Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn Hoàn thiện quản lý chi đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tỉnh Quảng Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.25 KB, 101 trang )


1




Luận văn
Kinh tế tư nhân trong ngành
thủy sản ở tỉnh Bến Tre

2

Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bến Tre là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành
bởi 3 cù lao lớn. Với địa thế nằm ở cuối nguồn Cửu Long và gần như bao
trùm toàn bộ vùng hạ lưu sông Tiền, bốn nhánh đổ ra biển, đã tạo ra cho Bến
Tre một hệ sinh thái khá độc đáo của một vùng cù lao cửa sông với 65 km bờ
biển, địa hình có nhiều sông ngòi, kênh rạch lớn nhỏ, đây là tiềm năng rất lớn
để Bến Tre phát triển ngành thủy sản. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ VII (2000) đã xác định thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn là
bước đột phá sự tăng trưởng kinh tế của địa phương và chủ trương này được
cụ thể hoá bằng các nghị quyết, chuyên đề về phát triển ngành thủy sản, trong
đó đặc biệt quan tâm về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) trong ngành thủy
sản. Trên thực tế, thời gian qua KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre phát
triển khá mạnh và đã đóng góp rất lớn vào phát triển ngành thủy sản, KTTN
có nhiều kinh nghiệm trong khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy sản. Mặt
khác, KTTN rất linh hoạt, nhạy bén với cơ chế thị trường phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế biển hiện nay. Tuy nhiên, do ảnh hưởng tư duy nhận
thức cũ về KTTN của một số cán bộ xem nhẹ vai trò của KTTN, nên KTTN


chưa phát huy hết vai trò trong phát triển ngành thủy sản nói riêng và phát
triển kinh tế tỉnh nhà nói chung.
Để tiếp tục khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của KTTN và
phấn đấu sớm đưa ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh,
thì cần làm rõ thực trạng KTTN nhằm hoạch định chính sách phù hợp để phát
triển KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre theo nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Chính vì vậy, “Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở tỉnh Bến Tre”

3

được chọn làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kinh tế tư nhân trong quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay đã được
nhiều nhà khoa học quan tâm ở các góc độ, phạm vi, mức độ khác nhau và đã
có nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí…như:
- GS.TS Hồ Văn Vĩnh (chủ biên), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước
đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003. Trong công trình này, tác giả đã đề cập đến vị trí, vai trò của KTTN
trong nền kinh tế nhiều thành phần; vấn đề quản lý của nhà nước đối với
KTTN, thực trạng KTTN ở nước ta, phương hướng, giải pháp, chiến lược
phát triển KTTN trong tình hình hiện nay.
- TS. Hà Huy Thành (chủ biên), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và
tư bản tư nhân- lý luận và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
tác giả đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư
bản tư nhân, đánh giá và phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới, đồng thời trình bày những quan điểm, chính
sách và đề xuất giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực
KTTN trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Luận văn thạc sĩ Phan Mậu Doãn, Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế

thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở tỉnh Đồng Nai, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 2005. Tác giả đã phân tích, đánh giá vị trí, vai trò và
xu hướng vận động của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Phân tích thực trạng KTTN ở tỉnh Đồng Nai, từ đó đề ra những giải
pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của KTTN ở Đồng Nai.
- Cùng một số bài viết của các tác giả: GS.TS Vũ Đình Bách; PGS.TS
Vũ Văn Phúc; PGS.TS Nguyễn Đình Kháng; PGS.TS Ngô Thị Hoài Lam;
GS.TS Nguyễn Thị Doan; TS Nguyễn Văn Lịch.

4

Trong ngành thủy sản, đã có luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Hồng Minh
về đề tài “Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế
biến thủy sản xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay”, năm 1996, luận án này chỉ đề
cập đến việc phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công nghiệp chế
biến thủy sản xuất khẩu chung cho cả nước. Luận án tiến sĩ của Nguyễn
Thành Hưng về đề tài: “Doanh nghiệp nhà nước khai thác, chế biến thủy sản
trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay”, năm 2001, luận án chỉ đề cập
doanh nghiệp nhà nước khai thác, chế biến thủy sản trong phạm vi cả nước…
và một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về ngành thủy sản như:
- “Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản ở tỉnh Kiên Giang”, năm
2000 của thạc sĩ Lê Thị Đào Thanh. Luận văn chỉ đề cập ở góc độ đánh bắt xa
bờ biển, chế biển hải sản (cá nước mặn, nước lợ) ở tỉnh Kiên Giang.
- “Phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên
Giang”, năm 2000 của thạc sĩ Võ Thị Xinh. Luận văn này đề cập vai trò thành
phần KTTN trong công nghiệp khai thác chế biến thủy sản (cá nước mặn,
nước lợ) ở tỉnh Kiên Giang.
- “Phát triển công nghiệp chế biến thủy sản ở tỉnh An Giang”, năm 2001
của thạc sĩ Lưu Vĩnh Nguyên. ở luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến phát triển
công nghiêp chế biến thủy sản nước ngọt trên địa bàn tỉnh An Giang.

