Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Đề tài:An ninh tài chính đối với hoat động của ngân hàng thương mại nhà nước doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 94 trang )



Đề tài tham dự cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2008










An ninh tài chính đối với hoat động
của ngân hàng thương mại nhà nước



1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi chính thức trở thành thành viên của WTO, các Ngân hàng
thƣơng mại Việt Nam đã không ngừng nâng cao năng lực tài chính trƣớc
một thực trạng tiềm năng tài chính còn mỏng và trình độ chuyên môn còn
thấp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá - hội nhập kinh tế quốc tế, song song với
cơ hội mang lại, các ngân hàng phải đối mặt với ngày càng nhiều những rủi
ro tiềm ẩn có thể xảy ra gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân
hàng nói riêng và ảnh hƣởng đến nền kinh tế nói chung. Dƣới sức ép của


tình hình lạm phát tăng cao trong thời gian vừa qua, Ngân hàng Nhà nƣớc đã
phối hợp với Bộ tài chính đƣa ra những biện pháp thắt chặt tiền tệ để kiềm
chế lạm phát nhƣ: tăng dự trữ bắt buộc thêm và mở rộng loại tiền phải dự trữ
bắt buộc; tăng lãi suất chiết khấu; kiểm tra các ngân hàng thƣơng mại có tốc
độ tăng dƣ nợ tín dụng tính theo năm cao hơn 20 - 25%; phát hành 20.300 tỉ
đồng tín phiếu bắt buộc để hút tiền về; điều chỉnh cho vay chứng khoán (từ
việc khống chế 3% tổng dƣ nợ tín dụng sang khống chế 20% vốn điều lệ);
kiểm soát cho vay bất động sản Chính điều này khiến cho các Ngân hàng
thƣơng mại gặp khó khăn khi phải đối mặt với nhiều rủi ro mới hơn. Do đó
an ninh tài chính đối với hoạt động của các Ngân hàng thƣơng mại nói
chung và Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc nói riêng là vấn đề cần thiết
phải thực hiện nhằm đảm bảo cho hệ thống ngân hàng đƣợc ổn định, an
toàn, vững mạnh và không lâm vào khủng hoảng.
An ninh tài chính đối với hoạt động của các ngân hàng không phải là
một khái niệm mới nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống.
Trƣớc tính cấp thiết của vấn đề tác giả đã thực hiện đề tài này với mong
muốn qua lý luận và thực trạng hiện nay của các Ngân hàng thƣơng mại Nhà
nƣớc sẽ đề ra những giải pháp thật sự hiệu quả nhằm đảm bảo cho hệ thống


2

ngân hàng phát triển an toàn, góp phần thúc đầy nền kinh tế tăng trƣởng cao
và ổn định.
2. Đối tƣợng nghiên cứu.
Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc chiếm một vai trò đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc. Do mối quan hệ sở
hữu nhà nƣớc nên một nguồn vốn lớn của các ngân hàng tập trung chủ yếu
vào các doanh nghiệp nhà nƣớc trong khi đây là bộ phận khách hàng có thực
lực tài chính kém, không có khả năng thanh toán khi đến hạn rất dễ gây nên

rủi ro tín dụng. Với vị trí chủ đạo chi phối hoạt động của hệ thống ngân
hàng, sự mất an toàn trong quản trị rủi ro của các Ngân hàng thƣơng mại sẽ
dẫn đến khủng hoảng toàn hệ thống. Do vậy, trong đề tài này tác giả chỉ đi
sâu vào vấn đề an ninh tài chính đối với các Ngân hàng thƣơng mại Nhà
nƣớc Việt Nam: Ngân hàng Ngoại thƣơng, Ngân hàng Đầu tƣ và phát triển,
Ngân hàng Công thƣơng, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Ngân hàng Phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long. Đi sâu nghiên cứu vào
sự ổn định, an toàn, vững mạnh qua hoạt động chủ yếu của ngân hàng là
huy động vốn và sử dụng các loại tài sản.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua những chỉ tiêu đánh giá mức độ an ninh tài chính đối với
hoạt động của các Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc theo chuẩn mực quốc
tế, tác giả phân tích đánh giá thực trạng hiện nay với những khó khăn hạn
chế còn tồn tại trong việc đảm bảo an toàn, ổn định cho hệ thống ngân hàng.
Từ đó dự đoán những yếu tố tác động và đề xuất giải pháp đảm bảo an ninh
tài chính cho các Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc trong thời gian tới trong
đó đáng chú ý nhất là xây dựng mô hình giám sát hoạt động của Ngân hàng
nhà nƣớc thật sự hiệu quả thông qua những bài học kinh nghiệm về cách
thức tổ chức của các nƣớc trên thế giới. Bên cạnh những công cụ tài chính
mới nhằm quản trị rủi ro hoạt động của các ngân hàng.


3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phƣơng pháp thống kê - tổng hợp trong việc thu thập
số liệu từ các báo cáo của Ngân hàng nhà nƣớc, tính toán tỷ lệ so với các tổ
chức tín dụng khác; sử dụng phƣơng pháp so sánh với Ngân hàng thƣơng
mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và ngân hàng liên doanh,
phân tích tìm ra những khó khăn hạn chế còn tồn tại; bên cạnh đó tác giả

còn sử dụng phƣơng pháp mô tả - đánh giá; phƣơng pháp duy vật lịch sử…
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu tình hình an ninh tài chính đôí với 5 Ngân hàng
thƣơng mại Nhà nƣớc.
Thời gian tìm hiểu số liệu , qua đó phân tích đánh giá là năm 2004-
2008.
Đề ra một giải pháp cho các ngân hàng thƣơng mại để an ninh tài
chính ngày càng vững mạnh từ 2010-2020.
6.Kết quả nghiên cứu dự kiến
Qua những số liệu đuợc phân tích, Ngân hàng thƣơng mại Nhà nƣớc
sẽ phát huy hơn nữa những điểm mạnh trong vai trò chủ đạo có ảnh hƣớng
lớn đến hệ thống ngân hàng, khắc phục những hạn chế còn tồn tại trên cơ sở
thực hiện những giải pháp nhằm tăng nguồn vốn ch ủ yếu do cổ phần hoá
ngân hàng, tăng cƣờng xử lý nợ xấu thông qua các công ty x ử lý nợ AMC
và chứng khoán hoá các khoản nợ, tăng cƣờng quản lý cho vay với những
nghiệp vụ quản trị hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Qua những giải pháp huy động vốn đƣợc đƣa ra, tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu của các Ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc theo ti êu chuẩn quốc tế sẽ
đƣợc cải thiện, tỷ lệ nợ xấu giảm đồng nghĩa giảm rủi ro tín dụng, hoạt động
cho vay đƣợc giám sát chặt chẽ bằng cách hạn chế thông tin bất cân xứng
Những giải pháp đựợc thực hiện sẽ giúp cho mỗi ngân hàng thƣơng mại Nhà
nƣớc hoạt động an toàn vững mạnh và ổn định, hệ thống ngân hàng đƣợc an
toàn, không lâm vào khủng hoảng.


