Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

LUẬN VĂN:Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.26 KB, 23 trang )












LUẬN VĂN:

Vai trò của lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường






Lời nói đầu


Đất nước phồn vinh, đời sống của mọi thành viên trong xã hội ngày càng cải
thiện . Đòi hỏi phải có một nền công nghiệp,nông nghiệp phát triển,khoa học kỹ thuật
ngày càng phát triển.Nước ta muốn phát triển kinh tế có hiệu quả thì Đảng và Nhà
nước ta phải có tầm hiểu biết sâu rộng trong việc đưa ra các chính sách tối ưu. Các
sách phải hình thành từ sự hiểu biết một cách sâu sắc,những gì mà nó đem lại và
những gì mà nó gây ra trong hiện tại,trong tương lai gần,trong tương lai xa.Đứng trên
vĩ mô và vi mô.Do đó sự thành công khi thực hiện các chính sách kinh tế luôn là mục


tiêu cơ bản của Đảng và Nhà nước ta.
Xuất phát từ nguyên tắc trên với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.Nước ta đang
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường.Chúng ta mong mỏi cho quá trình phát triển kinh tế thành công.Vì thế,không
phải ai khác không phải một tổ chức,một quốc gia nào khác có thể giúp chúng ta mà
tự ta phải tìm ra con đường phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của nước ta của
nước ta hiện nay.Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải hiểu rõ những bản chất ,nguồn gốc
của những yếu tố bên trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là yếu tố chính quyết
định,thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.Đó chính là lợi nhuận.Vậy thế nào là
lợi nhuận?Nguồn gốc, bản chất lợi nhuận là gì?và lợi nhuận đóng vai trò như thế nào
trong nền kinh tế thị trường mà ta lại có thể xem nó là yếu tố chính yếu? Đây chính là
những vấn đề đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay.
Đây là một vấn đề có tầm quan trọng rất lớn.Qúa trình nghiên cứu nó phải xuất
phát từ các quan điểm của các nhà học thuyết trước Mac kết hợp với quan điểm của
Mac và thực tiễn hiện nay.Qúa trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được các câu hỏi luôn
đặt ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn về sự phát triển công nghiệp,nông
nghiệp,những biến đổi xã hội để thấy được quá trình phát triển của Việt Nam.
Em nhận thấy đây là một vấn đề hết sức quan trọng và mang tính thời sự .Do đó
đề án của em đề cập đến vấn đề:
“Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường”
Đề án gồm 3 chương:


- Chương I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
- Chương II : Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
- Chương III: Những giải pháp nhằm phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền
kinh tế thị trường


Chương I

Nguồn gốc - bản chất của lợi nhuận
Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta mở cửa hội nhập với nền kinh tế
thể giới, một luồng gió mới đang thổi vào nền kinh tế từ lâu đã bị nguội lạnh, do việc
duy trì một nền kinh tế đóng suốt hơn chục năm (kể từ sau ngày giải phóng).
Năm 89 đánh dấu một bước chuyển biến trong nhận thức của chúng ta về xây
dựng phát triển kinh tế, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công cuộc cải cách
đổi mới của Đảng đã thực sự đem lại sức sống mới cho nền kinh tế, cơ chế thị trường
tung ra, các thành phần kinh tế được tự do hoạt động kinh doanh. Nền kinh tế bổng
chốc trở nên sôi động bởi những cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thương trường. Những
xí nghiệp quốc doanh trước kia chỉ làm theo chỉ tiêu, lỗ lãi không cần biết thì giờ đây
phải tự hạch toán, tự chịu trách nhiệm và đã không ít những nhà máy xí nghiệp đó đã
phải phá sản bởi luôn làm ăn thua lỗ. Tuy nhiên cũng không ít các doanh nghiệp nhạy
bén trước cơ hội này và đã ăn nên làm ra. Cơ chế thị trường đã đỏi hỏi các doanh
nghiệp hoạt động sản xuất phải có lãi và càng nhiều lãi càng tốt. Tiêu chuẩn để đánh
giá hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp chính là lợi nhuận của doanh nghiệp đó.
Những doanh nghiệp nào làm ăn không có lãi thì một điều chắc chắn là nó đã đứng
bên bờ vực của sự phá sản, hiện nay đa số các doanh nghiệp đều hoạt động với phương
châm tối đa hoá lợi nhuận.
Nói tới lợi nhuận, có lẽ ai cũng biết. Nếu ta có hỏi mọi người lợi nhuận là gì thì
chắc chắn họ sẽ cho ta là người không bình thường. Tuy nhiên việc hiểu bản chất và
nguồn gốc của lợi nhuận thì sẽ có không ít những cách hiểu khác nhau về nó. Chúng ta
hãy quay trở về với lịch sử để xem các nhà kinh tế chính trị học đã quan niệm ra sao
về lợi nhuận.
I -/ Quan điểm của kinh tế chính trị học tư sản:
1-/ Mở đầu là học thuyết kinh tế của phái trọng thương, một trong những hệ
thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trong thời kỳ tan rã của
phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,


chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Hệ thống kinh tế trọng

thương đáng giá cao vai trò tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, nhà
nước càng nhiều tiền thì càng giàu, hàng hoá chỉ là phương tiện làm tăng khối lượng
tiền tệ. Họ coi tiền là tiêu chuẩn giàu có của của cải; là phương tiện lưu thông cất trữ
và phương tiện để thu lợi nhuận. Như vậy theo họ lợi nhuận chỉ ra đời cùng với sự ra
đời của tiền tệ, về điều này họ hoàn toàn đúng. Chúng ta có lẽ đã từng nghe đến câu
“Phi thương bất phú” của người xưa, trường phái trọng thương cũng là trường phái tôn
sùng quan niệm trên, sở dĩ nói như vậy bởi hầu hết các nhà kinh tế học tường phái
trọng thương đều cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi sinh
ra, nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt. Quan điểm này của tường
phái trọng thương là hoàn toàn thiếu cơ sở, bởi nó không bao quát hết các hiện tượng
kinh tế, nó chỉ phản ánh một vài hiện tượng vậy lẻ mà thôi. Chính Mac là người đã bác
bỏ quan niệm này khi phân tích mâu thuẫn chung của công thức tư bản (chúng ta sẽ
bàn tới sau). Tóm lại hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa trọng thương còn kém về tính
lý luận, chưa biết đến quy luật kinh tế, người đề xuất của họ còn thiên về tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn. Tuy nhiên họ đã tạo ra người tiền đề lý luận kinh tế xã hội cho các lý
luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm
giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, là tiền, mục đích của kinh tế thị
trường là lợi nhuận.
2-/ Học thuyết kinh tế cổ điển:
Học thuyết kinh tế cổ điển (ra đời cuối thế kỷ XVIII) với hai đại biến xuất sắc
là ADam Smith và DAVid Ricazdo.
Các ông cho rằng trong giá trị hàng hoá do người công nhân sáng tạo ra, anh ta
chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản.
Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên và sảm phẩm lao động, về mặt lượng nó là
số dôi ra ngoài tiền lương và lợi nhuận của nhà tư bản, về mặt chất nó phản ánh quan
hệ bóc lột, lợi nhuận cũng là một khoản khấu trừ vào sản phẩm của người lao động lợi
nhuận và địa tô đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công (hay giá trị
thặng dư). Lợi tức chỉ là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền
đi vay phải trả cho chủ nó để được sử dụng tư bản. Như vậy ADam Smith và David



Ricazdo là những người đầu tiên thấy được nguồn gốc của lợi nhuận là lao động không
được trả công, bản chất của lợi nhuận là quan hệ bóc lột.
3-/ Học thuyết kinh tế thời kỳ hậu cổ điển với đại biểu Jcan Baptiste say: Jcan
Baptiste say cho rằng lợi nhuận là hiệu suất đầu tư của tư bản mang lại. Nếu đầu tư tư
bản vào sản xuất sẽ làm tăng thêm sản phẩm, phù hợp với phần tăng thêm về giá trị -
từ đó máy móc tham gia vào sản xuất sẽ tham gia vào việc làm tăng thêm giá trị. Điều
đó có nghĩa cùng đầu tư nhiều thì càng mang lại nhiều lợi nhuận, lợi nhuận chính là do
tư bản đầu tư mang lại. Quan điểm này là thiếu cơ sở và hoàn toán chủ quan, nó thể
hiện sự xa rời đối với tường phái cổ điểm.
II-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mac về lợi nhuận:
1-/ Giá trị thặng dư, nguồn gốc của lợi nhuận.
Kế thừa có phê phán những quan điểm của ADam Smith và David Ricazdo,
Kanl Mdix đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết đã chỉ rõ nguồn
gốc bản chất của lợi nhuận. Khi xem sét quá trình lưu thông trong chủ nghĩa tư bản,
Mazx đã thấy rằng tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức T- H- T. ở đây ta
thấy rằng nếu số tiền thu về (T’) bằng số tiền ứng ra (T) thì quá trình vận động trên trở
nên vô nghĩa, mục đích của lưu thông tiền tệ ở đây không phải là giá trị sử dụng mà là
giá trị tăng thêm bởi vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra.
Vậy nên T’ = T + T
Trong đó T Mazx gọi là giá trị thặng dư.
Một câu hỏi lập tức được đặt ra là T ở đâu ra, phải chăng chính lưu thông đã
làm cho tiền tăng thêm và hình thành giá trị thặng dư ? về điểm này Mazx đã nêu ra 3
trường hợp:
+ Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị,
còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi thì trước sau vẫn
không thay đổi và như vậy không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng giá trị lớn
hơn hưởng giá trị đã bỏ ra.