Nhìn chung đã có rất nhiều công trình, bài báo, luận án tiến sĩ và luận
văn thạc sĩ nghiên cứu về KTTN nhưng ở góc độ chung của nền kinh tế quốc
dân hoặc nghiên cứu KTTN trong việc khai thác, chế biến thủy sản. Trong khi
đó, ở Bến Tre thủy sản đang trở thành một trong hai ngành chiến lược của
tỉnh, ngành thủy sản ở Bến Tre đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao
tỉ lệ tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho người lao
động. Tuy vậy, việc nghiên cứu KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre chưa
có đề tài nào nghiên cứu một cách độc lập. Vì vậy, vấn đề KTTN trong ngành
thủy sản ở Bến Tre cần được nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện hơn.

5

3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là khẳng định rõ hơn vai trò, tính
tất yếu khách quan của KTTN trong ngành thủy sản, đồng thời thông qua việc
nghiên cứu thực trạng tình hình KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre đã
làm luận cứ khoa học cho việc đưa ra những giải pháp phát triển KTTN trong
ngành thủy sản ở Bến Tre.
- Với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Làm rõ vai trò KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre
trong những năm gần đây để tìm ra những vấn đề cần giải quyết trong phát
triển KTTN ngành thủy sản.
+ Từ thực trạng, xác định phương hướng và đề ra các giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy hiệu quả KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre thời gian tới.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là KTTN trong ngành thủy sản
ở Bến Tre, thời gian khảo sát chủ yếu những năm gần đây.
4. Cơ sở ký luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, những chủ trương, chính sách của Nhà nước về các thành phần kinh tế
nói chung, KTTN nói riêng. Ngoài ra, luận văn kế thừa có chọn lọc các kết
quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, phương pháp lôgíc
và lịch sử. Ngoài các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác-
Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp,
so sánh…

6

5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn vận dụng lý luận chung vào phân tích tình hình cụ thể trong
một lĩnh vực ở địa phương nhằm làm rõ vai trò KTTN trong ngành thủy sản ở
Bến Tre. Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp có tính khả thi để phát triển
KTTN ngành thủy sản ở Bến Tre trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ việc nghiên cứu, phân tích thực trạng, đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm phát triển KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre theo định hướng
XHCN. Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ
quan, ban ngành trong tỉnh tham khảo, hoạch định chính sách nhằm phát triển
KTTN trong ngành thủy sản ở Bến Tre nói riêng và phát triển kinh tế- xã hội
nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.










7

Chương 1
Vai trò kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản
ở bến tre

1.1. kinh tế tư nhân và đặc điểm của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản
1.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Trong lịch sử phát triển của Việt Nam, sở hữu tư nhân và KTTN đã ra đời
trước và có một quá trình phát triển lâu dài, cho đến khi chúng ta đã tiến hành
các đợt cải tạo XHCN, phát triển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, thì KTTN
bị coi là không đồng hành với quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), do đó
nó đã không được thừa nhận về mặt nhận thức, quan điểm và pháp lý. Do đó,
việc thừa nhận và tạo mọi điều kiện khuyến khích phát triển KTTN, coi mọi
thành phần kinh tế điều là những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân là cả một quá trình phát triển không ngừng về tư duy nhận thức. Quá
trình đó đã gắn liền với trình đổi mới toàn diện của đất nước chuyển nền kinh tế
từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế tư nhân được Đảng và Nhà nước ta thừa nhận là một bộ phận
cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm qua, thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, KTTN phát triển rộng khắp cả nước trên tất cả các lĩnh
vực. Đánh giá vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khoá IX đã khẳng định:
KTTN là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân. Phát triển KTTN là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan
trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập
kinh tế quốc tế [14, tr.363- 364].

8

Đây là quan điểm của Đảng về phát triển KTTN trong thời kỳ đổi mới.
Để đưa ra được quan điểm này Đảng ta phải trải qua một quá trình nghiên
cứu, thử nghiệm và tổng kết thực tiễn.
Thật vậy, sau năm 1975 mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung ở miền
Bắc được áp dụng vào miền Nam. Cho đến giữa những năm 1980, mô hình
kinh tế này được áp dụng rộng rãi trên phạm vi cả nước, nền kinh tế lâm vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Trước tình hình đó, công cuộc đổi mới
được khởi xướng, trong đó, nhận thức về KTTN cũng từng bước đổi mới. Đến
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã thừa nhận
sự tồn tại khách quan của KTTN bao gồm kinh tế tiểu sản xuất- hàng hoá, tiểu
thương, tư sản nhỏ. Đại hội đã chỉ rõ:
Kinh tế gia đình có vị trí quan trọng và có khả năng dồi dào,
cần được khuyến khích và giúp đỡ phát triển. Đối với kinh tế tiểu
sản xuất hàng hoá, nhà nước thừa nhận sự cần thiết của bộ phận
kinh tế này trong thời kỳ quá độ. Đối với tiểu thương, thông qua
nhiều hình thức tuỳ theo ngành hàng, để sắp xếp, cải tạo và sử dụng
họ thành lực lượng bổ sung cho thương nghiệp XHCN…Nhà nước
cho phép những nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến thức kỹ thuật và
quản lý của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh trong một số ngành
nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết trong

cả nước [10, tr.59-60].
Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khoá VI đã làm rõ thêm quan điểm về phát triển KTTN:
Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực
của kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, KTTN sản xuất, dịch vụ; bảo hộ
quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của công
dân trong các loại hình kinh tế này; thừa nhận tư cách pháp nhân và