4

7. Kết cấu đề tài
Chƣơng 1: Lý luận về an ninh tài chính đối với hoạt động của các Ngân
hàng thƣơng mại nhà nƣớc

Chƣơng 2: Thực trang an ninh tài chính của các Ngân hàng thƣơng mại Nhà
nƣớc hiện nay
Chƣơng 3: Giải pháp đảm bảo an ninh tài chính của các Ngân hàng thƣơng
mại Nhà nƣớc trong thời gian tới


















5

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1. AN NINH TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI NHÀ NƢỚC
1.1. Khái niệm

Tháng 1 năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149
của tổ chức WTO, đánh dấu bƣớc ngoặt lớn với những cơ hội và thách thức.
Dƣới ảnh hƣởng của xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa tài chính các nƣớc
phải đối mặt với rủi ro tài chính ngày càng lớn và khủng hoảng tài chính đã
trở thành mối đe dọa chủ yếu đến an ninh kinh tế thế giới và Việt Nam cũng
không nằm ngoài dòng chảy đó. Chính vì vậy việc tăng cƣờng an ninh tài
chính, hoàn thiện và cải cách thể chế giám sát tài chính, thiết lập cơ chế ứng
phó tiền tệ cần thiết, cơ chế ngăn chặn rủi ro linh hoạt, tăng cƣờng phối hợp
và hợp tác với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực tài chính, đã trở thành nội
dung chính của an ninh kinh tế. Từ đó có thể thấy an ninh tài chính là một
khái niệm cơ bản, là điều kiện thiết yếu để nền tài chính tồn tại và phát triển
nói riêng, đảm bảo an ninh kinh tế và phát triển bền vững nói chung.Vậy an
ninh tài chính đối với hoạt động của các NHTMNN là gì?
An ninh tài chính là một khái niệm cơ bản để chỉ một tình trạng tài
chính ổn định, an toàn và vững mạnh. Nhƣ vậy, an ninh tài chính đối với
hoạt động của các NHTMNN là việc đảm bảo hệ thống ngân hàng đƣợc tiến
hành một cách ổn định, an toàn, vững mạnh.
Ổn định là sự duy trì đƣợc hoạt động bình thƣờng, không có sự biến
động đột ngột, thất thƣờng. Tuy nhiên ổn định không có nghĩa là giữ nguyên
mọi thứ mà cần phải đƣợc hoàn thiện, cải tiến, sáng tạo phù hợp với điều
kiện của nền kinh tế. Nhất là trong điều kiện khi Việt Nam chính thức gia
nhập WTO, tự do hóa thƣơng mại chúng ta càng cần phải có các biện pháp


6

để vừa phát triển hệ thống tài chính trên cơ sở nền tảng phải giữ đƣợc sự ổn
định trƣớc hết.
An toàn là trạng thái không bị tác động bởi các nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan. Nền tài chính chỉ an toàn khi có các công cụ

và các biện pháp bảo vệ hợp lý. Nếu ổn định là tiền đề có tính chất nền tảng
thì an ninh là cốt lõi chi phối toàn bộ quá trình vận động của tình trạng tài
chính.
Vững mạnh vừa là tiền đề vừa là hệ quả của sự ổn định và an toàn,
một trạng thái tài chính yếu không thể giữ đƣợc ổn định và đảm bảo an toàn,
và một nền tài chính không ổn định thì nền kinh tế sẽ không thế vững mạnh.
Vững mạnh thể hiện qua sự phát triển về mọi mặt của ngân hàng, để vƣơn
lên xứng tầm với quy mô tăng trƣởng của đất nƣớc.
Nhƣ vậy, một NHTMNN muốn tồn tại và phát triển trên cơ sở có sự
an toàn về tài chính thì phải đảm bảo đƣợc ba nguyên tắc trên bên cạnh đó
cần phải chú ý giữ cho ngân hàng không bị khủng hoảng dẫn đến đổ vỡ toàn
hệ thống ngân hàng
1.2. Nội dung an ninh tài chính
Nhiều nhà kinh tế cho rằng mâu thuẫn lớn nhất giữa ngân hàng và
hoạt động ngân hàng là mục tiêu lợi nhuận cao và mục tiêu tính thanh khoản
cao. Về bản chất an ninh tài chính ngân hàng chịu tác động và phải giải
quyết đƣợc mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa tính thanh khoản và lợi nhuận,
giữa rủi ro và lợi nhuận. Các ngân hàng cần phải tối đa hóa lợi nhuận trong
điều kiện vẫn giữ đƣợc tính thanh khoản và hạn chế rủi ro. Tùy theo mục
đích an ninh của từng bộ phận có thể cụ thế hóa của từng cấu thành tài sản
nợ và tài sản có của ngân hàng nhƣ tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi nội tệ, tiền gửi ngoại tệ,… hay cho vay nội tệ, cho vay ngoại tệ,
cho vay khu vực nhà nƣớc, cho vay khu vực tƣ nhân, cho vay mua bất động
sản hay cho vay tiêu dùng. Do tính chất có hạn của đề tài nên tác giả chỉ đi


7

nghiên cứu an ninh tài chính dựa trên nguyên tắc hoạt động nhận tiền gửi và
cho vay chung của các NHTMNN.

1.2.1. Ổn định hoạt động ngân hàng
Theo Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa rằng:‟‟Ngân hàng là tổ
chức tài chính nhận tiền gửi chủ yếu dƣới dạng không kỳ hạn hoặc tiền gửi
đƣợc phép rút ra với một thông báo ngắn hạn, trong đó các NHTM chỉ tham
gia nhận tiền gửi và cho vay ngắn hạn, trung hạn‟‟. Tiền gửi là bộ phận quan
trọng nhất trong tài sản Nợ của từng ngân hàng, trạng thái và động thái của
tiền gửi là một trong những biểu hiện rõ rệt nhất cho tình trạng huy động
vốn của mỗi ngân hàng. Sự ổn định của tiền gửi đƣợc biểu hiện ở tốc độ
tăng tiền gửi, biến động của cơ cấu tiền gửi.
Nhân tố quyết định đến ổn định tiền gửi là tỷ lệ tiết kiệm, niềm tin của
ngƣời gửi và khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng, lợi nhuận thu đƣợc từ
tiền gửi. Bên cạnh đó, tốc độ tăng tiền gửi còn bị chi phối bởi khả năng lựa
chọn của ngƣời gửi tiền và tập quán tiết kiệm trong dân cƣ. Các nƣớc đang
phát triển trong đó có Việt Nam với nền tài chính còn yếu kém, công cụ tài
chính còn đơn giản với tâm lý tiết kiệm chi tiêu cho những khoản mua sắm
lớn trong điều kiện thu nhập còn thấp nên tiền gửi ngân hàng thƣờng tăng ở
mức cao.
Tốc độ tăng tiền gửi luôn luôn phải đồng hành với tốc độ cho vay
trong một ngân hàng. Nếu lƣợng tiền gửi tăng nhanh mà không đƣợc sử
dụng cho vay thì có thế đẩy ngân hàng vào tình thế dƣ thừa vốn trong khi
vẫn phải trả chi phí cho những khoản tiền gửi. Hệ quả là ngân hàng buộc
phải giảm tốc độ tăng tiền gửi thông qua giảm lãi suất hay tăng tín dụng
thông qua nới lỏng các điều kiện cho vay. Cả hai biện pháp đều có khả năng
làm mất uy tín, niềm tin hay tăng rủi ro của ngân hàng. Giả sử tốc độ tăng
tiền gửi thấp hơn nhiều tốc độ tăng cho vay thì ngân hàng dễ lâm vào tình
trạng thiếu vốn cho vay, buộc phải tăng lãi suất để thu hút tiền gửi song