+ Trong trường hợp trao đổi không ngang giá thì những ai có hàng hoá bán đều
bán được với giá cao nhưng khi là người mua thì lại phải mua với giá cao. Xét trong
toàn bộ xã hội thì giá trị không tăng lên, do đó trong trường hợp này cũng không tạo ra
giá trị thặng dư.
+ "Giả sử trong xã hội có một loại người “bịp bợm” chuyên mua rẻ bán đắt thì
cái mà họ được chẳng qua chỉ là của người khác mất đi mà thôi, đó là những hành
động móc túi nhau ngoài xã hội". Theo Mazx việc mua rẻ bán đắt mà giàu lên thì chỉ
là một vài trường hợp cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu của toàn bộ
giai cấp tư bản: “Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản của một nước không thể làm giàu
trên lưng giai cấp mình”
Như vậy dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì lưu thông cũng không
tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên để thực hiện một giá trị thặng dư thì giá trị thặng dư
phải ở trong lưu thông, có nghĩa là hàng hoá phải bán được thì giá trị thặng dư mới
được thực hiện.
- Công thức chung của tư bản không thể giải thích đầy đủ về sự xuất hiện của
giá trị thặng dư, bởi vậy Mazx đã đi sâu hơn vào chính trị chung của tư bản.

Nhìn vào công thức này bản chất của vấn đề đã đều bộc lộ. Đi sâu nghiên cứu
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa Mazx đã khám phá ra quy luật kinh tế cơ bản của
PT sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất ra giá trị tín dụng. Để tiến hành sản xuất nhà
tư bản phải bỏ tiền ra mua TLSX và thuê công nhân (mua hàng hoá sức lao động). Nhà
tư bản đã tìm thấy một loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là sức lao động. Đặc
điểm của loại hàng hoá này là khi tiêu dùng nó thì nó tạo ra một giá trị lớn hơn. Như
vậy giá trị sử dụng của sức lao động chính là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Quá
trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc
trưng là:
+ Người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những
yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
+ Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân.
TLSX


SLĐ

SX

H’

T’

H

T



Chính hai đặc trưng trên đã dẫn đến giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả
khi mua (giá cả sức lao động) luôn nhỏ hơn giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra.
Điều này có thể được giải thích như sau: ngày lao động của công nhân được chia thành
2 phần: Phần lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang bằng với giá
trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết, phần còn lại của ngày lao
động là thời gian lao động thặng dư. Như vậy thời gian lao động thặng dư là thời gian
lao động mà nhà tư bản không phải trả tiền cho người lao động. Trên thực tế trong quá
trình lao động người công nhân sáng tạo ra một giá trị mới là v+m trong đó.
v là giá trị sức lao động (tư bản khả biến).
m là giá trị thặng dư.
Tuy nhiên họ chỉ nhận được tiền công bằng giá trị hay giá cả sức lao động, còn
phần giá trị thặng dư là thuộc về nhà tư bản. Từ những lập luận trên ta thấy giá trị
thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân sáng tạo ra và bị
nhà tư bản chiếm không. Trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, các bộ phận khác
nhau của tư bản có tác dụng khác nhau. Có bộ phận tư bản được sử dụng trong nhiều

quá trình sản xuất. Có bộ phận được sử dụng vào sản xuất lại tiêu hao toàn bộ và
chuyển biến giá trị của nó vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Bộ phận tư bản
biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào trong sản phẩm , tức
là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được K.Mazx gọi là tư bản
bất biến và ký hiệu là c. Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra
nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức là biến đổi về
lượng được K.Mazx gọi là tư bản khả biến và ký hiệu là v. Như vậy tư bản bất biến là
điều kiện không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến có
vai trò quyết định trong quá trình đó vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên. Vậy giá
trị của hàng hoá được sản xuất bao gồm: c + v + m.
- Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư vì vậy toàn
bộ hoạt động của nhà tư bản dẫn hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư.
Những phương pháp có bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt
đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối:


+ Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện
thời gian lao động cần thiết không thay đổi gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
+ Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết
trong điều kiện đó dài ngày lao động không đối, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian
lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Muốn rút ngắn thời gian lao
động cần thiết thì phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì
phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện
bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thuộc
phạm vi tiêu dùng của công nhân, đồng thời cũng phải tăng năng suất lao động trong
các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt đó (vì khi năng suất
lao động tăng lên thì giá trị hàng hoá sẽ giảm xuống).
Trong nền kinh tế hàng hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải cố
gắng tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của
hàng hoá so với giá trị xã hội của hàng hoá. Nhà tư bản sẽ chiếm số chênh lệch giảm

giá trị xã hội và giá trị cá biệt chừng nào năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên
để số chênh lệch đó không còn nữa. Phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá
trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội được K.Mazx gọi là giá trị thặng dư siêu
nghạch. Giá trị thặng dư siêu nghạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư
bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh, nó là động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải
tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động hợp lý để tăng năng sức
lao động.
2-/ Lợi nhuận - hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.
Như chúng ta đã biết muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi phí một số
lao động nhất định: lao động quá khứ và lao động hiện tại.
- Lao động quá khứ: là giá trị của tư liệu sản xuất (c)
- Lao động hiện tại: là lao động tạo giá trị mới (v + m)
Đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì đó là chi phí thực tế để tạo thành giá trị
của hàng hoá (c + v + m). Tuy nhiên nhà tư bản chỉ ứng tư bản để sản xuất hàng hoá
tức là họ chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v).


Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản. K.Mazx gọi đó là chi phí sản
xuất tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là K (k=v + v). Chúng ta có thể thấy ngay một điều là
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá:
(c + v ) < (c + v + m)
Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn có một khoản
chênh lệch cho nên sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản
đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời ngay bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi
nhuận.
Giá trị hàng hoá = c + v + m = k + m
Giá trị hàng hoá = k + p
Vậy p và m có gì khác nhau ?
Thế nhưng chỉ khi nào hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p. Sự khác nhau giữa
m và p được thể hiện ở chỗ nếu hàng hoá bán với giá cả cao hơn giá trị thì p > m, nếu

bán với giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hoá thì p < m - nhà tư bản có thể bán hàng hoá
dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận chừng nào giá bán của hàng hoá còn cao hơn
chi phí sản xuất tư bản của nó.
Nếu xét trong toàn bộ xã hội thì giá trị thặng dư chính là lợi nhuận còn nếu xét
đến với từng nhà tư bản thì lợi nhuận lên xuống xung quanh giá trị thặng dư, số không
thống nhất với giá trị thặng dư. Song dù nói thế nào thì lợi nhuận vận được sinh ra từ
giá trị thặng dư nó có nguồn gốc là giá trị thặng dư.
Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan
tâm đến tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị
thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước và ký hiệu là p’
p’ nói lên mức lên của việc đầu tư tư bản, tỷ suất lợi nhuận tăng lên khi m tăng
hoặc tư bản cố định giảm xuống (tiết kiệm tư bản cố định).
Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi hơn.
Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư
bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.


Hiện nay có một định nghĩa về lợi nhuận được mọi người thừa nhận:
Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí.
P = TR - C
TR: doanh thu của một hãng (số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá
hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định)
C: Chi phí của hãng (những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc
dịch vụ trong thời kỳ đó).
Nhìn vào công thức trên ta dễ dàng thấy lợi nhuận sẽ tăng lên khi chi phí giảm
xuống, hoặc doanh thu tăng lên tuy nhiên đã là kinh tế thị trường, thì mọi vẫn đề của
doanh nghiệp đều phải gắn liền với yếu tố thị trường.
Đất nước ta hiện đang trong công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước. Vậy cơ chế thị trường là gì ? Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức

kinh tế trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua
thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Cái gì? Như thế nào
? và cho ai?.
Nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hoá, người bán và
người mua, giá cả hàng hoá. Trong cơ chế thị trường tồn tại 4 quy luật kinh tế cơ bản
sau:
(*) Quy luật giá trị: Yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở
hưởng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết (tức là chi phí khác bình
quân trong xã hội).
Với cơ chế thị trường vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được
hay không. Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với
mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được.


