Luận văn
Hoạt động quản lý và kinh doanh
ngoại hối của Ngân Hàng Nhà
Nước Việt Nam
MỤC LỤC
Luận văn 1
Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam 1
MỤC LỤC 2
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 5
I.MỤC ĐÍCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 5
1.Khái niệm 5
2.Mục đích quản lý ngoại hối 5
2.1.Điều tiết tỷ giá, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia 5
2.2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước 6
2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế 6
II.CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI 6
1.Cơ chế tự do ngoại hối 6
2. Cơ chế quản lý 6
2.1.Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn 7
2.2. Cơ chế quản lý có điều tiết 7
III.HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI CỦA NHTW 7
1.Hoạt động mua bán ngoại hối 7
1.1. Mua bán trên thị trường trong nước 7
1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế 8
2.Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW 8
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH NGOẠI HỐI CỦA NHNN VIỆT NAM TỪ 2009 ĐẾN
NAY 10
2.1.Thực trạng hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2009-2011 10
2.2.Nguyên nhân gây sụt giảm dự trữ ngoại hối 12
2.3.Những tác động của việc sụt giảm quy mô dự trữ ngoại hối tới nền kinh tế giai đoạn 2009-
2011 16
2.3.2: Những mặt hạn chế: 23
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI 32
1.1.Định hướng về quản lý dự trữ ngoại hối của Việt nam trong thời gian tới 32
1.2.Các nhóm giải pháp hoàn thiện công tác quản lý dự trữ ngoại hối 34
1.2.1.Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dự trữ ngoại hối 34
1.2.2. Nhóm giải về pháp gia tăng quy mô dự trữ 39
1.2.3.Nhóm giải pháp tăng hiệu quả sử dụng và an toàn ngoại hối dự trữ: 44
LỜI NÓI
ĐẦU
Quản lý ngoại hối là một nhiệm vụ quan trọng của NHNN trong việc
hoạch định và thực hiện chính sách tiền tệ. chính sách quản lý ngoại hối
hiệu quả sẽ góp phần đáng kể trong cân bằng cán cân thanh toán, kiểm soát
sức mua của đồng tiền,kiềm chế lạm phát, tận dụng nguồn vốn trong
nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện ổn định và phát triển nền
kinh tế
Cùng với sự biến động của nền kinh tế , chính sách quản lý ngoại hối
đã được đổi mới triệt để về tư duy lẫn điều hành. Chính sách nới lỏng quản
lý ngoại hối đã dần dần thay thế chính sách độc quyền kiểm soát và kinh
doanh ngoại hối nhà nước. Cơ chế điều hành tỷ giá cũng được thay đổi căn
bản từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có kiểm soát. các
công cụ quản lý ngoại hối được sử dụng tương đối có hiệu quả. Bên cạnh
những thành quả đạt được, trong những năm vừa qua,
chính
sách quản lý
ngoại hối vẫn còn những tồn tại nhất định. Đó là, tỷ giá chưa thật sự phản
ánh đúng cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Sự kết hợp giữa chính sách
quản lý ngoại hối với các chính sách quản lý vĩ mô đã có nhưng chưa hài
hòa.
Để có thể hiểu thêm về hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt
Nam trong thời gian qua, trong quá trình học cũng như trong quá trình
nghiên cứu viết tiểu luận
môn
họ
c “Ngân hàng trung ương” em lựa chọn đề
tài : “Hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của Ngân Hàng Nhà Nước
Việt Nam”
Mặc dù đã được trang bị những kiến thức cơ bản trong môn học “Ngân
hàng trung ương”, nhưng với trình độ có hạn cũng như còn nhiều hạn chế
trong quá trình nghiên cứu tài liệu chắc chắn bài viết không tránh khỏi thiếu
sót. Nhóm em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo
C H
Ư Ơ
NG 1 : KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
I. MỤC ĐÍCH QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1. Khái niệm
Ngoại hối là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hóa giữa
các quốc gia. Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy
tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.
Ngoại hối trong đó đặc biệt là ngoại tệ có vai trò quan trọng, nó là
phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, phương tiện thanh toán và
hạch toán quốc tế, được các nước chấp nhận là đồng tiền quốc tế, ví dụ: đôla
Mỹ, bảng Anh, Frăng pháp.
Đối với những nước mà đồng tiền được tự do chuyển đổi, dự trữ
ngoại hối là công cụ can thiệp, điều chỉnh nhằm thiết lập thế cân bằng giữa
các đồng tiền trong trật tự tiền tệ quốc tế, phục vụ chính sách kinh tế.
Đối với những đồng tiền không được tự do chuyển đổi, dự trữ ngoại
hối là lực lượng để can thiệp thị trường nhằm duy trì sự ổn định tỉ giá hối
đoái của đồng bản tệ.
Với tư cách là cơ quan duy nhất có nhiệm vụ phát hành tiền, xây dựng
và thực thi chính
sách
ti
ền
tệ, lập và theo dõi cán cân thanh toán quốc tế,
NHTW đã được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước và kiểm soát ngoại hối trên
thị trường là phù hợp. ở việt nam vấn đề cập trong Pháp lệnh ngân hàng nhà
nước năm 1990(điều 30), luật NHNN năm 1997(điều 38)quy định: Nhà nước
giao cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý ngoại hối.
Quản lý ngoại hối là việc nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác
động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng
ngoại hốitheo những mục tiêu đã định.
2. Mục đích quản lý ngoại hối
2.1. Điều tiết tỷ giá, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
NHTW thực hiện các biện pháp nhằm thúc đẩy tập trung các nguồn
ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ ) vào tay mình, để thông qua đó nhà nước sử
dụng một cách hợp lý, có hiệu quả cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt
động đối ngoại. đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có
hiệu lực thực hiện chính sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị
trường để can thiệp vào tỷ
giá
khi
cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại
của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng.
2.2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước
NHTW không chỉ bảo quản và quản lý quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước
mà còn biết sử dụng phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, đảm bảo an toàn
không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế.