9

bảo đảm địa vị bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của họ; xoá bỏ mọi định kiến hẹp hòi và phân biệt đối
xử về mặt chính trị và xã hội với họ và con cái họ [17, tr.96].
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) nêu rõ quan điểm: Thực
hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi
năng lực sản xuất và coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh
thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp
luật. Nghị quyết nhấn mạnh: Trong điều kiện của nước ta, các hình thức
KTTN; cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế
và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá đi lên CNXH.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã xác định
rõ hơn quan điểm của đảng đối với KTTN là:
KTTN được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự
quản lý, hướng dẫn của Nhà nước; trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ
có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ
chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con
đường tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức [11, tr.69].
Một trong những cơ sở pháp lý quan trọng và có hiệu lực cao nhất bảo
đảm cho sự phát triển lâu dài và bình đẳng của các doanh nghiệp ngoài quốc

doanh là Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp đã xác định nền kinh tế nước ta là:
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN và ghi nhận sự tồn tại của thành phần
kinh tế cá thể và tư bản tư nhân. Điều 21 của Hiến pháp có quy định rõ: “Kinh
tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô
hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia
đình được khuyến khích phát triển”.

10
Hiến pháp thừa nhận sự tồn tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu,
bảo hộ vốn và tài sản hợp pháp của người kinh doanh lần đầu tiên kể từ năm
1954, sở hữu tư nhân đã được Hiến pháp thừa nhận và coi là một trong ba chế
độ sở hữu chủ yếu của nền kinh tế. Có thể nói, Hiến pháp năm 1992 đã đặt
những nền móng vững chắc cho sự phát triển lâu dài và ổn định của KTTN.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng làm rõ thêm quan điểm đối với phát triển
KTTN, cụ thể là:
Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về
vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm,
hướng dẫn họ từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện
hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã.
Khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn
lâu dài, bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo điều kiện
thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng
pháp luật, có lợi cho quốc kế dân sinh [12, tr.26].
Hội nghị Trung ương 6 khoá VIII (lần 1) nhấn mạnh hơn nữa các chính
sách đối với KTTN là:
Giải phóng và phát huy mọi lực lượng, mọi tiềm năng, tạo
điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả…Tạo môi trường và điều

kiện thuận lợi cho KTTN phát triển không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm,
khắc phục sự giảm sút của khu vực kinh tế này [17, tr.304,316].
Đại hội IX của Đảng (4/2001) tiếp tục khẳng định:
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định

11
hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả thành
thị và nông thôn có vị trí quan trọng lâu dài, nhà nước tạo điều kiện
giúp đỡ để phát triển…Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư
nhân rộng rãi trong những ngành nghề kinh doanh mà pháp luật
không cấm, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp
lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển [13, tr.96, 98].
Quán triệt quan điểm của Đại hội lần thứ IX, Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách
khuyến khích và tạo điều kiện phát triển KTTN (tháng 3/2002) chỉ rõ: Phát
triển KTTN ở những ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, đồng thời chú
trọng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của KTTN, đảm
bảo định hướng XHCN của nền kinh tế nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của
hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Đến Đại hội X của Đảng (4/2006) đã xác định vai trò quan trọng của
KTTN trong phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đại hội nhấn mạnh:
Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ
phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác

và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
KTTN có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền
kinh tế [15, tr.83].
Đặc biệt ở Đại hội X Đảng ta đã cho phép đảng viên làm KTTN trong
các ngành nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng mà pháp luật không
cấm đã có tác dụng khuyến khích mạnh mẽ phát triển KTTN, tạo điều kiện

12
cho KTTN được phát huy đầy đủ tiềm năng thế mạnh, tạo sức bật lớn cho nền
kinh tế. Đây được coi là bước đột phá mới về nhận thức phát triển KTTN.
Thực hiện quan điểm Đại hội X, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương khoá X đã đưa ra những quy định đảng viên làm KTTN, cụ thể như sau:
Đảng viên làm KTTN phải trực tiếp tham gia lao động (lao
động quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh; lao động kỹ thuật
hoặc lao động chân tay); có quyền kinh doanh các ngành, nghề mà
pháp luật không cấm; phải gương mẫu và nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật, Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung
ương [18, tr.34].
Từ quan điểm và đường lối của Đảng đối với KTTN, Nhà nước cũng đã
có những đổi mới cơ chế đối với KTTN mà tập trung nhất là ban hành Luật
Doanh nghiệp (Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999 thay thế cho Luật Công ty
và Luật Doanh nghiệp tư nhân). Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp đánh dấu
một mốc mới, là bước ngoặt thúc đẩy KTTN phát triển mạnh mẽ. Luật doanh
nghiệp đã tạo điều kiện pháp lý thuận lợi cho tư nhân trong việc thành lập và
tổ chức sản xuất kinh doanh. Ngoài Luật doanh nghiệp, Quốc hội cũng ban
hành một số luật có liên quan đến KTTN như Luật Thương mại, Luật Các tổ
chức tín dụng, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp…
Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới, là
một bước đột phá nhằm tiến tới xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành

phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Nhìn lại công cuộc đổi mới của đất nước cho thấy rằng đó là một quá
trình đầy khó khăn phức tạp, nhưng rồi hướng đi đã được xác định rõ. Đó là
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, những rào
cản đối với KTTN được xoá bỏ. Những quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đã ngày khẳng định sự tồn tại của khu vực

