỢI XÃ HỘI NHẰM ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG CHO MỌI NGƯỜI DÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.08 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
…… ……
TIỂU LUẬN MÔN HỌC: PHÂN PHỐI THU NHẬP TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ Ở VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ:
PHÚC LỢI XÃ HỘI NHẰM ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG CHO MỌI NGƯỜI
DÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
GVHD: NHÓM 2:
PHẠM THÁI ANH THƯ 1. LÊ THỊ PHƯƠNG
2. LÂM THÁI BẢO NGÂN
3. TRẦN THỊ NGUYỆT
4. NGUYỄN THỊ P.NHUNG
5. NGUYỄN THỊ HUYÊN
6. NGUYỄN THỊ HỒNG LAM
7. LƯƠNG HỒNG LOAN
8. NGUYỄN KIẾM HÙNG
9. HÀ VĂN NHẤN
10. NGUYỄN HÒA
11. NGUYỄN VĂN MẪN
1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.1. Khái niệm phúc lợi xã hội và công bằng xã hội
Phúc lợi xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân của xã hội được sử dụng nhằm
thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội, chủ
yếu mang tính bao cấp và được phân phối ngoài thu nhập theo lao động.
Phúc lợi xã hội bao gồm những chi phí xã hội chủ yếu sau: trả tiền hưu trí, các loại
trợ cấp bảo hiểm xã hội, học bổng cho học sinh, những chi phí cho học tập không
mất tiền, những dịch vụ y tế, nghỉ ngơi, an dưỡng, nhà trẻ, mẫu giáo,… các khu vui
chơi, giải trí công cộng không thu tiền (hoặc thu ít), các công trình công cộng phục
vụ chung cho mọi người… Tùy theo mức độ phát triển của các mặt kinh tế - xã


hội, quỹ phúc lợi thường có ba nhóm cơ bản: quỹ tập trung của Nhà nước quản lý;
quỹ phúc lợi của các xí nghiệp, đơn vị kinh doanh và quỹ phúc lợi tập thể của các
hợp tác xã, các đơn vị sản xuất. Các quỹ hoạt động dưới hai hình thức: hình thức
trả bằng tiền như: tiền lương, tiền hưu trí, các khoản trợ cấp, tiền nghỉ phép, tiền
học bổng,… và các hình thức ưu đãi thông qua các dịch vụ không mất tiền hoặc chỉ
phải trả một phần nào đó như: giáo dục, y tế,… nhằm thỏa mãn những nhu cầu
thiết yếu của nhân dân, đặc biệt là đối với những người có công đối với đất nước,
những người nghèo, vùng nghèo, những đối tượng yếu thế, gặp rủi ro.
Công bằng xã hội là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà chúng ta đang phấn
đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một nước Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh".

I.2. Vai trò của phúc lợi xã hôi
- Góp phần nâng cao thêm mức sống của toàn dân, nhất là đối với những người có
thu nhập thấp, đời sống khó khăn,rút ngắn sự chênh lệch về thu nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng, góp phần thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
- Phát huy tính tích cực lao động của các thành viên trong tập thể và trong xã hội.
- Góp phần phát triển con người.
- Giáo dục ý thức cộng đồng
II. THỰC HIỆN PHÚC LỢI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
II.1. Tình hình thực hiện phúc lợi xã hội ở nước ta hiện nay
2
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế với bảo
đảm công bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng
trưởng, phát triển kinh tế. Người nói: "Trong công tác lưu thông phân phối, có hai
điều quan trọng phải luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ
nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên". Vấn đề này cũng được Đảng ta đặc biệt quan
tâm. Văn kiện Đại hội VII của Đảng (năm 1991) xác định: "Kết hợp hài hòa giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã

hội ". Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nêu rõ: "Tăng trưởng kinh tế
gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng (năm 2001)
khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội
trong từng bước phát triển". Văn kiện Đại hội X của Đảng (năm 2006) nhấn mạnh:
"Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội". Đại hội XI của Đảng tiếp
tục khẳng định quan điểm nhất quán: "Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách
phát triển". Như vậy, tư tưởng tăng trưởng, phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm
công bằng xã hội, an sinh xã hội được thể hiện rõ ngay trong từng bước hoàn chỉnh
đường lối chiến lược của Đảng và từng chính sách phát triển của Nhà nước.
Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường vào cuối thập niên 1980, bên cạnh quá
trình cải tổ cơ chế quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế, diện mạo của hệ
thống phúc lợi xã hội ở Việt Nam cũng đã thay đổi gần như toàn diện. Hệ thống
phúc lợi xã hội của thời quan liêu bao cấp đã bị giải thể, nhưng một hệ thống phúc
lợi xã hội mới vẫn chưa được xác lập một cách rõ ràng, vững chắc, và vẫn còn đang
chất chứa nhiều tình trạng mâu thuẫn và bất ổn ở nhiều mặt.
Cho đến nay, ngoài những chương trình trợ giúp xã hội và xóa đói giảm nghèo đối
với một số đối tượng mục tiêu, nhà nước đã và đang tiếp tục từng bước cắt bỏ hoặc
giảm bớt một số khoản phúc lợi xã hội cơ bản vốn bao cấp hoàn toàn trước đây đối
với đại đa số nhân dân, như nhà ở (đã bãi bỏ hoàn toàn sự bao cấp), giáo dục (học
phí và các khoản thu ngày càng tăng), và y tế (thiết lập chế độ viện phí cũng theo
hướng ngày càng tăng). Cuộc sống của khá đông các hộ gia đình người dân vì thế
không thể không bị ảnh hưởng.
Trong thời bao cấp, các lĩnh vực giáo dục và y tế đều được nhà nước đảm nhiệm
chủ yếu về mặt tài chính, người dân hầu như không phải đóng góp khoản nào.
Riêng về nhà ở thì nhà nước có chính sách phân phối nhà ở cho những người lao
động thuộc khu vực nhà nước.
Khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế-xã hội, các chính sách trên lần lượt được