(*) Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng
trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển động
xích lại với nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường.
(*) Quy luật giá trị thặng dư: Yêu cầu hàng hoá bán ra phải bù đắp chi phí sản
xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động
và tái sản xuất mở rộng.
(*) Quy luật cạnh tranh: Quy định hàng hoá sản xuất ra phải ngày càng có chi
phí thấp hơn, chất lượng ngày càng tốt hơn để thu lợi nhuận cao và có khả năng cạnh
tranh với các hàng hoá khác cùng loại.
Sự tác động của 4 quy luật trên đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén nhằm
thu được lợi nhuận cao nhất.



chương II:

Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
II. Kinh tế thị trường và ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến thu lợi
nhuận.
1.Khái niệm kinh tế thị trường và cơ chế thi trường.
Thị trường là chỗ gặp nhau của cả người mua va người bán các hàng hoá và
dịch vụ.Một số trường hợp khác
“Thị trưòng là sự thể hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định
của các gia đình về tiêu dùng cac mặt hàng nào,các quyết định của các công ty về sản
xuất cái gì,sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm
bao lâu cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả”(2).
“Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của
các quy luật kinh tế vốn có của nó,cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức
kinh tế là gì,như thế nào và cho ai.Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là
cung,cầu và giá cả thị trường”(3).
2.Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Thực tế khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị
trường.Tuy nhiên có thể nêu lên một số ý kiến sau:
Ưu điểm của cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và
tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ.Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động,huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Khuyết tật cua nền kinh tế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng
trầm,khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ.Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế
hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong
thời gian dìa lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
Như vậy,cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật vốn có của nó.Do đó
,ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý,mà thường có sự can
thiệp của Nhà nước,khi đó nền kinh tế,như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
3. Tác dụng của cơ chế thị trường trong việc thu lợi nhuận.
Nhờ cơ chế thị trường giải quyết những vấn cơ bản của tổ chức kinh tế.Cần sản
xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ



quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia.Lợi nhuận lôi kéo các
doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi nhuận cao.Do đó mà đáp ứng được
nhu cầu của xã hội.
II :Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường - những lý luận của Mazx về lợi
nhuận vẫn còn nguồn giá trị, nếu gạt bỏ tính chất tư bản thì lợi nhuận mang tính chất
tích cực. Nó chính là thước đo chính xác nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của một
doanh nghiệp. Lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, từ sức lao động của con
người bởi vậy con người phải được đặt vào vị trí trung tâm để phát huy những tiềm
năng chưa được khai thác hết. Thực tế đã cho thấy chiến lược con người ngày càng trở
nên quan trọng trong mỗi tổ chức kinh tế, nhất là ngày nay khi lao động trí óc đang
khẳng định vị trí của nó. Nước Nhật sau đại chiến thế giới II bị kiệt quệ vì bại trận,
toàn bộ nền kinh tế của Nhật trở về con số 0 thế nhưng họ đã nhanh chóng vươn lên
thành một siêu cường kinh tế vì vấn đề quan tâm đầu tiên của chính phủ Nhật là nước
Nhật còn bao nhiêu nhà bác học. Nói như vậy để chúng ta thấy được tầm quan trọng
của chiến lược con người. Liên quan đến con người thì có rất nhiều vấn đề như giáo
dục đào tạo, chế độ lương bổng, đạo đức thế nhưng chúng ta chỉ quan tâm đến doanh
nghiệp bởi vậy để đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp có đội ngũ giỏi về quản lý,
thành thạo về chuyên môn. Điều này liên quan đến cơ chế tuyển dụng và chính sách
của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận, là
giá trị thặng dư bởi vậy họ mong muốn sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư bằng các
phương pháp: Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương
đối. Việc sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động chỉ
được áp dụng vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản còn hiện nay phương pháp này đã
không tồn tại nữa do sự đấu tranh của công nhân. Thế nhưng phương pháp sản xuất ra
giá trị thặng dư tương đối lại được áp dụng rộng rãi cho đến tận ngày nay bởi những
lợi ích to lớn không thể phủ nhận của nó. Như Mazx đã lý luận, muốn tăng giá trị
thặng dư bằng phương pháp này, nhà tư bản cần làm giảm giá trị sức lao động của

công nhân xuống, điều này chỉ có thể thực hiện khi năng sức lao động của toàn xã hội
tăng lên, có nghĩa là áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.