13
KTTN không chỉ là tất yếu khách quan mà còn là cần thiết để làm cơ sở cho
việc hoạch định chính sách phát triển nền kinh tế.
Như vậy, chính sách kinh tế nhiều thành phần ngày càng được nhận
thức rõ hơn và có nhiều chủ trương khuyến khích phát triển và các chính sách
hỗ trợ. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện
thuận lợi cho KTTN phát triển. Trong những năm đổi mới toàn diện đất nước,
cùng với những thành tựu chung của cả nền kinh tế đã đạt được KTTN đã tự
khẳng định được vị trí, vai trò của mình.
1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân
Theo Mác, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất có vai trò phản ánh
đặc trưng của hình thức quan hệ kinh tế nói chung cũng như hình thức tổ chức
kinh tế nói riêng; nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và phân
phối kết quả sản xuất. Như vậy, có thể nhận thức rằng, KTTN được đặc trưng
bởi sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Mặc dù trong các tài liệu nghiên cứu
của Mác và Lênin không sử dụng thuật ngữ KTTN, nhưng các ông thường đề
cập đến các thuật ngữ sở hữu tư nhân, sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, lao
động tư nhân.
Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, nền kinh tế được phân chia
thành ba khu vực chủ yếu là kinh tế nhà nước, KTTN, kinh tế hỗn hợp. Nền
kinh tế của Trung Quốc hiện nay cũng được chia thành hai khu vực: khu vực
kinh tế công hữu (gồm kinh tế quốc hữu và kinh tế tập thể) và kinh tế phi
công hữu (gồm KTTN và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài). Nhìn chung,

những sự phân chia trên chủ yếu dựa trên quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và
vốn. ở Việt Nam trước năm 1986, KTTN không được thừa nhận là hoạt động
hợp pháp nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần là kinh tế nhà nước và kinh tế
tập thể. Từ khi đổi mới, Đảng ta đã thừa nhận sự tồn tại của cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, trong đó có KTTN. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

14
quốc lần thứ X đã xác định nền kinh tế quốc dân ở nước ta hiện nay gồm 5
thành phần kinh tế. Đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, KTTN
bao gồm: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân.
Như vậy, KTTN là một khu vực kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất hoặc vốn với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh như
doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ
sở kinh tế cá thể, tiểu chủ…KTTN không phải là một thành phần kinh tế
thuần tuý mà là phạm trù để chỉ thành phần kinh tế hỗn hợp bao gồm các bộ
phận cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ
về tư liệu sản xuất và hoạt động chủ yếu vào sức lao động của chính họ, tồn
tại chủ yếu dưới hình thức hộ sản xuất kinh doanh.
Kinh tế tiểu chủ là bộ phận kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê; hình
thức tồn tại chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành cơ quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, phát triển KTTN là vấn đề có tầm chiến lược lâu dài trong quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.

Tiêu thức cơ bản để xác định một thành phần kinh tế, một hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh nào đó có thuộc KTTN hay không là quan hệ sản
xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. KTTN không phải là một
thành phần kinh tế thuần tuý, mà là một phạm trù để chỉ nhóm thành phần

15
kinh tế vừa có những đặc trưng chung lại vừa có bản chất khác nhau. Do đó,
để xác định bản chất của KTTN phải xét trên cả 3 mặt quan hệ sản xuất, đó là
quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối thu nhập
- Xét về quan hệ sở hữu: KTTN thể hiện quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất hoặc vốn cũng như của cải vật chất được tạo ra nhờ sản xuất hoặc vốn
đó. Trong quá trình phát triển của sản xuất xã hội, sở hữu tư nhân cũng phát
triển từ trình độ thấp đến trình độ cao. Trình độ thấp là sở hữu tư nhân nhỏ,
đây là hình thức tư hữu của những người lao động tự do sản xuất ra sản phẩm
bằng sức lao động của chính mình và của các thành viên trong gia đình. Trình
độ cao là sở hữu tư nhân lớn, sở hữu này phát triển từ sở hữu tư nhân nhỏ,
nhưng khi đã trở thành sở hữu tư nhân lớn thì nó lại là cơ sở làm nảy sinh
mâu thuẫn nhất định giữa chủ sở hữu và lao động làm thuê. Vì vậy, những
hình thức khác nhau của sở hữu tư nhân thường là những hình thức đặc trưng
của các phương thức sản xuất khác nhau. Chẳng hạn như: sở hữu tư nhân của
chủ nô và phường hội đặc trưng cho phương thức sản xuất phong kiến, sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa đặc trưng cho phương thức sản xuất sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
- Xét về quan hệ quản lý: xuất phát từ quan hệ sở hữu của KTTN, quan
hệ quản lý của khu vực này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân
nhỏ và quan hệ quản lý dựa rên sở hữu tư nhân lớn.
Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tổ
chức, phân công công việc trong nội bộ gia đình, giữa các thành viên trong
gia đình với nhau. Dựa trên quyền lực của người chủ gia đình, các thành viên
trong gia đình có nghĩa vụ phục tùng sự phân công, điều khiển, quản lý của