8


không phải dễ dàng tự do hóa lãi suất nhƣ hiện nay đồng thời cho vay dễ bị
mất an toàn hơn do có thể các điều kiện cho vay khá dễ dàng.
Cho vay một mặt là hoạt động cơ bản tạo lợi nhuận của ngân hàng
một mặt là yếu tố quyết định đầu tƣ và tăng trƣởng kinh tế. Tốc độ cho vay
tăng chủ yếu phụ thuộc vào tốc độ tăng trƣởng kinh tế, nền kinh tế phát triển
càng cao thì nhu cầu về việc vay vốn càng lớn. Đối với các nƣớc đang phát
triển trong đó có Việt Nam, các doanh nghiệp thƣờng có xu hƣớng vay vốn
đầu tƣ từ các ngân hàng, bên cạnh đó có sự can thiệp trực tiếp của Chính
phủ đối với hoạt động cho vay cũng là nhân tố thúc đẩy tăng trƣởng tín
dụng.
Tốc độ cho vay và tăng tiền gửi phải đều đặn, không có đột biến và
khoảng cách lớn giữa hai tốc độ này làm đảm bảo cho sự ổn định của hoạt
động ngân hàng.
1.2.2. An toàn hoạt động ngân hàng
An toàn tiền gửi là khả năng ngân hàng có khả năng thanh toán ngay
lƣợng tiền cần thiết khi ngƣời cho vay cần . Để đảm bảo cho việc sẵn sàng
chi trả khách hàng, các ngân hàng cần phải duy trì mức dự trữ bắt buộc và
cả dự trữ quá mức. Các ngân hàng luôn phải dự trữ lƣợng tiền mặt cần thiết
nếu không đủ buộc phải bán các tài sản có giá để có thể thanh toán cho
ngƣời gửi.
An toàn cho vay thể hiện ở việc các khoản cho vay đã, đang và sẽ
thƣờng xuyên đƣợc hoàn trả đúng hạn với lãi suất theo đúng hợp đồng tín
dụng mà công cụ then chốt là quản lý rủi ro, đa dạng hóa và bảo đảm tiền
vay. Việc cho vay luôn đồng nghĩa với rủi ro nhƣng nếu biết quản lý rủi ro
thì sẽ đem lại lợi nhuận lớn, doanh thu cao cho ngân hàng. Kinh doanh chỉ
có lãi khi ngân hàng chấp nhận và giám sát đƣợc rủi ro nhƣng điều này cũng
đồng nghĩa với việc có thể dẫn đến khủng hoảng hệ thống ngân hàng khi các
khách hàng không có khả năng chi trả dẫn đến những tình trạng nợ quá hạn,
nợ xấu đối với ngân hàng. Để đo lƣờng mức độ an toàn cho vay các NHTM



9

áp dụng các biện pháp quản lý tài sản có trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro
của từng khoản vay.
Hệ quả của việc không giám sát đƣợc rủi ro cho vay là tình trạng nợ
quá hạn. Các chỉ tiêu nợ quá hạn / tổng cho vay hay nợ quá hạn / vốn ngân
hàng phản ánh rõ nhất tình trạng an toàn cho vay của từng ngân hàng.
Khủng hoảng cho vay hay khủng hoảng nợ xảy ra khi tỷ lệ nợ quá hạn cao
khiến cho các ngân hàng mất khả năng thanh toán, lâm vào tình trạng phá
sản. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn tối đa là 3-5 % tổng dƣ nợ cho
vay. Vƣợt qua giới hạn này, ngân hàng đứng trƣớc nguy cơ khủng hoảng và
phá sản. Để giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống mức tiêu chuẩn, làm lành mạnh
hóa tình hình tài chính của ngân hàng chúng ta cần phải giảm nợ quá hạn
thông qua cơ cấu lại nợ, dùng quĩ dự phòng rủi ro bù đắp hoặc tăng cƣờng
cho vay. Tuy nhiên nếu nới lỏng tín dụng mà chƣa cải thiện đƣợc các điều
kiện đảm bảo an toàn cho vay thì ngân hàng sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn. Bên
cạnh đó chúng ta còn sử dụng tỷ lệ vốn tối thiểu, tỷ lệ về khả năng thanh
toán, tỷ lệ vốn ngắn hạn tối đa đƣợc sử dụng để cho vay trung và dài hạn để
đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
1.2.3. Vững mạnh của ngân hàng
Sự vững mạnh của các ngân hàng đƣợc thể hiện ở uy tín, năng lực,
phẩm chất của bộ máy quản lý ngân hàng, hệ thống tổ chức cũng nhƣ trình
độ và phẩm chất của đội ngũ nhân viên. Nhƣng một ngân hàng vững mạnh
biểu hiện rõ nét nhất thông qua quy mô vốn của nó. Quy mô vốn của ngân
hàng càng lớn thì uy tín càng cao và khả năng đổ vỡ càng đƣợc hạn chế do
có tiềm lực tài chính để đối phó với các rủi ro, có điều kiện đa dạng hóa tín
dụng để phân tán rủi ro.
Vững mạnh của ngân hàng ngoài quy mô vốn còn đƣợc biểu hiện ở
chỉ tiêu lợi nhuận. Ngân hàng chỉ hoạt động hiệu quả khi tạo ra lợi nhuận

lớn, lợi nhận sau đó đƣợc dùng để tiếp tục đầu tƣ và bù đắp lại các chi phí
hoạt động của ngân hàng. Việc đánh giá qua các chỉ tiêu ROA để biết hiệu