thay đổi một cách căn bản theo hướng "xóa bao cấp" và từng bước áp dụng nguyên
tắc hạch toán kinh tế.
3
Bên cạnh lĩnh vực nhà ở là lĩnh vực đã xóa bỏ bao cấp hoàn toàn, thì trong hai lĩnh
vực giáo dục và y tế, khi thực hiện chế độ đóng phí và áp dụng nguyên tắc lấy thu
bù chi, những sự thay đổi này thực chất bao hàm một ý tưởng rõ rệt không thể phủ
nhận là chuyển các dịch vụ phúc lợi cơ bản này thành hàng hóa. Mặc dù ngân sách
nhà nước hàng năm vẫn dành một khoản không nhỏ cho giáo dục và y tế, nghĩa là
vẫn tiếp tục bao cấp hai lĩnh vực phúc lợi trọng yếu này, nhưng đồng thời lại chủ
trương tăng phí từng bước, tức là gia tăng mức đóng góp từ phía người dân. Ngoại
trừ những người có thẻ bảo hiểm y tế, còn lại những người dân khác đều phải trả
tiền thì mới được hưởng dịch vụ y tế. Như vậy, trong thực tế, để được hưởng những
lợi ích phúc lợi này, người dân buộc phải trả tiền thì mới thực hiện được quyền học
tập và quyền được chăm sóc sức khỏe.
II.2. Thành tựu thực hiện phúc lợi xã hội.
Đặt trọng tâm vào công tác xoá đói, giảm nghèo, cùng với việc đẩy mạnh phát triển
kinh tế, xã hội để nâng cao mức sống chung của nhân dân, Đảng và Nhà nước đã
ban hành và tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, chương trình, dự án và
huy động nguồn lực của toàn xã hội để trợ giúp người nghèo, vùng nghèo vượt qua
khó khăn, vươn lên thoát nghèo. Các chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo
được triển khai đồng bộ trên cả 3 phương diện: (1) Giúp người nghèo tăng khả năng
tiếp cận các dịch vụ công cộng, nhất là về y tế, giáo dục, dạy nghề, trợ giúp pháp lý,
nhà ở, nước sinh hoạt; (2) Hỗ trợ phát triển sản xuất thông qua các chính sách về
bảo đảm đất sản xuất, tín dụng ưu đãi, khuyến nông - lâm - ngư, phát triển ngành
nghề; (3) Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Đến nay công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật, được
nhân dân đồng tình, quốc tế đánh giá cao: số hộ nghèo giảm từ 29% (năm 2002)
xuống còn khoảng 10% (năm 2010); chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông
thôn giảm từ 2,3 lần (năm 1999) xuống còn 2 lần (năm 2008). Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Đã tập trung chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm với
nhiều chính sách trợ giúp thiết thực, hàng năm giải quyết được hơn 1,6 triệu việc
làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị từ 6,42%
(năm 2000) xuống còn khoảng 4,6% (năm 2010), tăng thời gian sử dụng lao động ở
nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Thu nhập thực tế
bình quân đầu người 10 năm qua tăng khoảng 2,3 lần.
Hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế được quan tâm phát triển với nội dung
4
và hình thức ngày càng phong phú, nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp thiết thực cho
những người tham gia. Bảo hiểm xã hội được triển khai đồng bộ với 3 loại hình là:
bảo hiểm bắt buộc, bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Số người tham gia
bảo hiểm bắt buộc tăng nhanh, từ 4,8 triệu (năm 2001) lên 9,4 triệu (năm 2009),
chiếm 18% tổng số lao động. Sau gần 3 năm triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện,
đến năm 2010 có khoảng 96,6 nghìn người tham gia. Dự kiến đến hết năm 2010 có
khoảng 5,8 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm y tế tăng nhanh từ
13,4% dân số (năm 2000) lên khoảng 62% (năm 2010). Đặc biệt, đã thực hiện chính
sách bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em đến 6 tuổi, một số đối tượng chính sách,
người nghèo và hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các hộ cận nghèo,
Các chính sách ưu đãi đối với người có công không ngừng được hoàn thiện. Mức
trợ cấp ưu đãi năm 2009 tăng 2,1 lần so với năm 2006. Năm 2010 ngân sách trung
ương đã dành gần 19.000 tỷ đồng để thực hiện chính sách ưu đãi thường xuyên cho
hơn 1,4 triệu người có công. Đến nay, hơn 90% gia đình người có công có mức
sống bằng hoặc cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.
Các chính sách trợ giúp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất được thực hiện rộng
hơn về quy mô, đối tượng thụ hưởng với mức trợ giúp ngày càng tăng. Kinh phí trợ
giúp thường xuyên từ ngân sách nhà nước và số người được thụ hưởng tăng nhanh,
từ 113 tỷ đồng cho hơn 180 nghìn người (năm 2001) tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn
1,6 triệu người (năm 2010). Hàng năm Nhà nước còn trợ cấp đột xuất hàng nghìn tỷ
đồng (riêng năm 2009 là 5.000 tỷ đồng) và hàng chục nghìn tấn lương thực, chủ yếu
là để trợ giúp khắc phục thiên tai. Từ đầu năm 2008, Chính phủ đã có nhiều chính

sách và giải pháp kịp thời, thiết thực nhằm hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến sản xuất và đời sống
của nhân dân.
Hệ thống các dịch vụ xã hội trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giáo
dục và đào tạo, văn hoá, thông tin, cung cấp điện, nước sinh hoạt, bảo đảm điều
kiện đi lại… đã được quan tâm phát triển, nhất là ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng
xa, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chất lượng các
dịch vụ nhiều mặt được cải thiện và khả năng tiếp cận của nhân dân ngày càng được
nâng cao. Đến nay 100% số xã, phường đã có trạm y tế, trong đó khoảng 75% số xã
có bác sỹ; cả nước hiện có khoảng 23 triệu người đang theo học ở các cấp bậc học,
5
đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; 82,5% số hộ nông thôn
đã được sử dụng nước hợp vệ sinh; 96,1% số hộ đã được sử dụng điện lưới; 86,9%
số hộ sử dụng máy thu hình; trên 97% số xã đã có đường ô tô đi tới trung tâm xã;
khoảng 90% số xã có trạm bưu điện văn hoá…
Các phong trào “tương thân tương ái”, “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”
do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, các đơn vị và cá nhân chủ
động thực hiện và hưởng ứng tham gia đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, đóng góp đáng kể vào việc nâng cao an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho mọi
người, nhất là những người nghèo, vùng nghèo.
II.3. Hạn chế
Xét dưới góc độ quyền lợi xã hội của người dân, hạn chế lớn nhất của hệ thống
phúc lợi hiện nay là không mang tính chất phổ quát. Nhiều tầng lớp xã hội chưa
được tham gia vào hệ thống này, trong đó phần lớn là những tầng lớp có thu nhập
thấp và cuộc sống bấp bênh.
Hạn chế thứ hai là một số thành tố quan trọng của hệ thống này như giáo dục và y
tế, thay vì cần vươn tới nguyên tắc phổ quát để đáp ứng nhu cầu mọi người dân một
cách công bằng, thì trong thực tế hiện nay lại có xu hướng ngày càng bị chệch
hướng , như áp dụng chế độ thu phí ngay trong trường công, đóng học phí cao thì