người chủ gia đình đối với các vấn đề sản xuất kinh doanh. Quan hệ giữa
người chủ và các thành viên trong gia đình không phải là quan hệ bóc lột mà
nó mang tính chất gia trưởng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, nhiều hộ

16
cá thể do nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất đã thuê thêm lao động ngoài gia
đình. Như vậy, đã xuất hiện mầm móng của quan hệ bóc lột, nhưng chừng
nào người chủ hộ chưa thoát khỏi hoạt động lao động trực tiếp thì ranh giới
giữa bóc lột và không bóc lột chưa được xác định một cách rõ ràng.
Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn đây là quan hệ giữa chủ
thể quản lý với đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Chẳng hạn như quan
hệ giữa người chủ doanh nghiệp với lao động. Quan hệ này xét về bản chất là
quan hệ bóc lột. Bóc lột ở đây phải được xem xét nghiên cứu trong điều kiện
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong điều kiện ở nước ta hiện
nay, xét sự bóc lột phải đặt trong mối quan hệ sau:
+ Trong điều kiện nước ta cung lao động nhiều hơn cầu về lao động thì
bất cứ ai bỏ vốn ra kinh doanh, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động
điều được khuyến khích.
+ Khi người lao động đồng thời là người sử dụng lao động, nhưng do
chất lượng lao động kém nên thu nhập thấp, đồng ý tự nguyện ký hợp đồng
lao động cho một người sử dụng lao động khác có thu nhập cao gấp nhiều lần.
Trong trường hợp này không nên hiểu đây là bóc lột và bị bóc lột. Bởi vì, chỉ
khi nào người lao động bán sức lao động cho chủ tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng như C.Mác nói thì mới có quan hệ bóc lột và bị bóc lột.
- Xét về quan hệ phân phối: về thực chất phân phối là việc giải quyết
mối quan hệ về lợi ích kinh tế các cá nhân tham gia vào quá trình tái sản xuất
kinh doanh. Do vậy, việc phân phối nếu không đảm bảo được lợi ích của các
cá nhân sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất kinh doanh khó có thể đạt
được hiệu quả cao.
Trong KTTN, quan hệ phân phối được dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân,

do chủ tư nhân thực hiện. Đối với các cơ sở tư nhân mà người sở hữu đồng

17
thời là người lao động, không thuê mướn nhân công, thì phân phối kết quả sản
xuất được thực hiện trong nội bộ gia đình của các hộ kinh doanh nhằm đảm
bảo nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Còn đối với các cơ sở tư nhân
lớn, chủ sở hữu sử dụng lao động làm thuê thì phân phối kết quả sản xuất căn
cứ vào giá trị sức lao động của người lao động làm thuê để trả công lao động
cho họ, còn phần thặng dư thuộc về người sở hữu.
Kinh tế tư nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, sở hữu tư nhân gồm sở hữu tư nhân nhỏ (sở hữu của những người
lao động làm ra sản phẩm bằng chính lao động của họ và các thành viên trong
gia đình như hộ nông dân cá thể…) và sở hữu tư nhân lớn-sở hữu vốn, tài sản
của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam. KTTN bao gồm các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh sau:
- Loại hình kinh tế cá thể: là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay
một cá nhân hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản
xuất và hoạt động chủ yếu vào sức lao động của chính họ.
Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong loại
hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp, đây là bộ
phận cấu thành quan trong của KTTN.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ
về tư liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ
yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình (đó là những hộ
làm kinh tế trang trại, kinh tế trang trại chính là một hình thức của kinh tế tiểu
chủ trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp)
Kinh tế cá, thể tiểu chủ đang có vị trí quan trọng trong nhiều ngành,
nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm
năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động.


18
- Loại hình doanh nghiệp tư nhân (được thành lập theo Luật Doanh
nghiệp) là doanh nghiệp do một cá nhân là chủ và tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
tư nhân là một trong những loại hình kinh doanh phổ biến nhất trong các loại
hình doanh nghiệp của KTTN.
- Loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần: là
doanh nghiệp mà trong đó các thành viên là tư nhân cùng góp vốn (công
ty trách nhiệm hữu hạn), mua cổ phần (công ty cổ phần) để thực hiện kinh
doanh. Các thành viên được hưởng lợi nhuận và cùng chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào
doanh nghiệp.
Tóm lại: KTTN nếu xét về thành phần kinh tế theo tinh thần Đại hội X
của Đảng thì bao gồm 3 bộ phận: cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Đứng
trên giác độ các hình thức tổ chức sản xuất, thì cũng có thể nói KTTN tồn tại
ở các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và
các hộ, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.1.3. Ngành thủy sản và vai trò của kinh tế tư nhân trong ngành
thủy sản
1.1.3.1. Vị trí của ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế
Kinh tế thủy sản là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân,
Đảng ta chủ trương phát triển mạnh kinh tế thủy sản trong những năm tới,
nhằm tạo thêm lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân và
xuất khẩu, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, gắn sản
xuất thủy sản với các mục tiêu xã hội, an ninh quốc phòng trên cơ sở phát
triển bền vững. Đại hội X đã nhấn mạnh:
Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hoá
lớn đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; chuyển đổi cơ cấu khai