2.3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Trong cả hai trường hợp cán cân thanh toán bội thu hoặc bội chi, nếu
không có sự can thiệp của NHTW, tỷ giá sẽ tăng giảm theo nhu cầu ngoại
hối trên thị trường. Tuy nhiên ở nhiều nước, NHTW đóng vai trò điều tiết tỷ
giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập
một t
ỷ
giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm, thì
NHTW hoặc là mua vào số ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước
làm cho quỹ dự trữ ngoại hối sẽ tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán
ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra
nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm xuống tương ứng.
II. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI
1. Cơ chế tự do ngoại hối
Theo cơ chế này, ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường, cân
bằng ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà
nước.
2. Cơ chế quản lý
Hiện nay, hầu hết các nước đều áp dụng cơ chế có sự quản lý của nhà
nước, song mức độ
quản
lý
và can thiệp có khác nhau.
2.1. Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn
Theo cơ chế này, nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thươngvà độc
quyền ngoại hối. Nhà nước áp dụng các biện pháp hành chính áp đặt nhằm
tập trung tất cả hoạt động ngoại hối vào tay mình. Tỷ giá do nhà nước quy
định buộc tất cả các giao dịch ngoại hối phải chấp hành, các tổ choc tham
gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu bị lỗdo tỷ giá thì sẽ được nhà
nước cấp bù, ngược lại nếu lãI thì nộp cho nhà nước. Cơ chế này thích hợp
với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
2.2. Cơ chế quản lý có điều tiết
Trong cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đạt khống chế
được thị trường, ngăn chặn được ảnh hưởng từ bên ngoài, chủ động khai
thác được nguồn vốn từ bên trong. Nhưng trong nền kinh tế thị trường cách
quản lý này sẽ không phù hợp, cản trở và gây khó khăn cho nền kinh tế.
Để khắc phục sự áp đặt, nhà nước tiến hành điều tiết nhưng gắn với
thị trường, nhà nước tiến hành kiểm soát ở mộr mức độ nhất định nhằm phát
huy tính tích cực của thị trường, hạn chế những nhược điểm do thị trường
gây ra, tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển ổn định, ngăn chặn
ảnh hưởng từ bên ngoài.
III. HOẠT ĐỘNG NGOẠI HỐI CỦA NHTW
1. Hoạt động mua bán ngoại hối
NHTW tham gia vào hoạt động mua bán ngoại hối với tư cách là
người can thiệp, giám sát, điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua,
người bán bán cuối cùng. Thông qua việc mua, bán NHTW thực hiện việc
giám sát điều tiết thị trường theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời
theo dõi diễn bíên tỷ giá đồng bản tệ để chủ động quyết định hoặc phối hợp
với NHTW các nước khác c
ủng
c
ố
sức mua đồng tiền này hay đồng tiền
khác để đảm bảo trong trật tự quốc tế có lợi cho mình.
1.1. Mua bán trên thị trường trong nước
Trên thị trường hối đoái trong nước, NHTW là người mua, bán cuối
cùng và chỉ tiến hành mua bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở
trung ương của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua bán với
các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Tỷ giá hối đoái do NHTW công bố.
Thông qua việc mua bán NHTW thực hiện việc cung ứng tiền tệ hoặc rút
bớt tiền tệ ra khỏi lưu thông,
trên
c
ơ
sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của đồng
bản tệ.
Đối với những nước phát triển, thị trường hối đoáI đã được quốc tế
hóathì tỷ giá được thả nổi. NHTW chỉ can thiệp khi thị trường có sự biến
động lớn hoặc trong những trường hợp đặc biệt.
1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế
Với nhiệm vụ quản lý quỹ dự trữ ngoại hối,NHTW thực hiện việc
mua bán trên thị
trường
quố
c tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại
hối. NHTW thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền
TW (MB) từ đó có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong muốn.
2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHTW
Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối, thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng, bằng cách đưa ra quy chế ra nhập thành viên, quy chế hoạt động, quy
định giới hạn tỷ giá mua bán trên thị trường
-Tham gia xây dựng các dự án pháp luật, và ban hành các văn bản
-Hướng dẫn thi hành luật quản lý ngoại hối
-Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối
-Kiểm tra giam sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối, kiểm soát các hoạt
động ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
-Thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác của quản lý ngoại hối.
-Biên lập cán cân thanh toán
1.
N
-
ộ
N
ộ
i dung cơ bản của quy chế quản lý ngoại hối
Những quy định chung gồm :
Đối tượng và pham vi quản lý tổ chức cá nhân có hoạt động ngoại hối.
Cơ quan quản lý: Chính phủ giao cho ai?, ví dụ: MHTW hoặc thành
lập riêng một cơ quan để giao nhiệm
vụ
Quy định về nội dung quản lý ngoại hối, người cư trú, người không
cư trú, các hoạt động ngoại hối.
Quy định về: mở tài khoản, sử dụng ngoại tệ của người không cư trú
và người cư trú.
Quy định về các giao dịch vãng lai
Quy định về giao dịch vốn
Các điều khoản khác.
Các quy định đặt ra nhằm đảm bảo hoạt động ngoại hối được
thực hiện tốt.
C H
Ư Ơ
NG 2
: HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ KINH DOANH NGOẠI
HỐI CỦA NHNN VIỆT NAM TỪ 2009 ĐẾN NAY
2.1. Thực trạng hoạt động quản lý và kinh doanh ngoại hối của
Việt Nam giai đoạn 2009-2011
Ở việt nam trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung, thời gian
dài với chế độ nhà nước nắm độc quyền ngoại thương và ngoại hối. Mọi
nguồn thu , chi ngoại tệ đều tập trung vào nhà nước, chỉ
có
các doanh
nghiệp quốc doanh mới được tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa theo một
tỷ giá ấn định dẫn đến hiện tượng thu bù chênh lệch ngoại thương. nếu
thu> chi thì doanh nghiệp phải nộp nhà nước phần chênh lệch, ngược lại
chi >thu thì sẽ được nhà nước bù. Nhà nước trực tiếp can thiệp và xác
định tỷ giá nhưng không phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại
hối, áp dụng tỷ giá cố định và đa tỷ giá.