10

quả sử dụng tài sản có và ROE để biết hiệu quả sự dụng vốn cổ phần là cần
thiết của mỗi NHTMNN.
2.YÊU CẦU ĐẢM BẢO AN NINH TÀI CHÍNH
Trong nền kinh tế thị trƣờng, hoạt động của ngân hàng rất nhạy cảm
đối với xã hội, là đầu mối của nhiều mối quan hệ liên quan đến kinh tế vĩ
mô và vi mô. Thực tế kinh nghiệm của nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy
rằng, bất kỳ một chấn động kinh tế - chính trị - xã hội nào cũng ảnh hƣởng
đến hoạt động của các ngân hàng và đòi hỏi phải có những điều chỉnh cơ
cấu phù hợp. Thời gian qua tình hình lạm phát tăng cao ở nƣớc ta buộc các
cơ quan tài chính kết hợp với NHNN đƣa ra nhiều biện pháp để cải thiện
tình hình. Để kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, NHNN đã sử
dụng đồng bộ các giải pháp thắt chặt tiền tệ: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc; tăng
tất cả các lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiếu khấu, lãi suất tái cấp vốn; phát
hành tín phiếu bắt buộc đối với hầu hết các NHTM lớn, ban hành Quyết
định 03, Chỉ thị 03 nhằm hạn chế cho vay chứng khoán… Nhƣ vậy, hoạt
động của các NHTM có tầm ảnh hƣởng sâu sắc đối với nền kinh tế đất
nƣớc. Do đó phải có sự đánh giá đúng đắn hoạt động của các ngân hàng để
đƣa ra những kết luận thỏa đáng và có những định hƣớng sáng suốt, những
điều chỉnh cần thiết cho các mối quan hệ của từng ngân hàng. Đặc biệt đối
với các NHTMNN đang chiếm vai trò chủ đạo chi phối hoạt động trong hệ
thống ngân hàng cần phải luôn đảm bảo đƣợc an ninh tài chính để hệ thống
đƣợc an toàn, không bị khủng hoảng. Ở Việt Nam để đánh giá hoạt động
của một ngân hàng ngƣời ta thƣờng dựa vào 5 tiêu chí CAMEL và các tiêu
chuẩn của Hiệp ƣớc BASEL I.

2.1. Tiêu chí CAMEL
Để đánh giá một doanh nghiệp nói chung hay một ngân hàng nói
riêng, ngƣời ta thƣờng dùng 5 tiêu chí CAMEL để phân tích. Lý thuyết
CAMEL cho rằng nếu quản lý tốt các yếu tố trên sẽ giảm thiểu rủi ro, đảm
bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.


11

+ C- Capital- Vốn của bản thân ngân hàng
+ A- Asset quality- Chất lƣợng tài sản có
+ M- Management ability- Năng lực quản lý
+ E- Earning- Khả năng sinh lời
+ L- Liquidity- Khả năng thanh toán
*C- Vốn của bản thân ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, vốn tự có của một ngân hàng mặc
dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân hàng (khoảng <10%)
nhƣng nó giữ vị trí rất quan trọng, quyết định quy mô và phạm vi kinh
doanh. Nó là cơ sở quyết định huy động bao nhiêu vốn trên thị trƣờng và
đƣợc sử dụng vào mục đích gì. Mặt khác vốn của ngân hàng là cái đệm
chống đỡ sự sụt giảm giá trị của tài sản có của ngân hàng. Đối với kinh
doanh tiền tệ, ngân hàng có đủ vốn tự có, có vốn tự có lớn và duy trì đƣợc
vốn tự có là biểu hiện một ngân hàng bền vững.
(i)Vốn tự có là căn cứ để xác định khả năng thanh toán cuối cùng (tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu) là khả năng đáp ứng toàn bộ các cam kết của ngân
hàng. Về cơ cấu vốn tự có bao gồm phần vốn cơ bản (vốn cấp 1) và vốn bổ
sung (vốn cấp 2).
(ii) Vốn tự có là căn cứ để xác định giới hạn cho vay đối với một
khách hàng: Đánh giá khả năng phân tán rủi ro, không tập trung vốn cho
một khách hàng hay một số khách hàng quá lớn. Ngƣời ta thƣờng đánh giá

khả năng này của một ngân hàng theo chỉ tiêu gọi là hệ số phân tán rủi ro.
Vốn tự có của các NHTM Việt Nam là căn cứ để xác định các giới hạn:
+ Đầu tƣ cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.
+ Cho vay các đối tƣợng ƣu đãi không quá 5% vốn tự có.
+ Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.


12

+ Tổng số tiền bảo lãnh cho một khách hàng của một tổ chức tín dụng
không đƣợc vƣợt quá tỷ lệ 15% so với vốn tự có của tổ chức tín dụng đó.
Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới đối với một ngân hàng sẽ đạt
mức an toàn khi hệ số an toàn vốn lớn hơn 8%. Hệ số này càng cao thì sức
chịu đựng rủi ro của ngân hàng càng lớn. Với việc vận dụng hệ số và tham
khảo giá trị trên đã hỗ trợ rất nhiều cho công tác quản trị ngân hàng tại nhiều
quốc gia trên thế giới.
* A- Chất lƣợng tài sản có
Tài sản có của NHTM bao gồm: tài sản ngân quỹ, tài sản cho vay, tài
sản đầu tƣ và tài sản cố định.
Chất lƣợng tài sản có là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, nếu tổn thất trong cho vay lớn sẽ dẫn đến thua lỗ, làm
giảm vốn tự có, ảnh hƣởng đến khả năng chi trả và biểu hiện quản lý của
ngân hàng yếu kém.
Để phân tích chất lƣợng tài sản có trƣớc hết phải xem tính hợp lý trong
cơ cấu của tài sản có nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu nâng cao mức doanh
lợi, đồng thời đảm bảo khả năng thanh toán với khách hàng có thể sử dụng 2
hệ số cơ cấu sau:
- Hệ số cơ cấu tỷ lệ của 4 nhóm tài sản có: Ngân quỹ, cho vay, đầu tƣ
và tài sản cố định. Qua chỉ số này có thế nhận định tính hợp lý của việc sử
dụng vốn của ngân hàng. Nếu tỷ trọng tài sản cho vay và tài sản đầu tƣ càng

lớn với điều kiện đảm bảo tỷ lệ thích đáng cho tài sản ngân quỹ và tài sản cố
định thì cơ cấu tài sản có của ngân hàng đó càng hợp lý.
- Hệ số cơ cấu của 2 nhóm: Tài sản có sinh lời và tài sản có không sinh
lời. Hệ số này cho phép nhận định mức độ tận dụng các nguồn vốn của ngân
hàng để tối đa hóa lợi nhuận. Bên cạnh đó còn tồn tại loại tài sản có tồn
đọng (nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ khoanh…). Loại tài sản tồn đọng này cao
hay thấp phụ thuộc vào chất lƣợng tín dụng. Nếu chất lƣợng tín dụng cao thì