Khi một nhà tư bản quyết định cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất tức là làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá mà anh ta sản xuất trong khi
giá trị xã hội của hàng hoá đó trên thị trường vẫn không thay đổi. Số chênh lệch giữa
giá trị xã hội và giá trị cá biệt làm nên giá trị thặng dư siêu ngạch của nhà tư bản. Với
sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, những công nghệ mới ra đời lập tức
lại được áp dụng vào sản xuất công nghệ cũ lãi trở lên lạc hậu. Cứ như vậy mục đích
theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch đã làm cho nền sản xuất ngày càng phát triển, đáp
ứng được nhu cầu cao của con người.
Tóm lại lợi nhuận là động lực trực tiếp mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải
tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất, dẫn đến sản xuất xã hội ngày càng phát
triển.
- Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung - cầu hàng hoá, đó là sự khái
quát của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Người bán thì muốn
tối đa lợi nhuận còn người mua thì muốn tối đa độ thoả dụng. Muốn tăng lợi nhuận thì
phải tăng doanh thu bằng cách nâng giá bán hoặc nâng sản lượng bán ra. Do tác động
của quy luật cung cầu, việc nâng hay hạ sản lượng hoặc giá cả chỉ được giải quyết
thông qua thị trường. Nếu một loại hàng hoá nào đó có nhiều người mua thì người bán
sẽ tăng giá lên để phân phối một lượng cung hạn chế đồng thời giá lên cao sẽ thúc đẩy
người sản xuất làm ra nhiều hàng hoá hơn. Khi có nhiều hàng hoá, người bán muốn
mua nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá bán xuống. Khi hạ giá, số người
mua hàng lại tăng lên do đó người bán lại tăng giá lên. Như vậy lợi nhuận tác động
một cách gián tiếp (thông qua quy luật cung cầu) đến hành vi của nhà sản xuất và
người tiêu dùng, điều tiết một cách hợp lý giá cả, sản lượng hàng hoá trên thị trường.
- Lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tối thiểu hoá các chi phí đầu vào.
Điều này chỉ có thể thực hiện khi họ biết kết hợp những yếu tố sản xuất một cách hiệu
quả, tránh lãng phí, biết tổ chức sản xuất một cách hợp lý tránh những khâu trung

gian không cần thiết.

Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế.Nó ảnh hưởng cả đến chính trị
và xã hội và len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường .Và


trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận cũng có hai mặt của nó mặt tích cực và tiêu
cực.Vấn đề ở đây là chúng ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực như thế
nào để phát huy được vai trò của nó.
1. Lợi nhuận là động lực,mục tiêu trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tê thị trường lợi nhuận luôn được các nhà kinh tế,các tổ chức
kinh tế coi đó là động lực ,mục tiêu của mình.Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi
nhuận thu về lớn nhất.Điều này đòi hỏi tính chuyên môn cao,sự sắp xếp lại cách tổ
chức quản lý.Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để
quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong
một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý.Hạn chế bớt một số bộ
phận cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được chi phí ,đồng nghĩa với
việc tăng lợi nhuận.Ngoài ra còn cải tiến kỹ thuật ,nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán
bộ nhân viên Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế
hàng hoá .
2. Lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống xã hội.
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản đều là tất yếu khách quan
trong quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất
phát triển cao và tạo lập sự công bằng xã hội giữa các thành viên trong xã hội.Do đó
đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội.Nó
đảm bảo cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống tối thiểu mà còn có tác
dụng kích thích lao động sản xuất ,kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã
hội .
Vậy thực chất phân phối đó là cái gì ,đó chính là phân phối lợi nhuận,Vì khi có
lợi nhuận thì Nhà nước có chú ý về tiền lương,trợ cấp thất nghiệp phúc lợi xã hội,quy

định mức lương tối thiểu,cùng với đó là tăng cường củng cố quốc phòng ,an ninh giáo
dục cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện nay.
Chính vì vậy,để có được lợi nhuận cao thì yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải
nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho
sử dụng,nghiên cứu trong quân sự và giáo dục.Khi có lợi nhuận cao chúng ta sẽ có
điều kiện đầu tư để phát triển xã hội trong đó có con người.
Tóm lại vai trò của lợi nhuận đối với các mặt trong xã hội là vô cùng quan trọng.


3.Lợi nhuận tạo điều kiện cho tái sản xuất xã hội.
Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội chúng ta
cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì?
Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hoá thì phải có
nhiều vốn.Muốn có nhiều vốn thì phải tích luỹ vốn .Do vậy,tích lũy vốn gắn liền với
tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã
hội có tái sản xuất mở rộng.
Tích lũy vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của
sản phẩm thặng dư,do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm vào quá trình tái
sản xuất hay để mở rộng sản xuất.Do vậy,nguồn tích lũy vốn là giá trị của sản phẩm
thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng lực lao động
cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và thực hiện
được trong quá trình lưu thông sự tích lũy này có các chủ thể sở hữu về tư liệu sản
xuất Nhà nước hay tư nhân thực hiện gía trị thặng dư tạo thành.
Tóm lại ,vai trò của lợi nhuận đóng vai trò quyết định đối với quá trình tái sản
xuất xã hội
III : Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
1.Mặt tiêu cực của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trư
ờng.
Bên cạnh những mặt tích cực của lợi nhuận thì để thu được lợi nhuận các doanh
nghiệp không ngừng cạnh tranh với nhau trên thương trường bất kể trong nội bộ