Có thể nói, đây là giai đoạn có rất nhiều biến động của nền kinh tế
thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. (Cuối năm 2008, cơn địa chấn tài
chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng và nhà đất ở Mỹ đã nhanh chóng
lan rộng trên phạm vi toàn cầu, gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính tồi
tệ nhất từ hàng trăm năm nay). Lẽ tất yếu, sau một thời kỳ tăng trưởng ấn
tượng, đất nước ta cũng đã hứng chịu ảnh hưởng của cơn bão khủng hoảng
kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với hàng loạt những khó khăn
như: đồng tiền quốc gia bị mất giá, thâm hụt cán cân thương mại nghiêm
trọng, tăng trưởng kinh tế bị chậm lại. Các chỉ tiêu của nền kinh tế đều xấu
đi, tăng trưởng năm 2008 còn 6,23%, trong khi lạm phát kỷ lục ở mức
22,97%. Bước sang giai đoạn 2009 – 2010, nền kinh tế vẫn tiếp tục ở trong
tình trạng khó khăn. Sau một thời gian tăng lên và lập mức kỷ lục ở mức
23,9 tỷ USD vào cuối năm 2008, dự trữ ngoại hối quốc gia đã chứng kiến
sự sụt giảm nghiêm trọng đến mức báo động trong hai năm này.
Tính đến tháng 6/2009, dự trữ ngoại hối Việt Nam đã giảm xuống
còn 17,3 tỷ USD. Đến cuối năm 2009, mức dự trữ chỉ còn 14,1 tỷ USD,
giảm 41,7% so với cuối năm 2008. Cùng với sự giảm xuống của dự trữ
ngoại hối, chỉ tiêu dự trữ ngoại hối trên giá trị tuần nhập khẩu cũng đã giảm
từ 12 xuống chỉ còn 7 tuần, khiến mức dự trữ ngoại hối trở nên đáng lo
ngại.
Trong năm 2010, dự trữ ngoại hối tiếp tục ở mức thấp, dao động từ 7
– 9 tuần nhập khẩu. Trong thông báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF vào
tháng 12/2010 vừa qua, tổ chức này đã thể hiện sự lo lắng rằng dự trữ ngoại
hối Việt Nam đang ở mức thấp, tính đến tháng 9/2010, chỉ tương đương
khoảng 1,8 tháng nhập khẩu.
Những con số về dự trữ ngoại hối Việt Nam có sự khác nhau bởi các
tổ chức khác nhau. Điều đó cho thấy, công khai dự trữ ngoại hối vẫn là điều
mà chúng ta chưa làm được. Cuối năm 2010, theo thông tin từ Bộ trưởng
Bộ kế hoạch và đầu tư, mức DTNH Việt Nam đã giảm xuống chỉ còn 10 tỷ
USD. Trong khi đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody, DTNH Việt Nam
là 12,2 tỷ USD, đáp ứng được 5 – 6 Tuần nhập khẩu. Điều đó thật đáng lo
ngại cho bền vững của thị trường ngoại hối nước ta nói riêng cũng như sự
ổn định của nền kinh tế nói chung.
Tuy nhiên tới cuối tháng 5/2011, tín hiệu lạc quan cho thấy dự trữ
ngoại hối của Việt Nam đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng khoảng 900 triệu USD
trong tháng 5 nhờ động thái mua vào của Ngân hàng Nhà nước. Số liệu này
được IMF công bố tại Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho
Việt Nam (CG) được tổ chức tại Hà Tĩnh hồi đầu tháng 6/2011.
Cũng tại Hội nghị nêu trên, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cũng
xác nhận dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng thêm 2 tỷ USD trong vòng
2-3 tháng. “Con số này còn tăng nữa. Đến 2012, dự trữ ngoại hối của Việt
Nam sẽ đảm bảo 16 tuần nhập khẩu”, Phó thủ tướng khẳng định – hứa hẹn
2012 sẽ là điểm kết thúc của một thời kỳ sụt giảm nghiêm trọng lượng dự
trữ ngoại hối của nước ta. Quả thực, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2012, dự trữ
ngoại hối Việt Nam đã tăng 20% so với cuối năm 2011 nhờ nỗ lực mua một
lượng lớn dự trữ ngoại hối xuất phát từ NHTW nhằm cân đối thị trường, tuy
nhiên mức tăng này liệu có duy trì được lâu dài trong khi kinh tế Việt Nam
còn có quá nhiều vấn đề khó khăn cần phải đối mặt?
2.2. Nguyên nhân gây sụt giảm dự trữ ngoại hối
Tình trạng nhập siêu vẫn chưa được cải thiện
Trong suốt hai năm 2009 và 2010, chúng ta vẫn tiếp tục phải đối mặt
với ình trạng nhập siêu.
Năm 2009, mục tiêu ta đặt ra là nhập siêu dưới 10 tỷ và dưới 20%
kim ngach xuất khẩu. Nhưng trong thực tế, kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam năm này là 57,1 tỷ USD, xuất khẩu là 69,59 tỷ USD, mức nhập siêu là
12,85 tỷ USD, tương đương với 22,6% kim ngạch xuất khẩu – vượt quá
mục tiêu đặt ra. Điểm chú ý là hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều là
nguyên vật liệu.
Bước sang năm 2010, tình trạng nhập siêu của Việt Nam đã được cải
thiện. Cho tới cuối năm, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 157 tỷ
USD, tăng 23,6% so với năm 2009. Trong đó, giá trị xuất khẩu đạt 72,19 tỷ
USD, tăng 26,4% và nhập khẩu là 84,8 tỷ USD, tăng 21,2%. Nhập siêu là
12,61 tỷ USD, bằng 17,5% kim ngạch xuất khẩu. Hầu hết các mặt hàng xuất
nhập khẩu của Việt Nam đều tăng so với năm 2009. Trong đó, các mặt hàng
nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam vẫn là nguyên nhiên vật liệu: Máy móc,
thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu 13,69 tỷ USD, nhóm hàng nguyên
liệu phục vụ ngành dêt may nhập 9,8 tỷ USD, xăng dầu nhập 6,1 tỷ USD…
Điều đáng chú ý là trong năm 2010, Việt Nam có 6 tháng nhập siêu trên 1
tỷ USD. Mức nhập siêu lớn nhất là tháng 2 với 1,33 tỷ USD và tháng thấp
nhất là tháng 8 với 395 triệu USD.