13

nợ tồn đọng thấp và ngƣợc lại. Để đánh giá chất lƣợng tài sản NHTM sử
dụng các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số nợ quá hạn trên 90 ngày /dƣ nợ bình quân: Hệ số này theo
thông lệ quốc tế không nên vƣợt quá 2%. Hệ số này càng lớn, chất lƣợng tài
sản càng thấp.
+ Hệ số nợ không có khả năng thu hồi (Dƣ nợ không có khả năng thu
hồi / Dƣ nợ bình quân): Hệ số này ở mức 0% là tốt nhất, ở mức 1% là bình
thƣờng, ở mức lớn hơn 1% là có vấn đề.
+ Hệ số bù đắp nợ không có khả năng thu hồi (Qũy dự phòng rủi ro /
Nợ không có khả năng thu hồi): Hệ số này nhất thiếu phải bằng 1, nếu nhỏ
hơn 1 thể hiện ngân hàng không bù đắp đƣợc nợ không có khả năng thu hồi.
Phân tích chất lƣợng tài sản có còn đƣợc đánh giá dƣới góc độ tài sản
đảm bảo của khoản vay, vì tài sản bảo đảm tiền vay làm nhẹ mức độ nghiêm
trọng của tài sản tồn đọng. Ở một số nƣớc, khi phân tích, đánh giá sự đảm
bảo hoàn trả của tín dụng ngƣời ta áp dụng hệ thống đánh giá 3 điểm cho
các hình thức đảm bảo tín dụng và mối tƣơng quan giữa mức cho vay so với
giá trị của tài sản đảm bảo.( Phụ lục 1)
Việc đánh giá chất lƣợng tài sản có của ngân hàng là cần thiết phải tiến
hành theo định kỳ và có hệ thống. Nó xem xét mức độ tuân thủ nguyên tắc

rủi ro phân tán, nợ quá hạn và mức độ quá hạn để từ đó điều chỉnh các chính
sách kinh doanh của ngân hàng sao cho an toàn nhất.
*M- Năng lực quản lý
Lý thuyết CAMEL cho rằng khả năng quản lý là yếu tố năng động
nhất quyết định đến sự thành công của mỗi ngân hàng. Nói đến quản lý là
nói đến yếu tố con ngƣời, tổ chức và chính sách. Tất cả quy tụ lại ở năng lực
quản lý của ban giám đốc điều hành và biểu hiện chất lƣợng quản lý bằng
hiệu quả trong kinh doanh.Việc đánh giá vấn đề này đƣợc thực hiện theo nội


14

dung: Năng lực đề ra sách lƣợc trong kinh doanh, có sức cạnh tranh và
đứng vững trên thị trƣờng; đƣa ra đƣợc kế hoạch triển khai các công việc
hợp lý, rõ ràng và có hiệu quả; vạch ra đƣợc các thủ tục quản lý nghiệp vụ,
quy trình thực hiện nghiệp vụ và bảo đảm sự tuân thủ các thủ tục và quy
trình này trong giao dịch kinh doanh; tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có
hiệu quả, có sự phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân
viên và chuyên gia, cũng nhƣ giữa các khâu, giữa các bộ phận của ngân
hàng; có chính sách nhân sự hợp lý, khuyến khích tính tích cực của mọi
thành viên trong công việc, duy trì đƣợc kỷ luật trong nội bộ. Trong quá
trình hoạt động của một ngân hàng, chất lƣợng quản lý của ban điều hành
ngân hàng thể hiện ở các tiêu chuẩn:
+ Hiệu quả trong kinh doanh: Tiêu chuẩn này thể hiện ở mức độ và sự
tăng trƣởng của kết quả kinh doanh. Tiêu chuẩn này chúng đƣợc đánh giá
bằng việc giữ vững cho kết quả kinh doanh trong tình trạng có những biến
động của thị trƣờng. Năng lực quản lý của ngân hàng còn thế hiện ở khả
năng hạn chế những tổn thất khi có những biến động bất khả kháng ở nhiều
phƣơng diện.
+ Sự tuân thủ pháp luật, các quy chế về hoạt động ngân hàng; sự tín

nhiệm của khách hàng, dân cƣ đối với ngân hàng trong việc gửi tiền, mở tài
khoản, thực hiện giao dịch.
*E- Khả năng sinh lời
Một ngân hàng chỉ tồn tại và phát triển đƣợc khi và chỉ khi hoạt động
có hiệu quả bằng việc kinh doanh có lãi. Để đánh giá khả năng sinh lợi của
khách hàng, ngƣời ta thƣờng sử dụng các hệ số sau:
`- Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) là hệ số tổng hợp nhất
đƣợc dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tƣ. ROA
cho biết cứ một đồng tài sản thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và
ROA đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của công ty. Hệ số này càng cao thì


15

cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này cho thấy khả năng sinh lợi từ
chính nguồn tài sản hoạt động của công ty. ROA đƣợc tính theo công thức:
ROA =
Lợi nhuận sau thuế
x 100%
Tổng tài sản
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có (ROE) cho biết một đồng vốn tự có
tạo đƣợc bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh
của công ty càng mạnh và cổ phiếu của công ty càng hấp dẫn, vì hệ số này
cho thấy khả năng sinh lời và tỷ suất lợi nhuận của công ty, hơn nữa tăng
mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt
động quản lý tài chính của công ty.
ROE =
Lợi nhuận sau thuế
x 100%
Tổng vốn tự có

*L- Khả năng thanh toán.
Khả năng thanh toán là một chuẩn mực hoạt động quan trọng, là
thƣớc đo cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Là khả năng đáp ứng
các chỉ tiêu trong dài hạn và có đủ lƣợng tiền cần thiết cho việc mở rộng và
phát triển. Khả năng thanh toán đƣợc đánh giá theo những quy mô và nội
dung khác nhau, nhƣng thông thƣờng đƣợc lƣợng hóa qua những nội dung
cơ bản sau:
Hệ số vốn khả dụng (H1)
H1 là tỷ lệ của tổng tài sản có thời hạn dƣới một tháng (nội bảng và
ngoại bảng) trên tổng các khoản nợ phải thanh toán trong vòng một tháng
(nội bảng và ngoại bảng). Việc đánh giá vốn khả dụng nhằm mục đích xác
lập, đánh giá khả năng sẵn sàng chi trả tiền khi ngân hàng đó có đủ vốn khả
dụng để thanh toán cho các khoản nợ không kỳ hạn của mình trong một thời