19

thác qua việc lựa chọn ngư trường, loại hình nghề nghiệp và sản
phẩm để nâng cao giá trị hàng hoá sử dụng hợp lý nguồn lợi, giảm
chi phí, nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững
[18, tr.192].
Đối với hầu hết các nước, ngành thủy sản có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế, đặc biệt đối với những nước có vùng biển và vùng nước nội địa
phong phú. Việt Nam là nước có mặt biển rộng với hơn 3.200km bờ biển, có
nhiều hồ và sông suối trong đất liền, có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi
trồng thủy sản ở khắp mọi miền đất nước cả về nuôi ở vùng nước lợ và nước
ngọt. Phát triển ngành thủy sản có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta,
thể hiện trên các mặt sau đây:
- Ngành thủy sản cung cấp những sản phẩm thực phẩm quý cho tiêu dùng
của dân cư, cung cấp nguồn nguyên liệu cho phát triển một số ngành khác.
Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng
định hầu hết các loại thủy sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hoá,
phù hợp với mọi lứa tuổi. Thuỷ sản ngày càng được tin tưởng như một loại
thực phẩm ít gây bệnh (tim mạch, béo phì…) và ít chịu ảnh hưởng của ô
nhiễm hơn. Xét về thành phần dinh dưỡng cho thấy: so với các loại thịt, các
loại thực phẩm là thủy sản ít chứa mỡ hơn, nhiều chất khoáng hơn nhưng chất
đạm khá cao. Chẳng hạn trong thịt bò, tỉ lệ tính theo phần trăm của đạm là
16,2%-19,2%, của mỡ là 11-18%, chất khoáng là 0,8-1,0%, cũng tương tự
theo tỉ lệ nói trên trong cá thu có thứ tự là 18,6%, 0,4% và 1,2%, ở cá hồng là
17,8%, 5,9% và 1,4% [19, tr.7].
Ngành thủy sản cung cấp một phần thức thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt
cho chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Mặt khác, ngành thủy sản cung cấp
nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và một số ngành công nghiệp khác.
Nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp chế biến thực phẩm gồm tôm, cá,
nhuyễn thể, rong biển…Ngoài ra, các nguyên liệu thủy sản còn được sử dụng

20

làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ nghệ…
- Phát triển ngành thủy sản sẽ đóng góp quan trọng tăng trưởng tốc độ
kinh tế cả nước nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
Ngành thủy sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia
tăng.Vì vậy, phát triển mạnh ngành thủy sản, đặc biệt phát triển công nghiệp
chế biến thủy sản, sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành nông
nghiệp. Trong những năm qua, tỉ trọng đóng góp của khu vực nông, lâm, thủy
sản vào tốc độ tăng trưởng chung có xu hướng giảm xuống rõ rệt từ 38,1%
năm 1986 xuống còn 20,9% năm 2005 [18, tr.56]. Đây là xu hướng phù hợp
với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong khi tỉ
trọng đóng góp vào tăng trưởng của ngành thủy sản lại tăng lên từ 10,9% lên
19,6% vào năm 2004. Ngành thủy sản đã thật sự trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của đất nước. Cùng với việc tăng cường năng lực đánh bắt xa bờ cho
ngư dân, phong trào nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm, nuôi cá tra, cá
basa, cá rô, cá lóc, ba ba… phát triển hết sức mạnh mẽ ở các địa phương, nhất
là vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng ven biển Nam Trung bộ. Sự phát
triển nhanh chóng của ngành thủy sản nước ta trong những năm qua chúng ta
có thể thấy rõ qua bảng số liệu sau:
Bảng 1.1: Sản lượng và diện tích nuôi thủy sản cả nước
Năm
Tổng sản
lượng thủy
sản (tấn)
Sản lượng
nuôi thủy
sản (tấn)
Sản lượng
khai thác
hải sản
(tấn)

Tổng số tàu
thuyền(chiếc)

Diện tích
mặt nước
nuôi thủy
sản (ha)
2001 2.226.900 879.100 1.347.800 78.978 887.500
2002 2.410.900 976.100 1.434.800 81.800 955.000
2003 2.546.361 1.110.138 1.426.223 83.122 902.229
2004 3.073.600 1.150.100 1.923.500 85.430 902.900
2005 3.432.800 1.437.400 1.995.400 90.880 959.900