mới được hưởng điều kiện học tập tốt hơn, đóng viện phí càng nhiều thì càng được
chữa trị và chăm sóc chu đáo hơn nói tóm lại là ngày càng đi theo lô-gic kinh tế tư
nhân hóa ngay trong những đơn vị cung ứng dịch vụ phúc lợi công lập.
Hạn chế lớn thứ ba của hệ thống phúc lợi này là chưa xây dựng được một khuôn
khổ định chế tài chính hay tín dụng thích hợp nhằm làm sao cho người dân giải
quyết được nhu cầu nhà ở.
Lẽ tất nhiên, một hệ thống phúc lợi xã hội tự nó không thể giải quyết được vấn đề
bất bình đẳng trong xã hội, nhưng hệ thống phúc lợi vẫn là một thành tố không thể
thiếu trong một hệ thống chính sách kinh tế-xã hội quốc gia nhằm giúp cho người
dân có được một cuộc sống tử tế, xứng đáng với phẩm giá con người.
Có thể nói rằng quá trình chuyển đổi của các chính sách phúc lợi xã hội diễn ra một
cách dò dẫm và thực sự chưa phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với
phát triển xã hội và văn hóa, và chủ trương tăng trưởng kinh tế không tách rời khỏi
mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tế cho thấy đang nảy sinh không ít vấn
đề bức xúc và gai góc trong lĩnh vực này.
II.4. Giải pháp để thực hiện phúc lợi xã hội nhằm đảm bảo công bằng
6
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, việc mở rộng và nâng cao
phúc lợi xã hội là điều kiện quan trọng để đáp ứng và làm thỏa mãn ngày càng
nhiều hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Các quỹ
phúc lợi xã hội là phương tiện cần thiết để điều chỉnh việc phân phối thu nhập xã
hội, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp và nhóm xã hội, khắc
phục dần những khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay. Việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế tham
gia đòi hỏi phải thực hiện những quan điểm mới, những chính sách và giải pháp
mới về phúc lợi xã hội. Trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, Nhà nước không
thể bao cấp tràn lan, bình quân những chi phí cho phúc lợi xã hội mà cần phải tập
trung cho những vấn đề cơ bản và thiết yếu nhất trong đời sống của nhân dân lao
động, cho những vùng, những đối tượng còn nhiều khó khăn nhất, đồng thời bảo

đảm sự công bằng và hợp lý giữa các thành phần kinh tế, giữa các đơn vị và các cá
nhân nhằm khuyến khích và động viên toàn thể nhân dân tham gia tích cực vào
công cuộc xây dựng xã hội mới. Phúc lợi xã hội không thể vượt quá những khả
năng và điều kiện của nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng không thể bị động, cứng
nhắc, phụ thuộc máy móc vào những kết quả của sự phát triển kinh tế. Việc không
ngừng nâng cao những phúc lợi xã hội chính là biểu hiện thực tế và sinh động bản
chất ưu việt của chế độ xã hội mới. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta khẳng định
tiếp tục phát triển và nâng cao phúc lợi xã hội, coi đó là một động lực quan trọng
của sự phát triển bền vững.
1. Đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với giải
quyết việc làm.
Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển
mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ người dân có việc
làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội tích
cực, hiệu quả, bền vững. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, một mặt phải hoàn thiện
các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản xuất
kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn; mặt khác phải tiếp
tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm gắn với thực hiện đề án
Đổi mới và phát triển dạy nghề đến năm 2020, chương trình dạy nghề cho lao động
nông thôn với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả; phát triển mạnh thị
7
trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy
nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ
đội xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài.
Phấn đấu hàng năm tuyển mới dạy nghề cho khoảng 1,8 triệu người, trong đó có 1
triệu lao động nông thôn; đến năm 2015 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống
còn 4%; năm 2020 lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55%
trong tổng lao động xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lao động, việc
làm; chú trọng xây dựng quan hệ lao động hài hoà, điều kiện và môi trường lao

