Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.68 KB, 34 trang )

LờI NóI ĐầU
Sự phát triển của Việt Nam cũng nh của các nớc Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác
đợc đánh dấu bằng sự chuyển hớng trong t tởng,nhận thức của các Đảng va Nhà Nớc
về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đờng đi lên CNXH.ở Việt Nam,từ sau những
năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời gian
rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nớc.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vợt
bậc.Từ một nớc nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản
viện trợ,trợ giúp của các nớc khác,Việt Nam đã trở thành một nớc xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và
Dịch Vụ đã đạt đợc những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân đợc cải thiện
vv...Có đợc sự phát triển đó,nh trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận
thức,t duy về CNXH và con đờng
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong
nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng nh sự đánh giá lại
vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nớc
ta đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đa
Việt Nam hội nhập với các nớc trong khu vực và trên thế giới cũng nh xây dựng
thành công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận
trong việc phát triển nền kinh tế là nh thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến
bây giờ mới đợc đặt ra mà từ rất lâu rồi con ngời đã có nhiều những quan điểm khác
nhau về lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trờng phái lý luận trớc Mác cho đến
những trờng phái lý luận ngày nay,mỗi trờng phái đều có những luận điểm,học
thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học
thuyết của Chủ Nghĩa Mác(CN Mác),đợc xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị
1
thặng d(GTTD),đã giải thích đợc một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về
nguồc gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của


CN Mác nói chung và những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã đợc
Đảng ta coi là cơ sở lý luận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nớc ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có đúng
đến mấy cũng luôn đòi hỏi phải đợc vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn
cảnh của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn
gốc,bản chất của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trờng phái từ trớc đến
nay,đặc biệt là học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận nh là một
động lực cơ bản của nền kinh tế thị trờng(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận
dụng lý luận vào thực tiễn ở nớc ta để thấy đợc rõ nét hơn vai trò động lực của lợi
nhuận.
Trong phạm vi cho phép của bàiviết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này
khó tránh khỏi những sai sót .Vì vậy,em rất mong nhận đợc sự chỉ dẫn,giúp đỡ của
thầy giáo để em có đợc những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
2
PHầN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
i / Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:
1/Quan điểm của tr ờng phái Trọng Th ơng về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thơng(CNTT) đợc ra đời vào thời kỳ
tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp t bản.ở giai đoạn này,vấn đề đợc quan tâm hàng
đầu và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi tổ
chức,thậm chí là mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,nh nhận
xét của Engels sau này thì
"các dân tộc chống đối nhau nh những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm kh kh túi tiền quí báu,
nhìn sang ngời láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do đợc hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử nh vậy cho nên toàn bộ học thuyết
của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều đợc xây dựng trên cơ
sở đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tợng nghiên cứu của Kinh Tế Chính
Trị(KTCT) là lĩnh vực lu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải thơng mại mà
nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho rằng lợi nhuận là do

lĩnh vực lu thông,do sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là kết quả của việc mua ít
bán nhiều ,mua rẻ bán đắt mà có.Họ cho rằng muốn có đợclợi nhuận thì không có
cách nào khác ngoài việc trao đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục tiêu
của mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trờng.Điều này đợc thể hiện qua việc
một quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu nh Thomas Mun đã viết:" Chúng ta phải
thờng xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho ngời nớc ngoài với số lợng
hàng hoá lớn hơn số lợng chúng ta phải mua của họ".Còn đối với các thơng nhân thì
mục tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm thu đợc phần lợi nhuận chênh lệch.
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng nh các quan điểm
khác của họ,cha có đợc sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc ,cha
mang tính quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan trọng,
làm tiền đề cho các học thuyết kinh tế sau này.

2/Quan điểm của tr ờng phái T Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trớc Mác,trờng phái T Sản Cổ Điển(TSCĐ) là tr-
ờng phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trờng phái đợc Mác chọn làm tiền đề
lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trờng phái TSCĐ đợc đánh giá cao nh vậy là
do đây là trờng phái đầu tiên chuyển đối tợng nghiên cứu của KTCT từ lĩnh vực lu
thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các nhà kinh tế học không
dừng lại ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tợng bên ngoài mà đã sử dụng phơng pháp
trừu tợng hoá khoa học để đi sâu vào nhận thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và
tính quy luật của các sự vật,hiện tợng đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm trù
nh giá trị,giá cả,lợi nhuận vv...
Đợc hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa T Bản(CNTB),trờng phái
TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất nh
W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv...Quan điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa
3
mang tính kế thừa ngời đi trớc vừa mang tính sáng tạo mà trong đó có một số quan
điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta sẽ xem

xét sau đây.
Trớc tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ lại
cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ gọi là
sản phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác nh trong công nghiệp
hay thơng nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ nh vậy,theo họ giải thích,là do trong
nông nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì ngời nông dân còn đợc sự trợ
giúp của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan điểm của họ,chính là phần thu
nhập không lao động của nhà t bản do ngời nông dân tạo ra.ở đây,mặc dù còn hạn
chế khi cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý tuy
nhiên trờng phái Trọng Nông đã có một đóng góp quan trọng đó là bớc đầu tìm ra
nguồn gốc của cái gọi là sản phẩm thuần tuý,xét về bản chất chính là GTTD.Ngoài
ra,trong lý luận của phái Trọng Nông,đã xuất hiện những mầm mống t tởng về lợi
nhuận bình quân và xu hớng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,ngời đợc coi là đại biểu của trờng phái TSCĐ trong thời kỳ công tr-
ờng
thủ công,thì đã có những bớc tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng Nông.Ông
khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi hình thức lao
động khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thớc đo của giá trị.Dựa trên
quan điểm đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đa ra những lý luận của mình về
lợi nhuận.Ông cho rằng phần giá trị mà ngời lao động tạo ra đợc phân chia thành
tiền lơng trả cho ngời lao động,địa tô trả cho địa chủ và lợi nhuận trả cho nhà t
bản.Nói nh vậy có nghĩa là nếu nh ta coi địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất thì lợi
nhuận chính là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của ngời lao động và chúng đều
có chung một nguồn gốc là lao động không dợc trả công của ngời lao động.Xét về
mặt lợng thì địa tô và lợi nhuận chính là những khoản dôi ra ngoài tiền lơng của ngời
lao động còn xét về mặt chất thì chúng phản ánh quan hệ bóc lột của t bản và địa
chủ đối với ngời lao động.Ông chỉ rõ rằng " Khi sở hữu TBCN xuất hiện,ngời công
nhân trở thành lao động làm thuê thì tiền lơng của họ không phải là toàn bộ giá trị
sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ phận của giá trị
đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy đợc xu hớng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và