ngành hay giữa các ngành.
Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa
vầ nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng lớn.Khi sự tích tụ tập trung sản xuất phát triển
đến một mức độ cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền.Chủ nghĩa độc
quyền càng phát triển lợi nhuận của tập đoàn độc quyền càng nhiều ,nhưng hậu quả
như lạm phát,thất nghiệp,khủng hoảng lại rơi xuống đầu giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Ngoài ra đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần
các ngành nghề truyền thống.Sự phát triển của công nghiệp cùng với những cặn bã
của nó đã đang làm ô nhiễm môi trường sống mà sự ô nhiễm môi trường đang là một
vấn đề nhức nhối cần thiết của các quốc gia.Nếu chúng ta không ngăn chặn kịp


thời,thì thế giới sẽ không còn sự sống.Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội như cờ
bạc,làm hàng giả
Tóm lại các vấn đề tiêu cực của xã hội do lợi nhuận gây ra đòi hỏi chúng ta
phải có biện pháp làm sao cho phù hợp.
2. Vai trò của nhà nước.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường rất quan trọng.Vai trò đó
được thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó thông qua đó sẽ làm giảm các vấn
đề do tiêu cực của lợi nhuận gây ra trong nền kinh tế thị trường.
Đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra
những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp
cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài
sản và sự hoạt động của thị trường,đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của
các doanh nghiệp.Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới
các hành vi kinh tế của con người và bản thân cả Chính phủ phải tuân theo.
Bên cạnh đó Nhà nước điều tiết để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát
triển ổn định.
Tóm lại thông qua vai trò hoạt động của mình Nhà nước đã khẵc phục,hạn chế

các mặt tích cực của cơ chế thị trường,phân phối thu nhập quốc dân một cách công
bằng,thực hiện tăng trưởng kinh tế,gắn với cải thiện đời sống nhân dân,với tiến bộ và
công bằng xã hội .



chương III
Những giải pháp nhằm phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị
trường
- Bất cứ một nhà kinh doanh nào khi bỏ vốn đề hoạt động sản xuất kinh doanh
đều có mục tiêu thu hồi vốn nhanh và có lãi để rồi lại tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất.
Muốn vậy họ phải đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao, hợp thị hiếu
và giá bán hạ. Những sản phẩm như vậy không thể tạo ra bằng cơ sở kỹ thuật công
nghệ lạc hậu. Hoạt động trong cơ chế thị trường có cạnh tranh, sự tồn tại phát triển của
doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ đổi mới cơ sở kỹ thuật công nghệ. Bởi
vậy chúng ta cần tiếp cận công nghệ tiên tiến của các nước khác bằng cách liên doanh
hợp tác với nước ngoài. Trong điều kiện thiếu vốn, cần nghiên cứu kết hợp đầu tư đổi
mới toàn bộ dây chuyền sản xuất với đầu tư có trọng điểm vào các khâu quan trọng.
- Đầu tư theo chiều sâu phải gắn chặt với chiến lược sản phẩm của doanh
nghiệp. Đó là điều kiện quan trọng bảo đảm đầu tư đúng hướng và phát huy hiệu quả
đầu tư trong khoảng thời gian dài. Trong cơ chế mới, các doanh nghiệp không những
chỉ xác định phương án kinh doanh tối ưu mà còn phải xác định chiến lược phát triển
tổng thể của mình. Chiến lược sản xuất kinh doanh, chiến lược huy động và sử dụng
các nguồn vốn dề đổi mới kỹ thuật công nghệ, chiến lược con người đó là những bộ
phận chủ yếu của chiến lược phát triển tổng thể của doanh nghiệp. Trong chiến lược
sản xuất kinh doanh thì chiến lược sản phẩm là nội dung cơ bản nhất. Trên cơ sở xác
định rõ sản xuất sản phẩm gì ? Quy mô sản xuất như thế nào ? Chất lượng ra sao ? Thị
trường tiêu thụ ? các doanh nghiệp sẽ xác định cho mình các “chiến lược sản phẩm-thị
trường“ và sau đó lựa chọn các chiến lược tối ưu. Bên cạnh sự đổi mới của doanh
nghiệp thì nhà nước với vai trò to lớn của mình cần chú ý một số vấn đề sau :

+ Tiếp tục tiến hành đổi mới cơ chế quản lý ổn định, môi trường và điều kiện
kinh doanh trong nước nhằm khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước
ngoài.
+ Thiết lập các điều kiện và chính sách cần thiết để phát huy tối đa cơ chế thị
trường cạnh tranh như một cơ chế phát triển kinh tế xã hội .