động an toàn.
2. Phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm, đồng
thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia.
Trong điều kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi
khí hậu, thiên tai, dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo hiểm
và sự tham gia rộng rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng nhằm chia
sẻ rủi ro và trợ giúp người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh
tế, xã hội, môi trường. Cần khẩn trương hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ
chế, chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền
vững, với chất lượng được nâng cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh,
kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống
này được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp
lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham
gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các đối tượng chính sách và bảo trợ xã
hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các chế độ bảo hiểm xã hội phù hợp với yêu cầu của
giai đoạn mới, gắn với điều chỉnh lương hưu và lộ trình cải cách tiền lương. Xây
dựng chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện cho người lao động, trong đó có chính
sách hỗ trợ người lao động có thu nhập thấp, lao động ở nông thôn tham gia các loại
hình bảo hiểm xã hội. Thực hiện tốt chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ các chính sách về bảo hiểm y tế, viện phí và khám chữa
8
bệnh. Đặc biệt chú trọng chính sách đối với bà mẹ, trẻ em, người nghèo, người dân
ở vùng khó khăn, người lao động trong các khu vực phi chính thức. Phấn đấu thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2014.
Khẩn trương nghiên cứu, thí điểm để mở rộng các hình thức bảo hiểm khác thích
ứng với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trong đó có chính sách hỗ
trợ nông dân tham gia bảo hiểm sản xuất nông nghiệp nhằm duy trì sản xuất và bảo
đảm đời sống.
3. Thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững.

Trong thập kỷ tới, xoá đói giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết với quy mô
rộng lớn, mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong
công tác bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xoá đói
giảm nghèo nhanh và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là triển khai có hiệu quả Chương trình
quốc gia về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2020 với chuẩn nghèo mới phù
hợp với tình hình phát triển của nước ta và tiếp cận với chuẩn quốc tế. Các chính
sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát
triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự
vươn lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả
các chương trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của
người dân, cộng đồng và cơ sở.
Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự
trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo,
vùng nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện có
hiệu quả các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là chương
trình giảm nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao.
Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển kinh tế với xã hội và bảo vệ môi
trường, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội, phát triển nông thôn bền vững.
9
4. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ giúp xã
hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội.
Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người có công với nước đang hưởng chính sách
trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường
xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người
nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già chưa được hưởng chế độ hưu
trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây thiệt hại ngày càng lớn.
Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với nước và chính sách

trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm an sinh, ổn
định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.
Thấm nhuần đạo lý và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người
trồng cây”, cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách và nâng cao chế độ ưu đãi đối
với người có công, phù hợp với sự phát triển kinh tế; đồng thời hỗ trợ các gia đình
người có công phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập; vận động toàn xã
hội tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, bảo đảm cho những người có công có
mức sống cao hơn mức trung bình của dân cư cùng địa bàn.
Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng phó
có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ giúp
thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hoá, đa
dạng các kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo
dựa vào cộng đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội và
kiều bào ta ở nước ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở
rộng đối tượng và điều kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư
dễ bị tổn thương với mức trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân
khi có thu nhập dưới mức sống tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội.
Đẩy mạnh việc chủ động phòng chống và ứng phó kịp thời có hiệu quả thiên tai, tác
động của biến đổi khí hậu nhằm hạn chế thiệt hại về người và của, nhất là những
vùng thường xuyên xảy ra bão lũ; nghiên cứu hình thành các quỹ dự phòng và cơ
chế trợ giúp tại các địa phương để hỗ trợ kịp thời cho nhân dân khi có rủi ro đột
xuất.
5. Nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao phúc lợi
xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản.
10
Không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội,
trước hết là các dịch vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi
người. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và
phân phối lại một bộ phận thu nhập quốc dân, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết
yếu về vật chất và tinh thần, giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa

các thành viên, các tầng lớp dân cư, các nhóm xã hội và các vùng miền. Trong điều
kiện đất nước còn nhiều khó khăn, thực hiện tốt yêu cầu này cũng là một biểu hiện
thực tế và sinh động bản chất ưu việt của chế độ ta.
Trong thời gian tới, việc bảo đảm phúc lợi xã hội gắn với đẩy mạnh phát triển các
dịch vụ xã hội phải vừa trợ giúp mọi người dân được tiếp cận với các dịch vụ xã hội
cơ bản tối thiểu về khám chữa bệnh, học hành, nhà ở, điện, nước sinh hoạt, văn hoá,
thông tin và truyền thông, bảo đảm vệ sinh môi trường, đi lại…, vừa đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao, đa dạng của nhân dân đối với các dịch vụ này. Cần đẩy mạnh
phát triển các quỹ phúc lợi xã hội ở cả 3 cấp độ: quỹ tập trung của Nhà nước; quỹ
của các doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh; quỹ của các tập thể và cộng đồng. Phát
triển hệ thống dịch vụ ngày càng đa dạng, đồng bộ, mở rộng độ bao phủ, với chất
lượng ngày càng nâng lên. Quy định rõ công khai, minh bạch mức thụ hưởng các
phúc lợi xã hội và dịch vụ cơ bản tối thiểu của người dân; đồng thời phải khắc phục
các tiêu cực, phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân tiếp cận hệ thống
dịch vụ này; có chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng khó khăn.
Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về phát triển giáo
dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể thao, dân số, gia đình và trẻ em. Tiếp tục đẩy mạnh
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nhất là ở các vùng nghèo, đặc biệt khó
khăn; đồng thời hoàn thiện các chính sách về miễn giảm học phí, học bổng, tín dụng
ưu đãi cho người học, phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi; chính sách khám, chữa
bệnh, thụ hưởng văn hoá, thông tin, trợ giúp pháp lý; chính sách nhà ở… cho các
đối tượng chính sách, đối tượng khó khăn. Đặc biệt, phải quan tâm làm tốt hơn công
tác chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em để con em chúng ta phát triển toàn diện cả
về thể chất, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hoá, ấm no, hạnh phúc.
6. Huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt phúc lợi xã hội.
Phúc lợi xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết hữu cơ giữa quyền lợi và trách
11
nhiệm của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và toàn xã hội. Cùng với việc nâng
cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn lực của Nhà nước, phải thực hiện chủ

trương “các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá”. Phải huy
động các nguồn lực của toàn xã hội để nâng cao phúc lợi xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của mọi chủ thể
vào cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công cộng.
Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực và
tham gia thiết thực vào việc bảo đảm phúc lợi xã hội. Đẩy mạnh các cuộc vận động
xã hội như: ngày vì người nghèo, phong trào tương thân tương ái, xây dựng nhà tình
nghĩa, nhà đại đoàn kết dân tộc
Bảo đảm ngày càng tốt hơn phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu trong Chiến
lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước ta. Đây cũng là một yêu
cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Với nhận thức mới và
quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, bằng sự lãnh đạo sáng tạo của cấp uỷ đảng,
sự quản lý chỉ đạo có hiệu lực hiệu quả của chính quyền các cấp, sự tham gia sâu
rộng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn xã hội, nhất
định chúng ta sẽ thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân trong giai đoạn
chiến lược tới./.
III. KẾT LUẬN
Đối với nước ta, bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội luôn
là một chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp
của chế độ ta và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và
phát triển bền vững của đất nước. Trong nhiều thập kỷ qua, trên cơ sở phát triển
kinh tế - xã hội, cùng với việc không ngừng cải tiến chế độ tiền lương, tiền công và
nâng cao thu nhập cho người lao động, Đảng và Nhà nước rất quan tâm chăm lo đến
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân.
Bước sang giai đoạn chiến lược mới, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục coi bảo đảm an
sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nhiệm vụ chủ yếu thường xuyên. Dự thảo
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định: Tăng trưởng kinh tế
kết hợp hài hoà với tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao không ngừng chất lượng
cuộc sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở

rộng và hiệu quả. Tạo cơ hội bình đẳng hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi
xã hội.
12

×