16

gian ngắn.Vốn khả dụng của một NHTM gồm quỹ tiền mặt, tiền gửi tại
NHTW và tại các ngân hàng khác, cũng nhƣ khả năng huy động vốn nhanh
chóng trong thời gian ngắn của ngân hàng.
Hệ số vốn khả dụng đòi hỏi các NHTM phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt và thƣờng xuyên và vào bất cứ thời điểm nào. Nếu H nhỏ hơn 1 là biểu
hiện ngân hàng bị đe dọa về khả năng thanh toán và tính linh hoạt trong kinh
doanh có vấn đề.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh ( H2): Là khả năng ngân hàng dùng tiền
hay các tài sản có thế quy đổi thành tiền để thanh toán với khách hàng khi
đến ngày đáo hạn. Do đó khi đánh giá khả năng thanh toán, ngƣời ta còn sử
dụng bổ sung một số chỉ tiêu phân tích khác: H2.1= (Tiền mặt tồn quỹ-
VND và ngoại tệ) / (Tài sản nợ dễ biến động); H2.2= (tiền gửi tại NHNN) / (
Tài sản nợ dễ biến động); H2.3= (Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD trong

và ngoài nƣớc) / (Tài sản nợ dễ biến động); H2.4= (Tiền gửi không kỳ hạn
tại các TCTD khác) / (Tiền gửi không kỳ hạn tại các TCTD trong và ngoài
nƣớc).
2.2. Tiêu chuẩn BASEL I.
Hiệp ƣớc BASEL I đánh dấu bƣớc ngoặt lớn trong việc thiết lập ‟‟các
quy tắc đơn giản‟‟ trong việc tính toán tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các
ngân hàng bằng việc sử dụng khung đánh giá trọng số rủi ro. Với mục đích
phân bổ nguồn vốn nhạy cảm hơn đối với rủi ro, cố gắng gắn kết nguồn vốn
kinh tế và nguồn vốn bắt buộc để bảo vệ ngƣời gửi tiền. BASEL I đã đƣợc
nhiều nƣớc trên thế giới áp dụng nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài
chính.
Theo quy định BASEL hệ số an toàn vốn CAR (Capital Adequacy
Ratio) đƣợc tính theo công thức:
Hệ số an toàn vốn CAR =
Tổng vốn tự có
x 100%
Tổng giá quy đổi của tài sản có rủi ro


17

Trong đó vốn tự có đƣợc xác định bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2:
Vốn cấp 1 gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ và lợi nhuận không chia
Vốn điều lệ: Là số vốn do tất cả thành viên đóng góp và đƣợc ghi vào
Điều lệ công ty. Vốn điều lệ thƣờng lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn
điều lệ của NHTMNN do Bộ Tài chính cấp từ ngân sách Nhà nƣớc. Trong
khi đó vốn điều lệ của NHTMCP do cổ đông góp vốn, thể hiện bằng sở hữu
một số lƣợng cổ phiếu theo luật định.
Vốn điều lệ là một phần của vốn chủ sở hữu trong ngân hàng thƣơng
mại, nó không phải là món nợ, mà là vốn bất khả phân chia dƣới mọi hình

thức, có đến một thời điểm nhất định. Vốn điều lệ là thành phần chủ yếu cấu
thành vốn tự có ngân hàng thƣơng mại.
Ngân hàng thƣơng mại đƣợc dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM có nhiều nợ xấu và các khoản rủi
ro khác nhƣ mất quỹ tiền mặt, rủi ro trong thanh toán không dùng tiền mặt
mà quỹ dự phòng rủi ro và các loại quỹ khác của NHTM không đủ năng lực
tài chính xóa hết các món nợ xấu và các rủi ro khác. Khi đó thanh tra các tổ
chức tín dụng của NHNN có quyền yêu cầu ngân hàng thƣơng mại dùng vốn
điều lệ để xóa hết những món nợ xấu và các rủi ro khác. Nhƣng nếu ngân
hàng đó dùng vốn điều lệ xóa nợ xấu và các rủi ro khác hết 50%, mà trong
một thời gian ngắn không có khả năng tăng vốn điều lệ, NHNN đƣợc quyền
tuyên bố NHTM ấy đã phá sản.
Do đó việc thƣờng xuyên tăng thêm vốn điều lệ là yêu cầu khách
quan theo quy định của pháp luật về hoạt động ngân hàng và yêu cầu khách
quan về phát triển kinh doanh của ngân hàng.
Các quỹ dự trữ: Các quỹ dự trữ lập trên cơ sở trích từ lợi nhuận của
các tổ chức tín dụng sau khi bù đắp lỗ năm trƣớc theo quy định của Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy


18

định của pháp luật. Các quỹ dự trữ bao gồm quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tƣ phát triển.
(i) Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
dùng để bổ sung vốn điều lệ. Vốn từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ hình
thành từ lợi nhuận sau thuế. Thặng dƣ vốn sẽ đƣợc nhập quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ để tăng vốn về sau.
Đối với các NHTMNN, trích lập quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 5%,

mức tối đa của quỹ này không vƣợt quá mức vốn điều lệ của ngân hàng.
(ii) Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ dự phòng tài chính dùng để bù đắp
phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình
kinh doanh sau khi đã đƣợc bù đắp bằng tiền bồi thƣờng của các tổ chức, cá
nhân gây ra tổn thất, của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng trích lập
trong chi phí.
Trong hệ thống ngân hàng, quỹ dự phòng tài chính thƣờng dùng để xử
lý và giải quyết những vấn đề liên quan đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Mức trích lập và sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro trong hoạt
động ngân hàng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc quy định sau khi thống
nhất với Bộ trƣởng Bộ Tài chính.
Đối với các NHTMNN, trích qũy dự phòng tài chính 10% mức tối đa
của qũy này không vƣợt quá 25% vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng. Mức
trích lập lấy từ lợi nhuận sau khi trừ đi: Phần trích lập quỹ dự trữ bổ sung
vốn điều lệ; chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định của
hợp đồng (nếu có); bù đắp khoản lỗ của các năm trƣớc đã hết thời hạn đƣợc
trừ vào lợi nhuận trƣớc thuế thu nhập.
(iii) Quỹ đầu tƣ và phát triển nghiệp vụ: Quỹ đầu tƣ phát triển
nghiệp vụ dùng để đầu tƣ mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh và đổi mới
công nghệ trang thiết bị, điều kiện làm việc của tổ chức tín dụng.