21
(Nguồn www.Fistenet.gov.vn)
Bảng trên cho chúng ta thấy sản lượng năm 2005 so với năm 2001 tăng
1,7 lần trong đó sản lượng khai thác tăng 1,5 lần, còn sản lượng nuôi tăng gấp
2 lần so với năm 2001. Như vậy là tốc độ tăng trưởng của nuôi trồng thủy sản
là rất nhanh, nhất là những năm gần đây.
- Ngành thủy sản phát triển, không chỉ tạo ra nhiều công ăn việc làm,
tăng thu nhập cho người dân (có người đã trở nên giàu có), đáp ứng đủ cá,
muối, nước mắm cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong nước, mà còn tạo ra
những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao đưa lại nguồn ngoại tệ ngày càng lớn
cho đất nước.
Trong nhiều năm qua, ngành thủy sản nước ta từng bước phát triển và
có đóng góp quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của đất nước. Năm 2000,
tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu đã vượt qua mức 2 triệu tấn, giá trị kim
ngạch xuất khẩu 1,478 tỉ USD, đến năm 2002 xuất khẩu thủy sản vượt mốc 2
tỉ USD (đạt 2,014 tỉ USD). Năm 2003, mặc dù ngành thủy sản nước ta phải
đối mặt với những diễn biến phức tạp của thị trường thế giới, những rào cản

thương mại của một số nước, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản vẫn
đạt 2,19 tỉ USD (bằng 1,5 lần so với năm 2000), trong đó giá trị xuất khẩu
tôm đạt trên 1tỉ USD đã khẳng định vị trí xuất khẩu tôm trên thị trường thế
giới và trong nghề nuôi trồng thủy sản nước ta. Năm 2005, ngành thủy sản
bằng sự nỗ lực phấn đấu liên tục, không mệt mỏi, vượt qua những khó khăn
khách quan và chủ quan, đã hoàn thành các chỉ tiêu cơ bản mà ngành đã xây
dựng, tổng sản lượng đạt 3,43 triệu tấn, tăng 9,24% so với năm 2004. Kim
ngạch xuất khẩu đạt 2,73 tỉ USD tăng 13% so với năm 2004 và bằng 18,5%
so với năm 2000. Năm 2006, xuất khẩu thủy sản đạt 2,8 tỉ USD, tăng 5,66%
so với năm 2005. Tính chung 5 năm 2001-2005, tổng giá trị kim ngạch xuất
khẩu thủy sản đạt trên 11tỉ USD, chiếm khoảng 9% tổng giá trị xuất khẩu của

22
cả nước. Đặc biệt cơ cấu sản phẩm của kinh tế thủy sản cũng được thay đổi
mạnh mẽ theo hướng tăng tỉ trọng nuôi trồng, tăng tỉ trọng sản phẩm có giá trị
cao, nhất là sản phẩm xuất khẩu.
Đối với các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, đến nay đã có
những bước tiến triển quan trọng trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao
sức cạnh tranh. Đã có hơn 171 doanh nghiệp được EU công nhận đủ điều
kiện an toàn vệ sinh, có hơn 120 doanh nghiệp được cấp phép vào thị
trường Mỹ, 320 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Hàn Quốc. Các
doanh nghiệp cũng từng bước nâng cao năng lực xúc tiến thương mại để đi
vào các thị trường mới. Đối với toàn bộ ngành thủy sản, đã có những tiến
bộ đáng kể về gắn kết giữa yêu cầu của thị trường ngoài nước (về số lượng,
chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm) với thực tiễn sản xuất kinh doanh
chế biến, nuôi trồng, khai thác và phát triển cơ sở hậu cần dịch vụ; gắn kết
giữa khâu chế biến xuất khẩu với yêu cầu vệ sinh trong nuôi trồng, bảo
quản và khai thác sản phẩm, gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với chế
biến phục vụ nhu cầu thị trường nội địa. Hiện nay sản phảm thủy sản Việt
Nam đã xuất khẩu sang 75 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng quy

mô thị trường còn nhỏ bé, kể cả thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU… Vì vậy,
cần tiếp tục mở rộng các thị trường này. Muốn vậy, cần phải đảm bảo ổn
định và chủ động về sản lượng, an toàn về vệ sinh và chất lượng sản phẩm
xuất khẩu.
- Phát triển ngành thủy sản góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội
của đất nước.
Với nhiều lợi thế đặc biệt về mặt nước và nguồn lợi thủy sản, phát triển
mạnh mẽ nước ta sẽ góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nói
chung và kinh tế-xã hội nông thôn nói riêng. Về mặt kinh tế, những địa
phương thuộc duyên hải Trung bộ hoặc Tây Nam bộ, phát triển thủy sản là