xu hớng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lợng t bản đầu t tăng lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những t tởng của A.Smith.Là ngời sống
trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có đợc những
điều kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi
nhuận,D.Ricardo cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lơng mà nhà t bản trả
cho ngời công nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy đợc xu hớng
giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích đợc nguyên nhân của sự
giảm sút là do sự vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ,công
nhân và nhà t bản.Ông giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại quy luật màu
mỡ của đất đai ngày càng giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày càng tăng lên
làm cho tiền công của công nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên trong khi lợi
nhuận của nhà t bản thì không tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi nhuận sẽ ngày càng
4
giảm xuống,gây thiệt hại cho nhà t bản.Tuy nhiên, đây chỉ là những luận giải đợc
thiết lập trên cơ sở những quan sát bên ngoài sự vật,hiện tợng chứ không hề mang
tính khoa học.Chỉ đến khi Chủ Nghĩa Mác-Lênin(CN M-L) xuất hiện,với việc phân
chia t bản thành t bản bất biến và t bản khả biến,mới giải thích đợc đúng đắn quy
luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trờng phái lý luận trớc Mác,các trờng phái
này đều là các trờng phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói riêng và về
các phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trờng phái TSCĐ.Những quan
điểm này đều đã đạt đợc những thành tựu nhất định mặc dù vẫn còn rất nhiều hạn
chế.Sở dĩ nh vậy là do các học thuyết này phát sinh vào giai đoạn đầu mới hình
thành của CNTB , lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản cha
gay gắt lắm còn mâu thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa t sản và
địa chủ.Hơn nữa,vào lúc đó,cha có một học thuyết nào,đứng về phe giai cấp công
nhân,đợc hình thành để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ t
bản.Chính vì vậy cho nên các nhà lý luận của giai cấp t bản mới có thể đa ra các học
thuyết ít nhiều còn mang tính khoa học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu bộc

lộ ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp t sản.Đã
bắt đầu có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai cấp đợc thể
hiện qua các hiện tợng xã hội nh khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá sản của sản xuất
nhỏ hay quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv...Các phong trào đấu tranh của
công nhân bùng nổ ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất hiện CN M-L ,với
vai trò nh một lý luận chỉ đờng cho giai cấp công nhân,chỉ ra sứ mệnh lịch sử của họ
trong việc xoá bỏ và thay thế PTSX TBCN bằng một PTSX tiến bộ hơn,PTSX XHCN
,thì sức ép lên giai cấp t sản ngày càng tăng.Chính vì vậy,trong giai đoạn này,các
nhà lý luận của giai cấp t bản đã ra sức xuyên tạc,bẻ cong những lú luận đúng đắn tr-
ớc kia và đa ra những lý luận sai lầm nhằm giải thích các hiện tợng xã hội kể trên
với mục đích che dấu bản chất bóc lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận
nói riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số tr-
ờng phái nh vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản chất phi
khoa học của các học thuyết này.
3/Quan điểm về lợi nhuận của tr ờng phái Hậu Cổ Điển:
Trờng phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trờng phái TSCĐ nhng
các nhà lý luận của trờng phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả trờng
phái TSCĐ.Họ rời bỏ phơng pháp trừu tợng hoá khoa học,không đi sâu vào phân tích
bản chất của sự vật,hiện tợng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt là họ đã áp
dụng phơng pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế,"coi KTCT là khoa học
nghiên cứu về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về giá trị lao động và
đa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất vv...Ta có thể thấy
đợc điều đó qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu cho trờng phái này nh
R.Malthus và J.B.Say.
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã phát
triển lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có thể mua
5
đợc bằng những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi phí về lao
động sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận t bản ứng trớc".Nh vậy là

dựa trên quan điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đa ra quan niệm sai lầm về lợi
nhuận,coi lợi nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật
hoá".Với quan niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của ngời công nhân mà cả các công cụ lao
động và đối tợng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Còn theo J.B.Say,ngời ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của vật
quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi là th-
ớc đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đa ra lý thuyết về ba
nhân tố sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất là lao
động,đất đai và t bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá trị tơng
ứng.Do vậy,Say đã coi lợi nhuận nh là phần giá trị của hàng hoá đợc tạo ra do ích lợi
của t bản,có nghĩa là ,coi lợi nhuận nh là hiệu suất đầu t của t bản.Luận điểm này tất
yếu dẫn tới việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá trình sản xuất cũng
tham gia vào quá trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng lao động của công
nhân mới tạo ra giá trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là tiền lơng của nhà
quản lý kinh doanh,là phần thởng cho những nhà đầu t dám mạo hiểm.Ta có thể thấy
rằng đó hoàn toàn là những quan điểm sai lầm.

4/Quan điểm về lợi nhuận của tr ờng phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền,đặc biệt là đợc hình thành sau khi CN Mác ra đời,trờng phái Cổ
Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trớc những hiện tợng
kinh tế mới phát sinh nh tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã hội của
nó vv...Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ nhận những
lý luận khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp t bản,sự diệt vong tất yếu
của CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv...nhằm bảo vệ lợi ích của
giai cấp t sản.ủng hộ t tởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép phân tích vi mô nền kinh
tế,kế thừa và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý chủ quan là các đặc điểm nổi
bật của trờng phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ bản đó thì mỗi đại biểu của trờng

phái CĐM lại có những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết
'năng suất giới hạn' và từ đó đa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các nhân
tố sản xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản xuất,cụ
thể là,tiền lơng là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng lực chịu
trách nhiệm của đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của t bản.Nói nh
vậy có nghĩa là lợi nhuận,thực chất,đợc coi là tiền lơng trả cho nhà sản xuất-kinh
doanh.Hoặc nh Alfred Marshall thì lại coi lợi nhuận nh là khoản tiền thù lao thuần
túy cho năng khiếu quản lý kinh doanh,sử dụng t bản và năng lực tổ chức hoạt động
sản xuất.
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trờng phái phi Mácxit kể
trên,mặc dù có một số trờng phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các trờng
6
phái trớc Mác, nhng chúng vẫn cha thể có đợc tính chính xác và khoa học một cách
trọn vẹn.Sở dĩ nh vậy là vì các quan điểm này đợc xây dựng trên cơ sở những luận
điểm,hoặc là cha đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn toàn,về giá trị.Vì vậy mà
ngay cả những nhà t tởng tiến bộ nhất của trờng phái TSCĐ cũng cha thể xác định đ-
ợc đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.Chỉ đến khi CN Mác
xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp tục những quan điểm đúng đắn của các
trờng phái trớc đó,mới có thể giải thích một cách khoa học,chính xác và đầy đủ về
nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
ii /Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:

Nh trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất của
lợi nhuận mới đợc làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN Mác.Dựa
trên việc kế thừa những t tởng tiến bộ,khoa học của các trờng phái lý luận trớc
đó,Mác đã sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có vai trò nh
"một hòn đá tảng" trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về giá trị thặng d-
(GTTD).Dựa cơ sở đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc và bản chất của
lợi nhuận cũng nh đã giải thích đợc sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận bình quân và

bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần.Ngoài ra,Mác cũng đã
thấy đợc và phân tích một cách khoa học sự phân chia của lợi nhuận thành các hình
thức khác nhau nh lợi nhuận công nghiệp(LNCN),lợi nhuận thơng nghiệp(LNTN),lợi
tức cho vay(LTCV),lợi nhuận ngân hàng(LNNH),địa tô(ĐT) và cuối cùng là lợi
nhuận độc quyền(LNĐQ).
Sau đây,chúng ta sẽ lần lợt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy đợc sự hình thành của lợi nhuận,trớc tiên ta hãy xem xét về khái niệm mà
mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Nh chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá đợc cấu thành nên từ chi phí cho lao động
trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới đợc tạo ra trong quá
trình sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà t bản thì họ không quan tâm tới sự cấu thành
của giá trị hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu t bản và sẽ thu
lại đợc cái gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà t bản sẽ phải ứng t bản
ra để mua các t liệu sản xuất(TLSX),đợc ký hiệu là (c), và để thuê lao động,đợc ký
hiệu là (v).Toàn bộ phần t bản này đợc gọi là t bản ứng trớc(TBƯT).Tuy nhiên,theo
Mác thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều đợc chuyển dịch hết vào giá trị của
hàng hoá mà chỉ có một phần lợng t bản đợc dùng để ứng trớc cho TLSX và toàn bộ
lợng t bản đợc dùng để ứng trớc cho lao động là cấu tạo trực tiếp nên giá trị của hàng
hoá. Phần giá trị này đợc Mác gọi là CPSX ,đợc ký hiệu là (k) và đợc biểu diễn dới
công thức:
k=c+v
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà t bản đã bớc đầu che dấu đợc sự hình
thành của giá trị thặng d(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái niệm lợi
7
nhuận.Có thể thấy rõ đợc điều này qua việc nghiên cứu những phân tích của Mác về
công thức của CFSX trên.
Trớc tiên,ta hãy xen lại định nghĩa của Mác về GTTD.Theo Mác thì "giá trị thặng
d là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà t bản

chiếm không".Nh vậy,theo Mác thì GTTD chính là phần lao động không đợc trả
công của ngời công nhân mà nhà t bản đã chiếm đoạt,điều đó có nghĩa là GTTD
(hay chính là phần giá trị mới) dợc tạo ra bởi lao động của ngời công nhân.Nói cách
khác,chính lao động của ngời công nhân và chỉ duy nhất một mình nó là tạo ra
GTTD.Lý luận về GTTD của Mác đã vạch trần bản chất bóc lột của CNTB,chỉ rõ
nguồn gốc sự giàu có của CNTB nói chung và của nhà t bản nói riêng chính là nhờ
chiếm đoạt GTTD.
Tuy nhiên,với sự hình thành khái niệm CPSX (k=c+v) thì nguồn gốc và bản chất
bóc lột của GTTD đã bị che lấp.ở đây,dờng nh phần giá trị mới đợc tạo ra là do tác
động của toàn bộ lợng t bản mà nhà t bản đã ứng ra.Có nghĩa là,cả bộ phận t bản bỏ
vào lao động (v) và bộ phận t bản bỏ vào TLSX (c) đều có vai trò nh nhau trong việc
tạo ra phần giá trị mới,nh Mác đã viết:"Bộ phận t bản bỏ vào lao động,khác với bộ
phận t bản bỏ vào TLSX,vào bông hay than chẳng hạn,ở chỗ là nó đợc dùng để trả
tiền cho một yếu tố sản xuất khác về mặt vật chất,chứ hoàn toàn không phải là vì,do
chức năng của nó,nó đã đóng một vai trò khác trong quá trình sáng tạo ra giá trị của
hàng hoá và do đó trong quá trình làm cho t bản tăng thêm giá trị".Nh vậy là,với sự
hình thành khái niệm CPSX ,vô hình chung đã xoá đi sự khác nhau giữa t bản bất
biến(TBBB) và t bản khả biến(TBKB) trong chức năng sáng tạo ra giá trị.
Nh vậy,phần giá trị mới,đợc tạo ra trong quá trình sản xuất,nếu coi là phần dôi ra
ngoài giá trị sức lao động do ngời công nhân tạo ra thì đợc gọi là GTTD còn nếu,vẫn
với lợng giá trị đó,mà đợc đem so sánh với toàn bộ t bản ứng trớc thì sẽ mang hình
thức chuyển hoá là lợi nhuận.Vậy,xét cho cùng,lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình
thái chuyển hoá của GTTD," một hình thái mà PTSX TBCN tất nhiên phải đẻ ra"
nhằm che đậy bản chất bóc lột của nó.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là (p) thì công thức giá trị của hàng hoá trớc là : gt=c+v+m
nay sẽ chuyển thành :gt=k+p,với k (=c+v) chính là CPSX để tạo ra hàng hoá.Từ
công thức này,ta có thể thấy rằng CPSX của một hàng hoá luôn nhỏ hơn giá trị thực
tế của hàng hoá đó một lợng đúng bằng phần GTTD đợc tạo ra.Nh vậy,nếu hàng hoá
đợc bán đúng với giá trị của nó thì nhà t bản sẽ thu về đợc một khoản lợi nhuận đúng
bằng phần GTTD (m) chứa đựng trong hàng hoá đó.Tuy nhiên,nhà t bản cũng vẫn có

thể bán một hàng hoá nhất định nào đó với giá cả nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị thực
tế của nó.Chừng nào mà giá bán vẫn còn cao hơn CPSX để sản xuất ra hàng hoá đó
thì nhà t bản còn thu đợc lợi nhuận.Chính vì vậy đã làm cho lợi nhuận dờng nh là kết
quả của hoạt động kinh doanh, do tài nghệ kinh doanh của nhà t bản tạo ra.Đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và tồn tại của một số quan điểm sai lầm
về lợi nhuận mà ta đã nghiên cứu ở phần trên.