19

Căn cứ vào nhu cầu đầu tƣ và khả năng của quỹ, Hội đồng quản trị
của tổ chức tín dụng quyết định hình thức và biện pháp đầu tƣ theo nguyên
tắc có hiệu quả, an toàn và phát triển vốn.
Đối với các NHTMNN, trích lập Quỹ đầu tƣ phát triển nghiệp vụ
50%. Mức trích lập lấy từ lợi nhuận sau khi trừ đi: Phần trích lập quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ; chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy

định của hợp đồng (nếu có); bù đắp khoản lỗ của các năm trƣớc đã hết thời
hạn đƣợc trừ vào lợi nhuận trƣớc thuế thu nhập.
Ngoài ra, quỹ đầu tƣ phát triển nghiệp vụ đƣợc bổ sung từ lợi nhuận
còn lại sau khi trích 2 quỹ khen thƣởng, phúc lợi
(iv) Lợi nhuận không chia: Là phần thu nhập của ngân hàng đƣợc
giữ lại trong quá trình kinh doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức. Tổ chức tín
dụng đƣợc sử dụng vốn hoạt động để kinh doanh theo quy định của Luật
Các tổ chức tín dụng, đảm bảo nguyên tắc an toàn và phát triển vốn. Tổ
chức tín dụng chỉ đƣợc sử dụng không quá 50% vốn tự có cấp một (theo
hƣớng dẫn của NHNN) để đầu tƣ xây dựng, mua sắm tài sản cố định và phải
chấp hành đầy đủ các quy định của Nhà nƣớc về quản lý đầu tƣ và xây
dựng.
Vậy vốn cấp 1 đƣợc dùng làm căn cứ xác định giới hạn mua, đầu tƣ
vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng.
Vốn cấp 2 đƣợc xác định:
a. 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định đƣợc định giá lại
theo quy định của pháp luật.
b. 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tƣ ( kể cả
cổ phiếu đầu tƣ, vốn góp) đƣợc định giá lại theo quy định của pháp luật


20

c. Trái phiếu chuyển đổi (tức là loại trái phiếu có thể chuyển đổi sang
cổ phiếu) và cổ phiếu ƣu đãi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn những
điều kiện sau :
- Có kỳ hạn ban đầu, thời hạn còn lại trƣớc khi chuyển đổi thành cổ
phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm.
- Không đƣợc đảm bảo bằng tài sản của chính tổ chức tín dụng.
- Tổ chức tín dụng không đƣợc mua lại theo đề nghị của ngƣời sở hữu

hoặc mua lại trên thị trƣờng thứ cấp, hoặc tổ chức tín dụng chỉ đƣợc mua lại
sau khi đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc chấp thuận bằng văn bản.
- Tổ chức tín dụng đƣợc ngừng trả lãi và chuyển lãi lũy kế sang năm
tiếp theo nếu việc trả lại dẫn đến kết quả kinh doanh trong năm bị lỗ.
- Trong trƣờng hợp thanh lý tổ chức tín dụng, ngƣời sở hữu trái phiếu
chuyển đổi chỉ đƣợc thanh toán sau khi tổ chức tín dụng đã thanh toán cho
tất cả các chủ nợ có đảm bảo và không có đảm bảo khác.
Việc điều chỉnh tăng lãi suất chỉ đƣợc thực hiện sau 5 năm kể từ ngày
phát hành và điều chỉnh một lần trong suốt thời hạn trƣớc khi chuyển đổi
thành cổ phiếu phổ thông.
d. Tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa bằng 100% giá trị vốn cấp 1.
e. Trong thời gian 5 năm cuối cùng trƣớc khi đến hạn thanh toán,
chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông giá trị các công cụ nợ khác và trái
phiếu chuyển đổi đƣợc tính vào vốn cấp 2 sẽ phải khấu trừ mỗi năm 20% giá
trị ban đầu.
Tài sản có rủi ro.
Tài sản có rủi ro là những khoản mục tài sản có đƣợc phản ánh trong
và ngoài bảng tổng kết tài sản Có thể bị tổn thất trong quá trình kinh doanh


21

nhƣ cho vay không thu hồi đƣợc nợ, ngân hàng phải trả tiền cho khách hàng
đƣợc bảo lãnh, giá trị chứng khoản giảm, công ty đƣợc ngân hàng hùn vốn
liên doanh bị thua lỗ…
Dựa vào tính chất của tài sản, tài sản Có rủi ro đƣợc phân thành: Các
khoản tín dụng bị rủi ro, các khoản đầu tƣ bị rủi ro, các khoản bảo lãnh bị
rủi ro…
Dựa vào hình thức quản lý tài sản, tài sản Có rủi ro bao gồm: Tài sản
có rủi ro nội bảng, tài sản rủi ro ngoại bảng.(phụ lục 2 và 3)

Ngoại trừ các tài sản đƣợc xem nhƣ không có rủi ro nhƣ: tiền mặt,
tiền gửi, NHNN… mỗi tài sản đều có đô rủi rỏ nhất định đƣợc đánh giá từ
0% -100%. Các loại tài sản này đƣơc phân theo 4 tiêu chuẩn khác nhau:
không có rủi ro(0%), rủi ro thấp(20%), rủi ro trung bình (50%), rủi ro cao
nhất (100%). Thông thƣởng rủi ro đƣợc chia thành mức: 0%, 20%, 50%,
100% để tƣơng ứng với cách xếp loại Tài sản Có: Tài sản có bình thƣờng,
Tài sản có kém tiêu chuẩn, Tài sản có nghi ngờ, Tài sản có bị mất trắng.
(Phụ lục 2)
Quy ƣớc Basel năm 1988 quy định một ngân hàng Uỷ ban Basel đã
phân chia tài sản nội và ngoại bảng thành từng nhóm tƣơng ứng với một hệ
số rủi ro nhất định nhƣ sau thƣơng mại phải đáp ứng hai tỷ lệ đủ vốn: tỷ lệ
vốn cấp 1 trên tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro (RWA) là 4% và tỷ lệ vốn
cấp 1 cộng vốn cấp 2 trên tổng giá trị quy đổi của tài sản có rủi ro lớn hơn
hoặc bằng 8%.
3. KINH NGHIỆM GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
TRUNG ƢƠNG TRUNG QUỐC VÀ BÀI HỌC CHO HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM
Trƣớc những nhu cầu cấp thiết trong việc đảm bảo an toàn và lành
mạnh của hệ thống ngân hàng cần thiết phải có những cải cách thể chế