Như vậy, tuy mức nhập siêu năm 2009, 2010 của nước ta có giảm so
với năm 2008, tuy nhiên vẫn ở mức cao. Điều đó đã tiếp tục gây sức ép cho
dự trữ ngoại hối quốc gia. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu,
NHNN phải dùng dự trữ ngoại hối, khiến dự trữ ngoại hối giảm đi thay vì
được tích lũy. Sự thâm hụt cán cân thương mại kéo dài trong nhiều năm là
nguyên nhân chính làm dự trữ ngoại hối sụt giảm (Cụ thể, năm 2009 mức
thâm hụt là 1,9 tỷ USD, và năm 2010 lên mức 4 tỷ USD).
Cán cân vốn giảm do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
Giai đoạn này đã chứng kiến sự sụt giảm của cán cân vốn so với giai
đoạn trước.
Trước hết là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Sau một thời
gian tăng trưởng ổn định, bước sang năm 2009, dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nước ta đã có sự sụt giảm lớn. So với năm 2008, FDI vào
Việt Nam năm 2009 chỉ bằng 30%, đạt 21,48 tỷ USD, trong đó nguồn vốn
thực hiện đạt 10 tỷ USD, bang 87%. Trong những năm gần đây, FDI luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cán cân vốn và là nguồn bù đắp ngoại tệ quan
trọng cho nền kinh tế. Chính vì thế, sự giảm xuống đáng kể của FDI đã ảnh
hưởng đáng kể đến nguồn cung ngoại tệ cho nền kinh tế cũng như dự trữ
ngoại hối. Sang năm 2010, FDI vào Việt Nam tiếp tục giảm. Nguồn vốn
đăng ký đạt 19,58 tỷ USD, bằng 82,2% so với 2 năm trước đó, vốn thực
hiện đạt 11 tỷ USD. Tuy đây là con số đáng khích lệ trong bối cảnh khủng
hoảng kinh tế chưa thực sự phục hồi nhưng dễ thấy nguồn cung ngoại tệ
này tiếp tục giảm sẽ làm cho việc huy động vào quỹ dự trữ ngoại hối sẽ khó
khăn hơn.
Đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), năm 2009 tiếp tục chịu ảnh
hưởng từ khủng hoảng kinh tế và động thái rút vốn từ năm 2008 (2 tỷ
USD), các nhà đầu tư nước ngoài đã rút khỏi thị trường 230 triệu USD. Dù
đây không phải là mức nhiều nhưng cũng có những thời điểm trong năm,
vốn rút ra khỏi thị trường đã lên tới 500 – 600 triệu USD. Đặc tính của
nguồn vốn này là có thể rút nhanh ra khỏi thị rường. Chính vì thế, chỉ cần
một lượng rút vốn không lớn nhưng ồ ạt cũng sẽ tạo nên sự khan hiếm của
ngoại tệ trên thị trường và buộc NHNN phải can thiệp dể ổn định. Bước
sang năm 2010, dòng vốn này đã có sự tăng trở lại, cả năm 2009, mức đầu
tư gián tiếp FII chảy vào ròng 1 tỷ USD.
Sự căng thẳng trên thị trường ngoại hối, NHNN bàn ngoại tệ để can thiệp
Hai năm vừa qua chứng kiến sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá hối
đoái, lạm phát tăng cao, đồng nội tệ bị mất giá. Tỷ giá trên thị trường đã
liên tục tăng lên và nhiều khi bỏ xa so với tỷ giá chính thức cũng như tỷ giá
trên thị trường liên ngân hàng. Sự tăng lên này đã diễn ra trong năm 2008,
được tiếp diễn trong gần cả năm 2009, đầu và cuối năm 2010. Mặc dù có
những giai đoạn, tỷ giá trên thị trường đã ổn định, nhưng những giai đoạn
căng thẳng lại làm cho tỷ giá USD/VND tăng mạnh.
Sự căng thẳng của tỷ giá tất nhiên đến từ những cung cầu về ngoại tệ
trên thị trường. Ngoài nguyên nhân đến từ tình trạng thâm hụt cán cân thanh
toán dẫn đến thiếu nguồn cung, tăng cầu đối với ngoại tệ, có những nguyên
nhân khác dẫn dến tình trạng này. Đó là:
Thứ nhất, tình trạng đói “ đô la hóa của nền kinh tế”.
Với tâm lý sùng bái ngoại tệ từ lâu, người dân vẫn đang tiếp tục nắm giữ
một lượng lớn ngoại tệ. Nhất là mỗi khi có những biến động kinh tế xảy ra
như trong những năm vừa qua, tâm lý lo sợ đồng nội tệ mất giá cũng như kỳ
vọng kiếm lời do tỷ giá tăng lên càng khiến người dân “ găm giữ” ngoại tệ
nhiều hơn. Một trong những nguồn cung ngoại tệ tiềm năng cho nền kinh tế
đó là nguồn thu từ kiều hối. Mặc dù có giảm trong năm 2009 vừa qua, đạt
6,3 tỷ USD, nhưng năm 2010, lượng kiều hối chuyển về nước đã tăng đáng
kể, đạt 8 tỷ USD. Tuy nhiên, lượng kiều hối được bạn lại cho ngân hàng rất
thấp, trung bình chỉ đạt 10%. Người dân có xu hướng nắm giữ hoặc bán
trên thị trường tự do đã gây nên hiện tượng mất cân đối cung cầu ngoại tệ,
khiến việc kiểm soát thị trường ngoại hối càng khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu và các doanh nghiệp có nhu cầu
ngoại tệ. Có hiện tượng nhiều doanh nghiệp vay USD tuy chưa đến kì trả nợ
nhưng đã mua săn USD để giữ vì sợ tỷ giá sẽ tăng. Chính lượng đặt mua
nhiều của doanh nghiệp khiến cầu ngoại tệ tăng. Nhiều doanh nghiệp nhập
khẩu các mặt hàng thuộc diện bị hạn chế nhập khẩu, không được vay hay
mua ngoại tệ từ các ngân hàng mà phải chịu thị trường chợ đen, chính vì
thế, càng đẩy tỷ giá tự do vượt quá tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng.