2/Tỷ suất lợi nhuận,tỷ suất lợi nhuận bình quân,giá cả sản xuất và quy luật tỷ
suất lợi nhuận có xu h ớng giảm dần :
8
Nh trên chúng ta đã phân tích,lợi nhuận thực chất chỉ là một hình thức biến tớng
của GTTD.Tuy nhiên,đối với nhà t bản thì họ không quan tâm,không cần biết đến
điều đó.Khi tiến hành một hoạt động sản xuất hàng hoá,mục tiêu của nhà t bản
không phải là hàng hoá đợc sản xuất ra cũng không phải là giá trị sử dụng của hàng
hoá đó.Cái mà nhà t bản cần là cái phần giá trị mới thừa ra so với toàn bộ phần t bản
đã tiêu dùng,nó đợc nhà t bản gọi dới cái tên là lợi nhuận.Mặc dù cái đích cuối cùng
của mọi hoạt động sản xuất-kinh doanh của nhà t bản là lợi nhuận tuy nhiên nhà t
bản lại chẳng quan tâm xem phần lợi nhuận đó đợc tạo ra từ đâu,từ TBBB hay từ
TBKB vv...Đối với nhà t bản,lợi nhuận đợc tạo nên từ toàn bộ phần t bản đã tiêu
dùng,đúng nh Mác đã viết :"...nhà t bản trông mong là tất cả các bộ phận của t bản
mà hắn ứng ra đều sẽ đem lại lợi nhuận nh nhau cả ".Từ quan niệm trên đã nảy sinh
khái niệm về tỷ suất lợi nhuận.Theo định nghĩa của Mác thì "Tỷ suất lợi nhuận (p')
là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng d và toàn bộ t bản ứng trớc".Ta có :
p'=(m/(c+v))*100%.
Với sự xuất hiện khái niệm tỷ suất lợi nhuận,ta có thể thấy rằng,một lần nữa bản
chất bóc lột của CNTB lạiđợc che dấu đi.Nếu nh tỷ suất GTTD (m') đã phản ánh đợc
sự bóc lột của nhà t bản đối với công nhân làm thuê,là thớc đo trình độ bóc lột của
giai cấp t sản thì tỷ suất lợi nhuận,đơn thuần,chỉ phản ánh mức lãi của việc đầu t t
bản,nó chỉ cho nhà t bản biết nên đầu t vào đâu thì có lợi hơn.
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu,xem xét về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận

cũng nh vai trò của nó trong phản ánh mức lãi của hoạt động đầu t.Tuy nhiên,tỷ suất
lợi nhuận chỉ phản ánh trong phạm vi một nghành sản xuất,mỗi nghành có một tỷ
suất lợi nhuận riêng.Còn trong nền kinh tế TBCN với sự đa dạng về nghành nghề thì
tất yếu dẫn tới sự hình thành khái niệm tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ hình thành
khái niệm này là do trong nền kinh tế TBCN luôn tồn tại sự cạnh tranh,đó là hình
thức đấu tranh gay gắt giữa những ngời sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu
khác nhauvề TLSX,nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu
thụ hàng hoá.Trong nền kinh tế TBCN,do chế độ chiếm hữu t nhân TBCN cho nên
sự tồn tại tình trạng cạnh tranh là tất yếu dới hai dạng là cạnh tranh trong nội bộ
nghành và cạnh tranh giữa các nghành.Mỗi hình thức cạnh tranh sẽ đem lại một kết
quả khác nhau.Với cạnh tranh trong nội bộ nghành,kết quả cuối cùng là làm cho tỷ
suất lợi nhuận của nghành giảm xuống.Còn cạnh tranh giữa các nghành thì lại dẫn
tới sự hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ nh vậy là do,nh ta đã biết,mỗi
nghành sản xuất có một tỷ suất lợi nhuận riêng rất khác nhau,nó phụ thuộc vào cấu
tạo hữu cơ của lợng t bản đầu t vào các nghành đó.Do đó,luôn tồn tại những nghành
mà ở đó có tỷ suất lợi nhuận cao hơn các nghành khác mà tỷ suất lợi nhuận của một
nghành phản ánh mức lãi đạt đợc nếu đầu t vào nghành đó.Chính vì vậy mà các nhà
t bản sẽ đua nhau rút t bản ra khỏi những nghành có tỷ suất lợi nhuận thấp để đầu t
vào những nghành có tỷ suất lợi nhuận cao.Và kết quả của sự di chuyển tự do,liên
tực này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Vậy "Tỷ suất lợi nhuận bình quân chính là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá
trị thặng d trong xã hội t bản và tổng t bản xã hội đã đầu t vào tất cả các lĩnh vực,các
nghành của nền sản xuất t bản chủ nghĩa ".Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p' thì ta
có :
p'=
9
Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã dẫn tới sự biến đổi từ giá trị hàng
hoá thành giá cả sản xuất.Giá cả sản xuất đợc định nghĩa "bằng chi phí sản xuất
cộng với lợi nhuận bình quân".Ta có : giá cả sản xuất = k + p .
Ta có thể thấy rằng,trớc đây,khi cha xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả

xoay quanh giá trị của hàng hoá.Giờ đây,với việc hình thành khái niệm giá cả sản
xuất thì giá cả của hàng hoá lại xoay quanh giá cả sản xuất.Đã từng có một số nhà
kinh tế học t sản,dựa vào sự thật là giá cả sản xuất trong một số nghành không phù
hợp với giá trị của hàng hoá trong các nghành đó,để hòng bác bỏ lý luận giá trị lao
động của Mác.Tuy nhiên,cần phải thấy rằng quy luật giá trị vẫn hoàn toàn đúng đắn
trong giai đoạnTBCN,giá trị vẫn đóng vai trò là cơ sở là nội dung bên trong của giá
cả sản xuất.Nói cách khác,giá cả sản xuất thực chất chỉ là mộthình thức biến tớng
của giá trị mà thôi.
Ta có thể thấy rõ đợc điều đó qua một số phân tích sau:
Một là,tổng số lợi nhuận của toàn bộ giai cấp t sản thì đúng bằng với tổng số
GTTD do lao động không công của giai cấp công nhân tạo ra.Và do đó,tỷ suất lợi
nhuận bình quân cao hay thấp là do lợng GTTD đợc tạo ra trong xã hội quyết
định.Sở dĩ nh vậy vì,nh trên đã phân tích,nguồn gốc của lợi nhuận chỉ có thể xuất
phát từ lao động không công của công nhân bị nhà t bản chiếm đoạt chứ không thể
từ một nguồn gốc nào khác.Các nhà t bản,nh Mác nói,sẽ không thể bóc lột lẫn
nhau,bóc lột trên lng nhau đợc.
Hai là, mặc dù trên thực tế,trong một số nghành,giá cả sản xuất của một hàng hoá
có thể cao hơn giá trị của nó trong khi ở một số nghành khác thì giá cả sản xuất của
hàng hoá lại thấp hơn giá trị của nó.Nhng xét về tổng thể,trên phạm vi toàn xã
hội,thì tổng số giá cả sản xuất vẫn đúng bằng tổng số giá trị của tất cả hàng hoá.
Ba là,giá trị của một hàng hoá biến động tăng hoặc giảm cũng sẽ kéo theo sự biến
động tơng ứng của giá cả sản xuất của hàng hoá đó.
Nói tóm lại,Mác đã giải thích đợc một cách chính xác và khoa học về nguồn
gốc,bản chất của lợi nhuận cũng nh các khái niệm khác liên quan tới lợi nhuận,đặc
biệt là những khái niệm về tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất.Điều này
thể hiện sự tiến bộ vợt trội của học thuyết kinh tế của Mác so với các học thuyết
kinh tế khác.Hơn thế nữa, không chỉ lý giải về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận
bình quân mà Mác còn giải thích và chứng minh một cách đúng đắn và khoa học về
quy luật tỷ suất lợi nhuận giảm dần.Một quy luật mà mặc dù một số nhà lý luận của
trờng phái TSCĐ nh A.Smith hay D.Ricardo tuy đã nhận thức đợc về sự hiện diện

của quy luật này nhng vẫn cha thể giải thích đợc nó một cách đúng đắn và khoa học.
Mác đã chứng minh rằng sự tồn tại của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng
giảm dần là do sự tăng lên của TBBB so với tổng t bản đã dẫn tới sự giảm sút một
cách tơng đối của TBKB so với tổng t bản.Kết quả là TBBB sẽ tăng lên một cách t-
ơng đối so với TBKB và do đó làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng giảm dần.Sở dĩ có
hiện tợng TBBB tăng lên tơng đối so với TBKB,theo Mác giải thích, là do "...sự phát
triển ngày càng nhanh chóng của CNTB đã đem lại những phơng pháp sản xuất mới
cho phép vẫn một số lợng công nhân nh thế,vẫn một khối lợng sức lao động nh thế
do một khối lợng t bản khả biến nhất định thuê mớn, cùng trong một khoảng thời
gian nh thế,lại sẽ vận động đợc một khối lợng t liệu lao động,máy móc và các loại t
10
bản cố định ngày càng lớn..." .Ta sẽ xem xét một ví dụ dới đây để có thể thấy rõ hơn
về lý luận trên :
Giả sử có một lợng TBBB v=100 ; tỷ suất giá trị thặng d m'=100%
do đó lợng GTTD tơng ứng sẽ bằng m'*v = 100%*100=100
Sau đây,với sự tăng lên dần của TBBB (c),ta sẽ thấy rằng tỷ suất lợi nhuận (p') sẽ
giảm dần xuống.Ta có p'=m/(c+v) và nếu :
c=50 ,v=100 thì : p'=100/(50+100)=66,666%
c=200,v=100 thì : p'=100/(200+100)=33,333%
c=300,v=100 thì : p'=100/(300+100)=25%
c=400,v=100 thì : p'=100/(400+100)=20%
Nh vậy là,với một lợng TBKB (v) và một trình độ bóc lột (m') không thay đổi thì
sự tăng lên dần của lợng TBKB (c) sẽ gây ra sự giảm dần của tỷ suất lợi nhuận p'.
Mặt khác,có thể nói rằng,nguyên nhân sâu xa của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu
hớng giản dần chính là sự tăng dần của năng suất lao động xã hội(NSLĐXH).Với
nền đại công nghiệp của CNTB , NSLĐXH ngày càng đợc nâng cao.Điều đó cho
phép một số lợng ít hơn về lao động có thể vận động đợc một khối lợng máy móc
ngày càng nhiều hơn để biến một lợng,cũng ngày càng nhiều hơn,các TLLĐ thành
sản phẩm hàng hoá.Nói khác đi,trong cơ cấu giá trị của hàng hoá thì phần TBBB (c)
ngày càng tăng trong khi phần TBKB (v) thì ngày càng giảm.Và vì vậy,mặc dù trình