+ Tạo các loại hình, các phương thức và cơ chế liên kết hợp tác toàn xã hội
nhằm huy động nguồn vốn trong dân và sản xuất.

I. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở việt nam.
Trước năm 1986 nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế chỉ huy,ở đó Nhà nước
kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất ,để đảm bảo cho điều đó thực hiện được
Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả ,tiền lương và sự phân phối hàng hoá và dịch vụ
sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt lợi nhuận độc quyền mà phần lớn
nguồn lợi nhuận độc quyền đó được chuyển vào ngân sách nhà nước qua doanh thu
như là một thứ thuế ngầm.Về phía mình,các doanh nghiệp và người lao dộng phỉ cống
hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một
phần,thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước cấp.Trong hệ thống phân phối này
thu nhập về lợi nhuận của Nhà nước không dựa trên các nhân tố kích thích được xác
định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định mức,đánh giá sự cống hiến của
mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của nó trong hệ thống này.Do đó
nền kinh tế gặp phải khó khăn lớn.
Chính vì vậy cuộc cải cách kinh tế Việt Nam năm 1986 đã đem lại một số thành
tựu đáng khích lệ .Nâng cao đời sống nhân dân,tăng tính năng động của nền kinh tế thị
trường,xoá bỏ tính bao cấp,trì trệ của cơ chế cũ,bước đầu phát huy được nội lực,kiềm
chế đẩy lùi lạm phát.
Tóm lại lợi nhuận là mục đích của kinh tế thị trường,Kinh tế thị trường ở nước ta
cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn
thuần.Mà xuất phát từ đặc điểm nước ta là nước xã hội chủ nghĩa .Ngay từ đầu chúng

ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi.Vì vậy chúng ta theo
đuổi lợi nhuận nhưng phải bảo đảm nhiệm vụ:
Bảo đảm hiệu quả kinh tế,trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi.
Kết hợp giải quyết những vấn đề về kinh tế xã hội nâng cao đời sống nhân dân
II.Các giải pháp cho vấn đề lợi nhuận ở Việt Nam.
Chúng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính
trị,lấy ổn định chính trị làm tiền đề và tạo điều kiện cho cải cách kinh tế.


Nhà nước nâng cao chất lượng hiệu quả của quản lý cho phù hợp với điều kiện
kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên bước phát triển
mới
Đưa kinh tế mà trong đó kinh tế thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng
đóng vai trò quyết định đối với sản xuất kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia
dưới sự hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh
tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm bảo thị trường thống nhất,mở
rộng phục vụ mục tiêu tăng trưởng hiệu qủa công bằng và ổn định.
Nhà nước dùng luật pháp,kế hoạch định hưóng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị
trường phát triển hùng mạnh,dùng chính sách phân phối và điều tiết đảm bảo phúc lợi
cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội.




Kết luận:
Việt Nam đang trên con đường thực hiện Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất
nước . Mục tiêu đến năm 2020 về cơ bản trở thanh một nước công nghiệp, do vậy việc
xây dựng và hiện đại hoá ngành Tài chính là một trong những vấn đề cơ bản , quan
trọng nhất.
Đề án nhỏ trên đã được hoàn thành với sự giúp đỡ của giảng viên Trầm Thanh

Hưong.Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận
trong nền kinh tế thị trường.Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một điều tất
yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là một động lực thúc đẩy kinh tế phát
triển.Tuy nhiên thực chất của quá trình nẩy sinh và sự tiêu cực trong văn hoá xã hội,lối
sống của người dân trong cơ chế mới.Những vấn đề đặt ra một yêu cầu là tất cả chung
ta phải cùng cố gắng để góp phần đưa nền kinh tế phát triển.Xã hội lành mạnh văn
minh.Đặc biệt là những nhà kinh tế tương lai,chúng ta không thể nhìn những mâu
thuẫn nẩy sinh trong quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học
tập và lao động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc xây dựng đất
nước.Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế của đất nước sẽ
đi đến thắng lợi.













Tài liệu tham khảo

1-/ Tư bản quyển 3 tập 1,2
2-/ Giáo trình KTCT trường ĐHKTQD tập I
3-/ Kinh tế học của Davilegg
4-/ Kinh tế học của Samulson

5-/ Các học thuyết kinh tế
6-/ Đổi mới kinh tế quốc doanh
.

×