NHTM không thể đủ ngoại tệ cung ứng, sứ ép lên dự trữ ngoại hối càng
lớn.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, mặc dù có nguồn thu ngoại tệ,
nhưng các doanh nghiệp này lại không bán cho các NHTM mà có xu
hướng nắm giữ để sử dụng khi cần thiết. Điều này cũng bắt nguồn từ những
lo ngại việc tỷ giá tăng lên trong tương lai và doanh nghiệp khó tiếp cận
USD khi cần.
Thứ hai, sức ép từ giá vàng, giá dầu và lạm phát của nền kinh tế
Trong những năm vừa qua chứng kiến sự tăng liên tục của giá vàng và
giá dầu mỏ trên thế giới và tác động đến thị trường trong nước. Đặc biệt có
những giai đoạn, giá vàng trong nước đã chênh lệch với giá vàng trong
nước 800.000- 1000.000 đồng/lượng đã thúc đẩy hoạt đông kinh doanh
chênh lệch giá thu gom USD nhập lậu vàng ở nước ngoài về bán, khiến cho
cầu USD tăng mạnh. Thực tế này đã diễn ra vào thời điểm cuối tháng 11/
2009 , tháng 10/ 2010 và đặc biệt là năm 2011 , ghi nhận mức giá vàng
trong nước là 20%, làm cho giá USD tăng vọt. Mặc dù có những thời điểm,
chúng ta đã xuất vàng ( tháng 8 và 9/ 2010), nhưng do giá vàng liên tục lập
kỉ lục đã gây nên sức ép về cầu USD khi các doanh nghiệp này phải nhập
vàng lại phục vụ cho nhu cầu trong nước. Với chính sách không hạn chế
việc nhập khẩu vàng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đưa giá trong nước
theo sát diễn biến thế giới, NHNN đã phải “ tung” dự trữ ngoại hối để can
thiệp, khiến dự trữ ngoại hối vốn đã ít lại càng cạn kiệt hơn.
Với tâm lý lo sợ VND ngày càng mất giá cộng với lạm phát có xu hướng
tăng cao đã khiến cho người dân nắm giữ vàng và ngoại tệ thay vì VND
ngày càng khiến cho thị trường ngoại tệ nóng hơn bao giờ hết.
Thứ ba, chính sách lãi suất giữa VND và USD chưa linh hoạt
Trong hai năm vừa qua, lãi suất của VND và USD cũng là một yếu tố
biến động mạnh trên thị trường. Sau cuộc đua của các NHTM về lãi suất
năm 2008, sang năm 2009, chính phủ đã đưa ra những gói kích cầu thông
qua hỗ trợ lãi suất giữa đồng USD và VND bị thu hẹp. Khi khoảng cách bị
thu hẹp thì nghiễm nhiên, VND trở nên mất giá và đồng USD vị tăng giá
cục bộ ở Việt Nam một cách giả tạo.
Thứ tư, sự mất kiểm soát thị trường ngoại tệ tự do
Sự tồn tại thị trường tự do, còn gọi là thị trường “ chợ đen” ở Việt Nam
đã được bàn đến từ lâu nhưng đây là nguyên nhân không hề cũ. Với sự tồn
tại của thị trường này, chúng ta đã nghiễm nhiên chấp nhận một chế độ 2 tỷ
giá trong nền kinh tế. Với lượng giao dịch không hề nhỏ, lại không được
kiểm soát, thị trường chợ đen đã gây sức ép không nhỏ cho thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng ở nước ta. Trong 2 năm vừa qua, cùng với những biến
động kinh tế, sự quá “tự do” của thị trường này đã gây nên hiện tượng như
tung tin đồn, tạo khan hiếm giả tạo,…làm cho tỷ giá liên ngân hàng có lúc
đã phải chạy theo thị trường này. Ngoại tệ trôi nổi nhiều, dẫn đến NHNN
phải dùng dự trữ ngoại hối để can thiệp khi có biến động xảy ra.
Như vậy, cùng với những nguyên nhân từ thực trạng thương mại quốc
tế, những biến động liên tục của thị trường ngoại hối nước ta, trong đó nổi
lên là vấn đề tỷ giá, đã khiến dự trữ ngoại hối nước ta trong hai năm vừa
qua giảm sút nghiêm trọng.
2.3. Những tác động của việc sụt giảm quy mô dự trữ ngoại hối tới
nền kinh tế giai đoạn 2009-2011
Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán trong thương mại quốc tế
Trong Nghị định số 86/1999/ NĐ-CP về quản lý DTNH nhà nước và
quy chế tổ chức thực hiện những nhiệm vụ quản lý ngoại hối, nguyên tắc
đầu tiên được đề cập trong vấn đề quản lý dự trữ ngoại hối là phải đảm bảo
khả năng sẵn sàng thanh toán, đáp ứng nhu cầu ngoại hối khi cần thiết.Theo
những con số được công bố, thì dự trữ Việt Nam không đáp ứng được yêu
cầu này trong giai đoạn 2009-2010. Cụ thể, chỉ tiêu dự trữ ngoại hối trên giá
trị tuần nhập khẩu chỉ đạt cao nhất là 9 tuần, và thấp nhất chỉ là 5-6 tuần,
trong khi chỉ tiêu chuẩn quốc tế tối thiểu là 12 tuần. Có những giai đoạn chỉ
tiêu này được giữ ổn định mức 7 tuần thì đây vẫn là con số đáng báo động
khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam thấp hơn gần một nửa so với yêu cầu.