độ bóc lột là không giảm nhng tỷ suất lợi nhuận vẫn ngày càng giảm.
Tuy nhiên,cần phải thấy rằng,nh Mác đã khẳng định,sự đúng đắn của quy luật tỷ
suất lợi nhuận giảm dần không có nghĩa là lợng GTTD,hay chính là lợng lao động
không đợc trả công mà nhà t bản chiếm đoạt của ngời công nhân,không tăng lên một
cách tuyệt đối.Sở dĩ nh vậy là do nhà t bản không ngừng nâng cao tỷ suất giá trị
thặng d cũng nh không ngừng tăng thêm tổng số lao động bị t bản bóc lột.Hơn thế
nữa,quy luật này còn làm cho nhà t bản càng tăng cờng bóc lột công nhân tới mức
tối đa nhằm kìm hãm xu hớng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.Ngoài ra,nó còn làm
cho cuộc tranh giành phân chia tổng khối lợng lợi nhuận ngay trong nội bộ giai cấp
t bản cũng diễn ra ngày càng gay gắt.
Không chỉ có vậy mà trong nỗ lực tìm mọi cách kìm hãm xu hớng giảm dần của tỷ
suất lợi nhuận và nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận,nhà t bản đã đua nhau đầu t t
bản ra nớc ngoài đặc biệt là các quốc gia kém phát triển nơi có nguồn nhân công giá
rẻ và cấu tạo hữu cơ của t bản thấp hơn so với các nớc phát triển.ở các nớc này,bọn
t bản ra sức vơ vét,bóc lột nhân dân các nớc thuộc địa.Điều đó làm cho mâu thuẫn
giữa các nớc t bản phát triển và các nớc chậm tiến,giữa chính quốc và các nớc thuộc
địa ngày càng gay gắt.
Ngoài ra,với tham vọng tăng thêm lợi nhuận để bù đắp vào chỗ giảm sút lợi nhuận
do xu hớng giảm sút lợi nhuận gây ra,nhà t bản đã tăng cờng mở rộng quy mô sản
xuất,đẩy sức cung của thị trờng vợt xa khỏi giới hạn nhu cầu của ngời mua.Đây là
một trong các nguyên nhân dẫn tới các cuộc khủng hoảng thừa,loại khủng hoảng đặc
trng của CNTB.
Nói tóm lại,có thể thấy rằng,quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hớng giảm dần
không chỉ đơn thuần phản ánh xu hớng giảm dần của tỷ suất lợi nhuận trong xã hội
t bản mà nó còn làm cho những mâu thuẫn nội tại của CNTB ngày càng trở nên sâu
11
sắc và từ đó,chỉ ra các hạn chế mang tính chất lịch sử của PTSX TBCN .Vì vậy,việc
giải thích một cách khoa học sự hình thành cũng nh các tác động của quy luật tỷ
suất lợi nhuận giảm dần trong xã hội t bản đã làm cho học thuyết kinh tế của Mác
nói riêng và toàn bộ hệ thống lý luận của Mác nói chung tăng thêm tính khoa học và

phù hợp với thời đại.Những lý luận này góp phần làm sáng tỏ những hạn chế mang
tính lịch sử của CNTB.Nó chỉ ra rằng tới một lúc nào đó thì những mâu thuẫn nội tại
của CNTB cũng nh những hạn chế lịch sử của nó sẽ làm cho PTSX TBCN trở thành
một trở ngại ngăn cản,kìm hãm sự phát triển của LLSX và vì vậy,tất yếu tới một lúc
nào đó,CNTB sẽ bị diệt vong và thay thế nó sẽ là một xã hội khác tiến bộ hơn.
3/ Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận:
Học thuyết kinh tế của Mác xét về hoàn cảnh ra đời đã có một số u thế thuận lợi
hơn các học thuyết kinh tế trớc đó. Ra đời trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của
CNTB vì vậy học thuyết kinh tế của Mác không chỉ giải thích đợc nguồn gốc,bản
chất của lợi nhuận mà còn thấy đợc những hình thái biểu hiện khác của lợi nhuận.
Sở dĩ nh vậy là do cùng với quá trình phát triển của mình,CNTB không ngừng tăng
cờng sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong xã hội. Do vậy, nếu trớc kia trong xã
hội chỉ tồn tại t bản trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp thì nay đã đợc phân chia ra
cả các lĩnh vực khác nh Thơng nghiệp, tín dụng và cả trong Nông nghiệp nữa . Trên
cơ sở sự phân chia đó của t bản, học thuyết của Mác cũng đã chỉ ra đợc sự phân chia
tơng ứng của lợi nhuận. Nếu trớc đây, toàn bộ phần giá trị thặng d bị nhà T bản
Công nghiệp chiếm đoạt hết thì nay phần giá trị thặng d đó lại đợc chia cho các lĩnh
vực khác nữa và từ đó dẫn tới sự hình thành của lợi nhuận Thơng nghiệp, lợi tức cho
vay và địa tô T bản Chủ nghĩa.
Tuy nhiên, mặc dù lợi nhuận Công nghiệp, lợi nhuận Thơng nghiệp, lợi tức cho
vay và địa tô T bản Chủ nghĩa đều có cùng nguồn gốc là phần giá trị thặng d do lao
động không công của ngời lao động tạo ra, đều là các hình thức biểu hiện khác nhau
của lợi nhuận nhng mỗi một hình thức lại có một số đặc điểm riêng khác biệt với các
hình thức khác. Để thấy rõ đợc điều này,sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu, xem xét lần
lợt từng hình thức này.
a/ Lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận Th ơng nghiệp:
Trớc tiên, xét trong lĩnh vực sản xuất và lu thông hàng hóa ta sẽ thấy tồn tại hai
dạng t bản là t bản Thơng nghiệp và t bản Công nghiệp và tơng ứng với chúng là hai
hình thức lợi nhuận, lợi nhuận Thơng nghiệp và lợi nhuận Công nghiệp . Không phải
chỉ tới CNTB thì mới tồn tại hai dạng t bản cũng nh hai hình thái lợi nhuận này. Nh-