22

thanh tra giám sát ngân hàng hƣớng tới thông lệ quốc tế. Nhiều mô hình tổ
chức và hoạt động mới đã đƣợc đề xuất, nhiều giải pháp khắc phục, xử lý
tích cực cũng đã đƣợc khuyến nghị để nâng cao hiệu quả việc giám sát ngân
hàng.
Trung Quốc và Việt Nam, 2 nƣớc có nền kinh tế chuyển đổi, có nhiều
nét tƣơng đồng về thể chế kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội, cũng nhƣ là
về những đặc thù trong cấu trúc hệ thống tài chính. Do vậy, tác giả tiếp cận

vấn đề thông qua việc xem xét kinh nghiệm cải tổ của ngân hàng của Trung
Quốc, từ đó đƣa ra những nhận xét, kiến nghị đối với việc giám sát hệ
thống ngân hàng Việt Nam trong chƣơng giải pháp.
3.1. Tổng quan Uỷ ban giám sát Ngân hàng của Trung Quốc
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC): PBC đƣợc thành lập trên cơ sở
hợp nhất của 3 ngân hàng sẵn có là Huabei Bank, Beihai Bank và Xibei
Farmer Bank. Vào tháng 9 năm 1983, Quốc vụ Viện quyết định chuyển
PBC thành Ngân hàng Trung ƣơng của nƣớc Cộng hòa Nhân dân Trung
Quốc, thực hiện các chức năng thông thƣờng nhƣ mọi NHTW khác trên thế
giới. Tuy nhiên công cuộc cải cách khu vực tài chính - ngân hàng đã diễn ra
mạnh mẽ trong suốt thập kỷ 80 và tiếp theo đƣa đến một trong những hệ quả
quan trọng là sự phân tách giữa 3 lĩnh vực: ngân hàng, bảo hiểm và chứng
khoán.
Tới năm 1998, PBC chính thức thôi không còn thẩm quyền quản lý và
giám sát 2 lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán nữa, những trách nhiệm này
đƣợc trao lại cho 2 ủy ban chuyên trách mới đƣợc thành lập.
Một sự kiện quan trọng tiếp theo là vào tháng 3/2003, Hội nghị lần
thứ nhất Đại hội Đại biểu Nhân dân Trung quốc khoá 10 đã phê chuẩn
“Quyết định cải tổ cấu trúc tổ chức của Quốc vụ Viện”, theo đó là việc tách
bỏ chức năng điều tiết và giám sát các tổ chức ngân hàng, các công ty quản
lý tài sản, các công ty uỷ thác và đầu tƣ, các tổ chức tài chính có nhận tiền
gửi khác ra khỏi PBC. Một uỷ ban chuyên trách trực thuộc Quốc vụ Viện –


23

“Uỷ ban Quản lý và giám sát ngân hàng Trung quốc” (CBRC) đã đƣợc
thành lập để thực thi nhiệm vụ này chính thức từ tháng 4/2003.
Việc tách bỏ chức năng giám sát ngân hàng nhằm giải quyết mối xung
đột tiềm tàng về lợi ích giữa chính sách tiền tệ và chức năng điều tiết, giám

sát hoạt động của hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, theo lý thuyết của Ngân
hàng trung ƣơng hiện đại chỉ ra rằng: sứ mệnh trọng yếu của các Ngân hàng
trung ƣơng ngày nay là đảm bảo sự ổn định giá trị đồng tiền, qua đó hỗ trợ
tăng trƣởng kinh tế bền vững. Theo xu hƣớng chung trên thế giới, PBC đã
chủ yếu tập trung mọi nguồn lực của mình vào việc hoạch định và thực thi
chính sách tiền tệ.Việc thực hiện chức năng bảo vệ sự ổn định và an toàn
của cả hệ thống ngân hàng sẽ do cơ quan giám sát ngân hàng phụ trách.
Chức năng chính của CBRC là:
 Thiết lập những quy tắc quản lý và đƣa ra những điều chỉnh chủ
yếu trong hệ thống các ngân hàng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
 Đƣợc ủy quyền về việc xác lập phạm vi hoạt động của mỗi ngân
hàng.
 Có những hành động trấn áp mạnh để giữ vững sự ổn định, tránh
những hành vi phá vỡ hệ thống.
 Kiếm soát vai trò của cá nhân lãnh đạo mỗi ngân hàng.
 Công bố thông tin, báo cáo số liệu của các ngân hàng.
Thanh tra giám sát ngân hàng của CBRC tập trung vào những
nhiệm vụ:
 Tập trung giám sát rủi ro, cải thiện phƣơng pháp và quá trình
giám sát.
 Củng cố giám sát nguồn vốn, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu của
mỗi ngân hàng.
 Kiến nghị những ngân hàng phải đặt dƣới sự kiểm soát nội bộ.
 Thực hiện cải cách giám sát theo tiêu chuẩn chung của thế giới
3.2. Bài học cho hoạt động giám sát ngân hàng của Việt Nam


24

Những thành tựu thu đƣợc trong những năm vừa qua của các ngân hàng

Việt Nam là rất đáng khích lệ, tuy nhiên kết quả thu đƣợc vẫn còn cách xa
so với mục tiêu đề ra, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng hiện có. Nhằm góp
phần hỗ trợ cho công cuộc cải cách toàn diện, triệt để thể chế thanh tra giám
sát ngân hàng, tác giả có một số kiến nghị sau:
- Cải cách NHNN nói chung, Thanh ra nói riêng phải đƣợc phối hợp
chặt chẽ với chƣơng trình tái cơ cấu các NHTMNN và các Doanh nghiệp
nhà nƣớc; tất cả phải đặt trong tiến trình chung về cải cách thể chế, tổ chức
bộ máy nhà nƣớc.
- Để cải cách triệt để thể chế Thanh tra giám sát ngân hàng chỉ có thể
đạt đƣợc khi thiết lập đƣợc Luật về giám sát ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc
tế.
- Vai trò chủ quản của NHNN đối với các TCTD, các NHTMNN sẽ kết
thúc khi chúng ta bƣớc vào giai đoạn hội nhập. Hoạt động giám sát ngân
hàng se phải thay đổi căn bản trên cơ sở tập trung hóa, hƣớng đến mục tiêu
bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, phù
hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể:
 Các bộ phận giám sát ngân hàng sẽ tập trung hơn vào việc giám
sát an toàn hệ thống TCTD và xử lý các TCTD có vấn đề theo thẩm quyền
trên cơ sở chấn chỉnh và nâng cao kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong từng
TCTD, coi đó là hệ thống quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn cho TCTD. Hỗ trợ
thanh tra ngân hàng còn có sự giám sát của một số cơ quan: Bảo hiểm tiền
gửi, các công ty kiểm toán độc lập…
 Những hoạt động không phù hợp với nhiệm vụ giám sát ngân
hàng cần phải đƣợc chuyển sang những bộ phận khác phù hợp nhằm tại điều
kiện để hoạt động thanh tra giám sát trở về đúng bản chất là giám sát phòng
ngừa nhằm phát hiện, cảnh báo sớm những rủi ro trong toàn hệ thống cũng
nhƣ trong từng TCTD và có những biện pháp xử lý kịp thời.
 Thay đổi phƣơng thức tiến hành giám sát từ xa và thanh tra tại
chỗ với cách tiếp cận từ trên xuống dƣới, chuyển dần từ giám sát định
hƣớng tuân thủ sang giám sát dựa trên rủi ro.

×