Vấn đề càng khó khăn bởi trong thời gian tới, Việt Nam vẫn cần phải
nhập thêm máy móc, nguyên vật liệu…phục vụ cho quá trình phát triển
kinh tế. Do đó, tình trạng cán cân thương mại tiếp tục bị thâm hụt là không
thể tránh khỏi. Với mức dự trữ quá thấp hiện nay, NHTW sẽ gặp nhiều khó
khăn trong việc cung ứng ngoại tệ theo nhu cầu của các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu và không ít mặt hàng sẽ bị hạn chế nhập khẩu do nguồn dự trữ bị
thiếu hụt này.
Ảnh hưởng đến việc điều hành các chính sách tiền tệ và tỷ giá
Một trong những ưu tiên hàng đầu của dự trữ ngoại hối là dành cho việc
thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, hạn chế tác động khủng
hoảng tiền tệ. Tại những nước áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý, dự
trữ ngoại hối được sử dụng để hạn chế sự biến động tỷ giá. Do vậy, công tác
quản lý dự trữ ngoại hối thường được giao cho NHTW là cơ quan hoạch
định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia thực hiện. Tuy nhiên, với một
mức dự trữ mỏng như hiện nay, việc can thiệp vào thị trường ngoại hối Việt
Nam thông qua những chính sách này là không dễ dàng. Cụ thể là, trong
suốt thời gian qua, Chính phủ đã rất khó khăn trong việc ổn định tỷ giá cũng
như giải quyết các vấn đề liên quan đến lãi suất.
Chính sách tỷ giá
Trước khi tỷ giá chính thức được điều chỉnh tăng 9,3% từ ngày
11/2/2011 thị trường ngoại hối Việt Nam đã phải đối mặt với không ít
những căng thẳng từ sự chếnh lệch quá lớn giữa hai mức tỷ giá chính thức
và tỷ giá trên thị trường tự do. Khi cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại
hối không cân bằng và NHNN không đủ khả năng cung ứng ngoại tệ ra thị
trường, tỷ giá Việt Nam đã trải qua một thời kỳ biến động mạnh. Trong khi
tỷ giá tối đa mà ngân hàng được phép giao dịch chốt chặt ở 19.500
VND/USD, thì giá USD bên ngoài cao nhất lên đến trên 21.500 VND/USD,
chênh lệch trên 10%.
Không nhận được sự hỗ trợ từ NHNN, không ít NHTM đã phải đối mặt với
tình trạng khan hiếm ngoại tệ trong thời gian dài. Điểu đó kéo theo các
doanh nghiệp phải chấp nhận một mức giá cao hơn hẳn trên thị trường tự
do. Tình trạng các NHTM gặp rủi ro trong thanh khoản ngoại tệ đã gây tâm
lý hoang mang cho thị trường, từ đó gây sứ ép tăng tỷ giá. Nhưng với mức
dự trữ thấp như hiện nay ở Việt Nma, NHNN không thể đáp ứng toàn bộ
nhu cầu ngoại tệ của các NHTM để ổn định tỷ giá. Rõ ràng là, dự trữ ngoại
hối thấp là một hạn chế lớn trong điều hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam.
Lãi suất
Cùng chung tình trạng với vấn đề tỷ giá chính là lãi suất tiền gửi bằng
VND. Sau một quá trình tăng lãi suất liên tục và lãi suất đã tăng cao đến
mức kỷ lục vào năm 2008, kể từ giữa năm 2009 đến 2011, thị trường Việt
nam lại chứng kiến một cuộc đua lãi suất mới, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao
nữa. Lãi suất tại các NHTM đã biến động không ngừng, mặt dù lãi suất sơ
bản của NHNN chỉ thay đổi 2 lần( tăng từ 7% lên 8% vào tháng 1/2009 và
lên 9% kể từ ngày 5/11/2010). Ngay sau quyết định tăng lãi suất cơ bản từ
7% lên 8%, các NHTM đồng loạt đẩy lãi suất NH lên cao, có nơi lên tới
10,5%/năm (chưa tính các hình thức khuyến mãi, cộng thưởng gián tiếp).
Khi NHNN phát thông điệp kiểm tra toàn diện các trường hợp có lãi suất
huy động từ 10,5%/năm trở lên, các NHTM lại đồng loạt áp tối đa ở mức
10,49%/năm. Trong năm 2010, duy trì đà tăng của lãi suất huy động vào
những tháng cuối năm 2009, mặt bằng lãi suất biến động xoay quanh
ngưỡng 12% trong 6 tháng đầu năm. Và đến tháng 7, lãi suất huy động
VND có đợt điều chỉnh giảm đầu tiên ở mức 11-11,2% cho các kỳ hạn và
duy trì khá ổn định cho đến tháng 10. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát
vào những tháng cuối năm, tỷ lệ lãi suất huy động ở lần điều chỉnh giảm thứ
hai đã ngay lập tức gia tăng ngay sau khi NHNN thực hiện điều chỉnh tăng
lãi suất cơ bản lên 9%. Mặt bằng lãi suất huy động ,ới được thiết lập ở mức
12%, và tiếp tục có xu hướng gia tăng mạnh, có thời điểm giao động xoay
quanh mức 17-18%. Vậy là, ămcj dù đã cho phép các ngân hàng được áp
dụng lãi suất thỏa thuận nhưng trước việc lãi suất bị đẩy lên quá cao như
trong giai đoạn hiện nay, NHNN đã can thiệp bằng biện pháp hành chính:
yêu cầu lãi suất tại các NHTM không vượt quá 14%.
Như đã đề cập ở trên, NHNN không chỉ phán đối khó khăn về lãi suất
mà còn giải quyết vấn đề ổn định giá. Về mặt lý thuyết, để giảm tỷ giá trên
thị trường ngoại hối, cần tăng cung USD hoặc giảm cung VND. Thông qua
dự trữ ngoại hối, NHNN phải bán ngoại tệ ra để thu vào VND. Nhưng động
thái này sẽ trực tiếp làm giảm cung tiền M2, kết quả là VND sẽ khan hiếm,
đẩy lãi suất lên cao. Để giảm lãi suất và giảm tỷ giá, chỉ có một cách duy
nhất là đồng thời với việc “bơm” USD từ nguồn dự trữ ngoại hối, NHNN
phải tăng cung VND trong nền kinh tế thông qua các công cụ của chính
sách tiền tệ.