ng trong các xã hội trớc CNTB thì hai dạng t bản này hoàn toàn độc lập với nhau.
Nhà t bản sau khi sản xuất ra sản phẩm rồi phải tự mình mang sản phẩm ra thị trờng
để tiêu thụ do đó toàn bộ t bản của họ ban đầu không chỉ đợc đầu t vào mỗi quá trình
sản xuất mà còn phải chi phí cho cả quá trình bán hàng do vậy lợi nhuận của nhà t
bản Công nghiệp sẽ bị giảm đáng kể.Còn t bản Thơng nghiệp trong giai đoạn
này,hay còn đợc gọi là Thơng nghiệp cổ xa với chức năng lu thông hàng hoá dựa
trên cơ sở mua rẻ, bán đắt và vì vậy lợi nhuận Thơng nghiệp lúc này thực chất là
kết quả của việc ăn cắp và lừa đảo. Ta có thể thấy rõ điều này qua quan điểm của
trờng phái trọng thơng, cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang
giá , cho rằng không một ngời nào thu đợc lợi mà không làm thiệt kẻ khác.
12
Nhng trong giai đoạn TBCN,do nhu cầu của sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá thì
Công nghiệp và Thơng nghiệp hay nói rộng hơn là quá trình sản xuất và lu thông
không thể tách biệt độc lập mà đã trở nên phụ thuộc, gắn kết lẫn nhau. Lúc này thì t
bản Thơng nghiệp, thực chất là một bộ phận của t bản Công nghiệp tách rời ra,
phục vụ qúa trình lu thông hàng hoá của nhà t bản Công nghiệp. Khi đó, với sự
hình thành của t bản Thơng nghiệp thì cả t bản Công nghiệp và t bản Thơng nghiệp
đều thu đợc những lợi ích mà đợc thể hiện ra là lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận
Thơng nghiệp. Đối với t bản Thơng nghiệp, mặc dù chỉ tham gia vào lĩnh vực lu
thông, tức là chỉ tham gia vào việc thực hiện giá trị, trong đó có giá trị thặng d, chứ
không hề tham gia vào quá trình sản xuất ra giá trị nhng vẫn thu đợc một phần lợi
nhuận. Phần lợi nhuận này đợc gọi là lợi nhuận Thơng nghiệp. Nếu chỉ xét tới vai trò
của t bản Thơng nghiệp là thực hiện giá trị của hàng hoá mà tạm thời bỏ qua chức
năng tiếp tục quá trình sản xuất trong lĩnh vực lu thông của nó thì đúng là t bản Th-
ơng nghiệp không hề tạo ra giá trị và giá trị thặng d do vậy nhìn bề ngoài có thể lầm
tởng lợi nhuận Thơng nghiệp là do mua rẻ, bán đắt mà có . Tuy nhiên,lợi nhuận Th-
ơng nghiệp thực chất, là một phần giá trị trị thặng d đợc sáng tạo ra trong lĩnh vực
sản xuất mà nhà t bản Công nghiệp nhờng cho nhà t bản Thơng nghiệp.
Sở dĩ nhà t bản Công nghiệp chịu nhờng và phải nhờng một phần của thặng d mà
mình chiếm đoạt đợc hay một phần lợi nhuận của mình cho nhà t bản Thơng nghiệp

là do:
Thứ nhất, với việc hình thành bộ phận t bản Thơng nghiệp chuyên trách việc lu
thông hàng hoá thì t bản Công nghiệp đã thu đợc nhiều lợi nhuận hơn so với khi mà
t bản Công nghiệp phải đảm nhiệm cả việc lu thông hàng hoá. Ngay cả khi phải chia
sẻ một phần lợi nhuận cho t bản Thơng nghiệp thì phần lợi nhuận còn lại vẫn nhiều
hơn cho nên nhà t bản có thể nhờng một phần lợi nhuận nhằm duy trì bộ phận t bản
Thơng nghiệp.
Thứ hai là, nh trên đã phân tích, nếu chỉ xét t bản Thơng nghiệp với vai trò thuần
tuý là thực hiện giá trị thì t bản Thơng nghiệp không hề tạo ra một chút giá trị nào,
tức là hoạt động đó sẽ không mang lại một chút lợi nhuận nào cho nhà t bản Thơng
nghiệp. Do vậy,nếu muốn t bản Thơng nghiệp tiếp tục đảm nhiệm việc tiêu thụ hàng
hóa, thực hiện gia trị thì nhà t bản Công nghiệp buộc phải nhờng một phần giá trị
thặng d cho t bản Thơng nghiệp.
Ngoài ra,sự chuyên môn hoá này còn góp phần mở rộng qui mô tái sản xuất,mở
rộng thị trờng, tạo điều kiện cho Công nghiệp phát triển. Hơn nữa, tuy không trực
tiếp tạo ra giá trị thặng d nhng t bản Thơng nghiệp lại góp phần làm tăng năng suất
lao động, tăng lợi nhuận và do đó, làm cho tỷ suất lợi nhuận chung của xã hội tăng.
Nh vậy, khái quát lại thì lợi nhuận Thơng nghiệp có nguồn gốc từ phần giá trị
thặng d đợc tạo ra trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên lợi nhuận đó đợc thực hiện
nh thế nào? Do t bản Thơng nghiệp chỉ tham gia vào quá trình lu thông cho nên lợi
nhuận Thơng nghiệp chính là phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá.Nh-
ng nói thế không có nghĩa là nhà t bản Thơnh nghiệp phải mua hàng hoá với đúng
giá trị của nó để rồi bán cao hơn giá trị nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Mà thực chất
thì nhà T bản Thơng nghiệp
sẽ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và bán đúng bằng giá trị của hàng hoá. Nguyên
nhân của hiện tợng này là do sự hình thành một tỉ suất lợi nhuận bình quân mới là
13
bình quân các tỉ suất lợi nhuận của hai nghành Công nghiệp và Thơng nghiệp. Ta có
thể thấy rõ điều này khi phân tích ví dụ sau:
Một nhà T bản Công nghiệp có một lợng t bản là 800 với cấu tạo: 700c + 100v

với tỉ suất giá trị thặng d: m = 100% => giá trị hàng hóa là: 700c + 100v + 100 =
900
Tỉ suất lợi nhuận nghành Công nghiệp sẽ là:
P
CN
= 100/800 * 100% = 12,5%
Bây giờ,nếu có thêm một nhà t bản Thơng nghiệp bỏ ra 200 để mua hàng hoá
=>lúc đó ta có tỉ suất lợi nhuận bình quân sẽ bằng:
100
*100% = 10%
800 + 200
Theo tỉ suất lợi nhuận chung mới này thì phần lợi nhuận Công nghiệp và lợi nhuận
Thơng nghiệp tơng ứng sẽ bằng:
LnCN = 800 * 10% = 80
LnTN = 200 * 10% = 20
Khi đó nhà t bản Thơng nghiệp sẽ mua hàng hoá từ nhà t bản Công nghiệp với giá
thấp hơn giá trị:
800 + 80 = 880 (<900)
và sẽ bán với giá đúng bằng giá trị và thu đợc lợi nhuận Thơng nghiệp:
880 + 20 = 900
Nh vậy là, với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận chung giữa hai ngành Công nghiệp
và Thơng nghiệp thì lợi nhuận Thơng nghiệp đã đợc thực hiện. Với sự xuất hiện của
lợi nhuận Thơng nghiệp trong xã hội t bản,đã hình thành nên hai loại giá cả sản xuất
là giá cả sản xuất Công nghiệp và giá cả sản xuất thị trờng. Nó cũng góp phần che
dấu thêm một mức nữa quan hệ bóc lột TBCN.
b/ Lợi tức cho vay và lợi nhuận ngân hàng:
Nh trên đã phân tích,t bản Thơng nghiệp là một bộ phận t bản Công nghiệp tách
ra, phục vụ quá trình lu thông hàng hoá của nhà t bản Công nghiệp. Còn t bản cho
vay, thực chất cũng là một bộ phận của t bản Công nghiệp đợc tách ra nhng là
để,một mặt vừa đáp ứng nhu cầu về t bản,mặt khác là để thoả mãn sự thèm khát lợi