23
ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của địa phương. ở các địa
phương không có tiềm năng về biển, đặc biệt vùng nông thôn ngoại thành
phát triển thủy sản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
nhằm đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao. Về mặt xã hội, ở các vùng nghèo, vùng
sâu phát triển nuôi thủy sản ao, hồ, sông tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu
nhập cho nhân dân. Việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thủy sản tại chỗ
ở các vùng này còn góp phần trực tiếp cải thiện dinh dưỡng. Ngoài ra, các
trạm tàu khai thác thủy sản xa bờ còn góp phần tăng cường an ninh quốc
phòng cho vùng biên giới biển đảo của Tổ quốc. Đối với một số vùng biển,
vùng ngập nước ven biển hay trong đất liền, phát triển thủy sản cũng góp
phần vào phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, du lịch văn
hoá.
Ngành thủy sản có vị trí to lớn trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt đối
với những nước có nhiều tiềm năng và nguồn lợi thủy sản như nước ta. Vị trí
to lớn của ngành thủy sản Việt Nam được thể hiện rõ trên các mặt như: cung
cấp cấp những sản phẩm quý cho tiêu dùng nguyên liệu cho phát triển một số
ngành khác; đóng góp vào tăng trưởng chung của toàn ngành nông nghiệp;
tham gia vào xuất khẩu thu ngoại tệ và góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội

của đất nước.
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản
Để đánh giá vai trò của một khu vực kinh tế, các nước thường sử dụng
ba chỉ số cơ bản, đó là: tỉ trọng của nó trong GDP, tỉ trọng trong huy động
vốn kinh doanh và tỉ lệ thu hút lao động xã hội (tạo việc làm). Ngoài ra các
nước còn sử dụng một số chỉ tiêu khác để đánh giá vai trò của KTTN trong
tăng trưởng kinh tế nói chung hay trong phát triển một số ngành cụ thể nói
riêng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, KTTN có điều kiện phát triển với

24
nhiều hình thức và quy mô khác nhau. Hàng chục ngàn doanh nghiệp tư nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần ra đời và hoạt động trong nhiều
ngành nghề, nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thủy sản. Trong những năm
gần đây, KTTN trong ngành thủy sản phát triển khá mạnh đặc biệt là các
doanh nghiệp chế biến thủy sản của tư nhân tăng nhanh, nhiều doanh nghiệp
tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng đầu, một số doanh nghiệp chế
biến thủy sản xuất khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD mỗi
năm. Bằng sự năng động, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, KTTN đã
khẳng định vai trò của mình trong sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung và
phát triển ngành thủy sản nói riêng. Vai trò quan trọng đó của KTTN thể hiện
ở những mặt sau:
Một là, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp
phần xoá đói giảm nghèo. Một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay mà lãnh
đạo Đảng và chính quyền các cấp quan tâm đó là giải quyết việc làm cho
người lao động. Giải quyết việc làm không chỉ đảm bảo đời sống cho người
lao động mà còn là điều kiện quan trọng để đảm bảo duy trì tốt an ninh xã hội.
Hàng năm ở nước ta số người bổ sung vào lực lượng lao động khoảng 1,4
triệu người. Đây là nguồn lực lớn nhưng khai thác được nguồn lực này không
phải đơn giản. Do đó, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của các tầng lớp

dân cư không chỉ là những vấn đề kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Phát triển KTTN trong ngàng thủy sản sẽ tạo ra nhiều khả năng thuận
lợi để huy động nhiều hơn nguồn nhân lực vì:
+ Kinh tế tư nhân sử dụng lao động tại chỗ nên hầu như không phải
giải quyết nơi ăn chốn ở cho người lao động, đa số trong khu vực KTTN là
lao động tại gia.
+ Điều kiện đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi hơn so với
các khu vực kinh tế khác. Hầu hết họ được đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp

25
của người nhà đã có tay nghề, do đó chi phí đào tạo không đáng kể. Cụ thể,
chi phí vốn để đào tạo ra một chỗ làm của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
cao hơn hàng chục lần so với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước lại cao hơn 4 lần so với doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN.
Hiện nay cả nước có 69,2 vạn hộ thủy sản, tăng 35,2% so với năm
2001, bình quân mỗi năm tăng 6,2%, riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long
tăng 12 vạn hộ. Năm 2006, cả nước có 34.202 trang trại nuôi thủy sản chiếm
30,1% trong tổng số trang trại, bình quân mỗi trang trại thuê trên 3 lao động,
thu nhập bình quân một lao động làm việc thường xuyên của một trang trại là
17,5 triệu đồng/năm [2, tr.16].
Nhờ tạo việc làm cho người lao động, trong ngành thủy sản KTTN
đã góp phần tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư, cải thiện đời sống nhân
dân. Hiện nay, số hộ có thu nhập lớn từ thủy sản là 9.350 hộ chiếm 67,9%
trong tổng số hộ nuôi thủy sản cả nước. Thu nhập tăng nên vốn tích luỹ
trong dân cũng tăng, vốn tích luỹ bình quân của hộ thủy sản là 11,3 triệu
đồng vào năm 2006.
Như vậy, có thể nói trong điều kiện lực lượng lao động ở nước ta ngày
càng tăng, tỉ lệ thất nghiệp còn cao, trong khi khu vực kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể khả năng thu hút lao động rất hạn chế thì KTTN ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng của mình trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập

cho người lao động góp phần xoá đói giảm nghèo.
Hai là, KTTN khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được Đảng ta khởi xướng
từ Đại hội VI là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước
ta, nhằm mục đích huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho phát
triển kinh tế-xã hội. Những chủ trương đó đã được tiếp tục khẳng định qua
các kỳ đại hội Đảng, được cụ thể hoá bằng các văn bản, pháp luật của Nhà

×