Tuy nhiên, với khả năng hiện nay dự trữ ngoại hối Việt Nam khá mỏng, sẽ
không dễ dàng để NHNN can thiệp khi lãi suất tăng cao trong điều kiện tỷ
giá có nhiều biến động.
Ảnh hưởng đến vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế.
Với mức dự trữ thấp như hiện nay, Việt Nam không chỉ đối mătcj với rủi
ro thanh toán thương mại quốc tế mà còn phải chịu những áp lực từ những
khoản nợ của nước ngoài. Mặc dù những khoản vay của Việt Nam hầu hết
là trung và dài hạn, tuy nhiên việc suy giảm dữ trữ ngoại hối vẫn gây ran
guy cơ giảm thanh khoản trong dài hạn. Nếu ở thời điểm nào đó, Việt Nam
không có đủ ngoại hối để thực hiện một khoản thanh toán quốc tế nào thì
ngay lập tức uy tín tài chính sẽ bị ảnh hưởng.
Việc giảm vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ ảnh hưởng nhiều
đến dòng vốn đầu tư vào Việt Nam cũng như khả năng cạnh tranh trong các
giao dịch quốc tế. một trong những việc suy giảm vị thế này : cuối năm
2010, hãng đánh giá tín nhiệm quốc tế Moody’s đã đưa ra các đánh giá tiêu
cực về triển vọng VN. Nguyên nhân Moody đưa ra đánh giá trên là những
lo ngại về mức dự trữ ngoại hối mỏng cùng với những lo ngại về cán cân
thanh toán bất ổn, những thay đổi trong các biện pháp thắt chặt tiền tệ, kiềm
chế lạm phát và biến động tỷ gái hối đoái. Hẵng này còn cảnh báo thêm
rằng có thể sẽ tiếp tục hạ điểm thấp hơn nữa nếu dự trữ ngoại hối ở Việt
Nam tiếp tục suy giảm.
Như vây, mức dự trữ mỏng như hiện nay phần nào phản ánh một nền kinh
tế đang đối mặt với nhiều rủi ro và biến động. Cùng với việc bị các tổ chức
quốc tế đánh tụ hạng, vị thế của Việt Nam và các doanh nghiệp dần bị hạ
thấp. chính vì thế việc tăng dự trữ ngoại hối là một trong những yêu cầu cấp
thiết nhằm cải thiện hình ảnh VN trong con mắt bạn bè quốc tế.
2.4. Đánh giá công tác dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2009- 2011
2.4.1. Những mặt tích cực
Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lí ngoại hối không
ngừng được đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Trong những năm trở lại đây,
công tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ đặc biệt
là giai đoạn 2005-2008 khi dự trữ ngoại hối Việt Nam đạt đỉnh ( 23,9% tỷ
USD)
Về chính sách lãi suất ngoại tệ
Trong suốt một khoảng thời gian dài, việc quy định mức lãi suất cho
vay ngoại tệ áp dụng cho các ngân hàng thương mại của Việt Nam dựa vào
cơ sở lãi suất SIBOR (Singapore Interbank Offered Rate) đối với trung và
dài hạn cho thấy sự phụ thuộc lớn của lãi suất trong nước đối với lãi suất
quốc tế. Kể từ tháng 6/2011, chính phủ quyết định xóa cơ sở SIBOR, theo
đó cho phép các tổ chức tin dụng được căn cứ vào cung cầu ngoại tệ và lãi
suất quốc tế để thảo thuận về mức lãi suất ngoại tệ trong giao dịch. Điều đó
cho thấy dấu hiệu khả quang trong chủ trương tự do hóa lãi suất ngoại tệ, là
bước ngoặt trong chính sách lãi suất. Thực tế cho thấy, lãi suất huy động
USD tăng đáng kể sau khi được tự do hóa lãi suất. Năm 2004, ảnh hưởng
của việc tăng lãi suất USD của cục dự trữ liên bang Mỹ( FED), lãi suất huy
động USN của ngân hàng tăng 4,25%/năm. Đặc biệt mức lãi suất này đã
tăng đến 7,2%/năm trong ănm 2008. Việc tăng lãi suất huy động USD trong
khoảng thời gian 2005-2008 làm tăng nhu cầu gửi ngoại tệ của người dân
vào ngân hàng, giúp tập trung ngoại tệ quốc gia. Bên cạnh đó để tránh nạn
đầu cơ làm đôla hóa thị trường tài chính Việt Nam, kể từ năm 2008 ngân
hàng nhà nước đã dần giảm lãi suất huy động USD theo từng thời kỳ.
Về chính sách tỷ giá.
Biên độ giao động tỷ giá được NHNN nới rộng từ 3% thành mức 5% năm
2009. Động thái này đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ
chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỷ giá theo quy
luật cung cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỷ giá giữa các ngoại
tệ mạnh( USD, EURO, YÊN) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối
quan hệ giữa VND với ngoại tệ các nước có quan hệ thương mại, vay nợ,
đầu tư với Việt nam. Qua đó tỷ giá VND không đơn thuần gắn với USD
như trước mà với cả”một rổ tiền tệ”, tạo điều kiện đầu tư vào các đồng tiền
khác ngoài USD,
Giúp cho việc đa dạng hóa dự trữ ngoại hối, giảm thiểu rủi ro.
Về chính kiều hối
Những năm trở lại đây, chính phủ và NHNN có những chích sách thông
thoáng hơn nhằm khuyến khích kiều hào chuyền tiền về nước: Mức thu phí
dịch vụ kiều hối ngày càng giảm. Nếu như trước đây, người nhận kiều hối
bắt buộc phải bán toàn bộ ngoại tệ cho ngân hàng theo tỷ giá quy định, chỉ
đươc nhận nội tệ, thì ngày nay họ được nhận ngoại tệ hoặc bán cho ngân
hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể thức tiết kiệm tại ngân hàng.