nhuận của nhà t bản. Sau đây, ta sẽ tiến hành xem xét nguồn gốc hình thành của t
bản cho vay để làm rõ thêm điều đó.
Trớc hết, cần phải thấy rằng trong quá trình chu chuyển của t bản, có nhiều lúc,
nhà t bản Công nghiệp hoặc Thơng nghiệp có một số t bản tiền tệ nhàn rỗi, ví dụ nh
tiền trong quỹ khấu hao tái sản cố định, tiền dùng để mua nguyên nhiên liệu, vật liệu
nhng cha tới kỳ mua.... Nếu nhà t bản chỉ để tiền ở dạng nhàn rỗi, không hoạt động
nh vậy thì lợng tiền đó sẽ không mang lại cho nhà t bản một thu nhập nào.Mà đối
với nhà t bản thì tiền phải đẻ ra tiền,bất cứ một đơn vị t bản nào cũng phải mang lại
lợi nhuận. Do vậy mà nhà t bản nẩy sinh ý định đem lợng t bản nhàn rỗi đó cho ngời
khác vay để kiếm lời.
Mặt khác, cũng chính trong những thời gian đó, lại có những nhà t bản lại đang
rất cần tiền, ví dụ nh đang cần mua nguyên nhiên vật liệu để tiếp tục sản xuất nhng
lại cha bán đợc hàng hoá, cần tiền để đổi mới tài sản cố định nhng quỹ khấu hao
không đủ... Do đó, những nhà t bản này tất yếu có nhu cầu vay t bản của ngời khác.
14
Nh vậy là cùng một lúc vừa có những nhà t bản có nhu cầu đi vay lại vừa có
những nhà t bản có nhu cầu cho vay. Và tất yếu sẽ hình thành nên mối quan hệ tín
dụng TBCN và nhà t bản Công nghiệp có t bản nhàn rỗi sẽ trở thành nhà t bản cho
vay.
Vậy t bản cho vay "là t bản tiền tệ mà ngời chủ của nó nhờng cho một ngời khác
sử dụng trong một thời gian để nhận đợc một số lời nào đó". Đặc điểm nổi bật của t
bản cho vay là nó không thuộc sở hữu của nhà t bản sử dụng nó vào sản xuất. Có
nghĩa là khi nhà t bản cho vay cho ngời khác vay một lợng t bản tiền tệ là chỉ cho
ngời đó quyền sử dụng lợng t bản tiền tệ đó chứ không cho quyền sở hữu lợng t bản
đó. Do vậy mà ở t bản cho vay thì quyền sử dụng và quyền sở hữu đợc tách rời nhau,
đây cũng là sự khác biệt căn bản của t bản cho vay với t bản Công nghiệp và t bản
Thơng nghiệp.
Nh trên đã phân tích, nhà t bản cho vay cho ngời khác sử dụng lợng t bản tiền tệ
nhàn rỗi của mình không phải do lòng tốt hay vì một cái gì khác mà chỉ đơn thuần là
để kiếm lời. Chính vì vậy mà nhà t bản đi vay phải trả cho nhà t bản cho vay một số

tiền nào đó, khoản tiền này đợc gọi là lợi tức và nó dợc trích từ phần lợi nhuận thu đ-
ợc của nhà t bản đi vay sau khi anh ta sử dụng lợng t bản đi vay vào quá trình sản
xuất.
Vậy lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà t bản đi vay phải trả cho nhà
t bản cho vay căn cứ vào món tiền mà nhà t bản cho vay đã đa cho nhà t bản đi vay
sử dụng. Nh vậy thì xét cho cùng nguồn gốc của lợi tức chính là phần giá trị thặng d
mà nhà t bản Công nghiệp chiếm đoạt của ngời lao động.
Với sự hình thành của t bản cho vay và tơng ứngvới nó là lợi tức cho vay thì lúc
này phần lợi nhuận bình quân mà các nhà t bản Công nghiệp và t bản Thơng nghiệp
thu đợc không còn thuộc hoàn toàn về họ mà phần lợi nhuận bình quân đó đợc chia
ra thành lợi tức cho vay là khoản đem trả cho nhà t bản cho vay, phần còn lại sau khi
trả lợi tức đợc gọi là thu nhập của chủ xí nghiệp. Lợng lợi tức đem trả nhiều hay ít
tuỳ theo quan hệ cung cầu về t bản cho vay và nó phụ thuộc vào tỉ suất lợi tức, là tỉ
lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và tổng số t bản tiền tệ cho vay.
Nếu kí hiệu lợi tức là Z còn tỉ suất lợi tức là Z thì ta có:
Z = ( Z/t bản cho vay) * 100%
Phần lợi tức cao hay thấp là do tỉ suất lợi tức quy định,đến lợt nó thì tỉ suất lợi tức
lại bị quy định bởi các yếu tố:
Giới hạn cao nhất của tỉ suất lợi tức chính là tỉ suất lợi nhuận bình quân do vậy mà
sự thay đổi của tỉ suất lợi nhuận bình quân cũng dẫn tới sự thay đổi thuận chiều tơng
ứng của tỉ suất lợi tức. Cũng chính vì vậy cho nên,vì tồn tại quy luật giảm dần của tỉ
suất lợi nhuận do đó tỷ suất lợi tức cũng có xu hớng giảm dần.
Tỉ suất lợi tức phụ thuộc vào mối quan hệ cung cầu về t bản cho vay.
Nói tóm lại,xuất phát từ việc nảy sinh mối quan hệ tín dụng TBCN cho nên đã
nảy sinh các nhu cầu cho vay và đi vay đã dẫn tới sự hình thành t bản cho vay và lợi
tức cho vay. Tuy nhiên, quan hệ tín dụng TBCN ở thời kỳ này mới chỉ ở dạng đơn
giản mang tính trực tiếp, tức là nhà t bản cho vay thiết lập trực tiếp mối quan hệ tín
dụng với nhà t bản đi vay. Nhng cùng với sự phát triển của CNTB thì nhu cầu đi vay
và cho vay ngày càng nhiều, các quan hệ tín dụng trong xã hội t bản trở nên trồng
chéo, phức tạp. Do vậy đã đòi hỏi phải xuất hiện một tổ chức đóng vai trò trung gian

15

×