NHNN đã mở rộng mạng lưới làm dịch vụ kiều hối tạo thuận lợi cho việc
giao dịch khách hàng.
Biểu đồ : Kiều hồi vào Việt Nam giai đoạn 1999-201
Năm 2000 số kiều hối gửi về qua hệ thống Ngân hàng là 1.717 triệu
USD, tương đương với 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, lượng kiều
hối lên tới 1,820 triệu USD. Đặc biệt năm 2001 lượng kiều hối chuyển về
nước đạt mức 8 tỷ USD, và tăng thành 9 tỷ USD năm 2009. Lượng kiều hối
gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích: các Ngân hàng thương mại có
nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu tư cho các dự án trọng điểm của Chính Phủ, cho
vay các doanh nghiệp đẩy mảnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, góp phần tăng dự trữ ngoại
tệ quốc gia.
2.3.2: Những mặt hạn chế:
- Về điều hành chính sách lãi suất
Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ giữa lãi suất ngoại tệ đã
có một khoảng cách chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch
vốn của khách hàng từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Ngân hàng bỏ ra
nhiều công sức mà không thu được hiệu quả. Việc tập trung ngoại tệ về Nhà
nước chưa kịp thời với chính sách lãi suất ngoại tệ. Vô tình tọa ra cơ hội và
kẻ hở cho những người có nhiều tiền gửi và những doanh nghiệp khôn
ngoan kiếm lời bằng chênh lệc lãi suất ngoại tệ và nội tệ.
- Về điều hành chính sách tỷ giá:
Biên độ giao dịch tỷ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế
doanh số mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Công cụ tỷ giá và công
cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều; lãi suất ngoại tệ diễn ra
theo xu hướng giảm trong khi tỷ giá giữa USD/VND vẫn tăng(tuy ở mức độ
hẹp), đã gây ta tâm lý người dân găm giữ ngoại tệ. Từ đó khiến cho lượng
ngoại tệ trôi nổi trong dân còn nhiều, dễ gây tình trạng đôla hóa, đặc biệt
trong hoàn cảnh dự trữ ngoại hối Việt Nam đang sụt giảm như hiện nay, đó
là một bất cập cần được giải quyết.
- Về dịch vụ kiều hối
Việc đưa ra các chính sách khuyến khích kiều bào gửi tiền về nước
còn chưa được quan tâm cụ thể. Bên cạnh đó lượng kiều hối cũng là một
trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đôla hóa
kinh tế. Nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát lượng ngoại tệ rất lớn
đang trôi nổi ngoài thị trường.
- Về công tác và bộ máy quản lý:
Chiến lược quản lý dự trữ vẫn thụ động, hoạt động đầu tư dự trữ đơn
điệu, chưa tương xứng với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong
bối cảnh hội nhập. Định hướng chiến lược quản lý chưa đặt ra mức dự trữ,
hay căn cứ để xác định dự trữ chính thức của Nhà nước ở tầm vĩ mô phù
hợp với các chi tiêu kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong từng thời kỳ như tăng
trưởng kinh tế.
Dự trữ ngoại hối tăng chủ yếu do vốn đầu tư nước ngoài(FDI), nguồn
vốn ODA và kiều hối thu hút tăng. Việc quản lý các luồng ngoại tệ ra, vào
Việt Nam còn hạn chế do sự phối hợp chưa hiệu quả, chưa nhịp nhàng trong
điều hành xuất, nhập khẩu, ngân sách… Hình thức đầu tư còn đơn giản chủ
yếu dưới hình thức gửi tiền tại các ngân hàng, các công cụ tài chính như trái
phiếu Chính Phủ, chưa áp dụng các hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận cao
như đầu tư vào cổ phiếu hay ủy thác đầu tư vào các quỷ.
Hơn nữa, việc quản lý dự trữ trực tiếp được giao cho hai cơ quan là
Ngan hàng nhà nước và Bộ tài chính không mang tính nhất quán trong
chính sách quản lý dự trữ ngoại hối.
- Về nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng
Trình độ và chất lượng đội ngủ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở
cấp cơ sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại
ngữ trước yêu cầu ngoại nhập. Thiếu cán bộ có trình độ và kinh nghiệm
thực hiện quản lý dự trữ ngoại hối và chuyên gia phân tích, dự báo giỏi.
Nhân lực có trình độ chuyên môn làm việc tại Ngân hàng nhà nước nói
chung và bộ phận quản lý nói riêng còn thiếu. Cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin còn rất hạn chế. Mặc dù nhận được sự tài trợ một số dự án của các
nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á, nhưng các dự án này
mới chỉ tập trung vào phần công nghệ thông tin phục vụ mảng kinh doanh,
nghiệp vụ… Công nghệ thông tin phục vụ thu nhập thông tin số liệu, phân
tích dự báo còn hạn chế.
2.5 Diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước 6 tháng đầu
năm 2012
Trong 6 tháng đầu năm 2012, kinh tế thế giới vẫn tiếp tục diễn biến
phức tạp, thị trường tài chính toàn cầu vẫn tiềm ẩn rủi ro do khủng hoảng
nợ công khu vực đồng tiền chung Châu Âu chưa được giải quyết, nhiều
ngân hàng trong khu vực Châu Âu bị hạ bậc tín nhiệm; kinh tế Việt Nam
đang phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng kinh tế chậm lại, hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng về cơ
bản, diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước không có nhiều biến
động.
* Diễn biến giá trị đồng đô la Mỹ và tỷ giá USD/VND
Trong nửa đầu năm 2012, giá trị đồng đô la Mỹ trên thị trường ngoại
hối thế giới đã phần nào được cải thiện và tỷ giá USD/VND tiếp tục được
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) duy trì ổn định ở mức 20.828
VND/USD.
- Diễn biến giá trị đồng đô la Mỹ