Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9 thông qua chuyên đề Mỹ - Nhật Bản - Tây Âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.97 KB, 25 trang )

1

UBND QUẬN HÀ ĐÔNG
TRƯỜNG THCS LÊ HỒNG PHONG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn
Lịch sử 9 thông qua chuyên đề Mỹ - Nhật Bản - Tây Âu

Lĩnh vực/ Môn: Lịch sử
Cấp học: THCS
Tác giả: Phan Hồng Diệu
Đơn vị công tác:Trường THCS Lê Hồng Phong
Chức vụ: Giáo viên

NĂM HỌC: 2021 - 2022

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


2

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Mơn Lịch sử trong nhà trường phổ thơng nói chung, ở lớp 9 nói riêng có
chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.
Không chỉ ở nước ta mà ở các nước tiên tiến trên thế giới cũng chú trọng việc
dạy môn Lịch sử vì nó đào tạo con người có bản sắc dân tộc, hiểu biết nguồn
cội, biết tôn trọng quá khứ để có thái độ đúng đắn với cuộc sống hiện tại và
tương lai.


Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều học sinh cho rằng môn Lịch sử là
môn phụ không quan trọng, cho nên thường lơ là trong việc học tập, vì vậy kết
quả học tập của mơn này khơng cao. Gần đây nhất chúng ta cũng biết trên các
thông tin đại chúng (báo, truyền hình, mạng Internet…) đều đưa tin thống kê
điểm thi vào các trường Đại học, Cao đẳng mơn Lịch sử q thấp so với các
mơn khác (có hàng trăm bài bị 0 điểm, 1 điểm trong một trường). Thậm chí
nhiều em cịn nhầm lẫn giữa các nhân vật lịch sử gắn với thời gian của các sự
kiện lịch sử đó…Và có lẽ điểm thi mơn Lịch sử của học sinh phổ thông trong
thời gian vừa qua quá thấp, đã là hồi chuông cảnh tỉnh cho cả xã hội và những
người làm giáo dục. Chính vì vậy, Phịng GD và ĐT quận Hà Đông đã rất chú
trọng đến chất lượng dạy và học mơn Lịch sử. Trong kì thi tuyển vào 10 THPT,
hai năm học 2018 - 2019 và năm học 2020 - 2021 môn Lịch sử được chọn là
một trong những môn thi tuyển. Nên việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng
cao chất lượng dạy học, giảm tỉ lệ học sinh yếu kém ở bộ môn Lịch sử ngày
càng trở nên cấp thiết.
Trong thời gian qua, Phịng GD và ĐT quận Hà Đơng rất quan tâm đến
nâng cao chất lượng giáo dục, có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực để nâng
cao chất lượng giáo dục đại trà và toàn diện. Năm học 2020 – 2021, ngành
GD&ĐT quận Hà Đông tập trung “Nâng cao chất lượng giáo dục đại trà và giáo
dục toàn diện” các cấp học.
Nhiệm vụ chính trị quan trọng đặt ra cho mỗi nhà trường. Trường THCS
Lê Hồng Phong đã đề ra nhiệm vụ năm học 2020 - 2021: đào tạo được những
học sinh có kiến thức cơ bản, làm tốt cơng tác phụ đạo học sinh yếu kém để
nâng cao chất lượng giáo dục đại trà. Bản thân tôi đã được nhà trường giao
nhiệm vụ dạy học môn Lịch sử lớp 9. Trước tình trạng học sinh yếu kém, chán
học mơn Lịch sử tồn tại khá nhiều trong các nhà trường THCS, tơi khơng ngừng
tìm tịi khám phá, xây dựng hoạt động, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy
học trong các giờ học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học
sinh, xây dựng cho học sinh một hướng tư duy chủ động, sáng tạo, nhằm phát
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9

thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


3

huy tính tích cực của học sinh để nâng cao chất lượng học tập môn Lịch sử,
giảm dần tỉ lệ học sinh yếu kém. Vì vậy tơi đã lựa chọn chuyên đề: “Một số biện
pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9 thông qua chuyên đề Mỹ – Nhật
Bản- Tây Âu”.
II. Thực trạng giáo dục của nhà trường
1. Thuận lợi
Được sự chỉ đạo của Phòng GD và ĐT quận Hà Đông, nhà trường từng
bước nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện, góp phần vào sự phát triển chung
của giáo dục Thành phố. Những kết quả mà nhà trường đạt được trong nhiều
năm qua đã tạo nên một uy tín lớn, được học sinh, phụ huynh tin tưởng lựa
chọn.
 Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm đến q trình đổi mới phương
pháp dạy học, ln tạo điều kiện để người dạy phát huy tốt khả năng của bản
thân.
Giáo viên giảng dạy được tham gia đầy đủ các buổi tập huấn bồi dưỡng
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, được dự các chuyên đề đổi mới phương pháp
do Sở, Phịng giáo dục tổ chức nên có cơ hội tiếp cận với phương pháp giảng
dạy mới.
Bản thân giáo viên có trình độ chun mơn, tích cực học hỏi trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo
hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp giảng dạy
như: trực quan, giải quyết vấn đề, vấn đáp thông qua sự trình bày sinh động giàu
hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện, hoặc khắc họa đặc
điểm nhân vật Lịch sử…
Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa. Một số em có thêm tư liệu tham

khảo. Đa số các em ngoan, ý thức nề nếp tốt, chú ý nghe giảng, tập trung suy
nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra để chiếm lĩnh kiến thức.
2. Khó khăn
Nhà trường cịn thiếu giáo viên, giáo viên Lịch sử cịn dạy kiêm nhiệm
các mơn khác như Địa lý, GDCD. Ngồi ra cịn cơng tác chủ nhiệm, bồi dưỡng
học sinh giỏi… nên việc phân bố thời gian để bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu
kém còn hạn chế.
Thiết bị dạy học phục vụ dạy học môn Lịch sử còn thiếu: sách tham khảo,
tranh, ảnh, hiện vật, máy chiếu,...trong khi nhiều bài giảng có những clip, phim
tư liệu, tranh ảnh hấp dẫn, sinh động giúp học sinh hiểu bài, hứng thú với bài
học chưa thể truyền tải tới học sinh. Việc tiến hành các phương pháp mới như
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


4

dạy học theo dự án, dạy học tại thực địa... khó có khả năng áp dụng. Điều này ít
nhiều cũng ảnh hưởng tới chất lượng giảng dạy của bộ môn.
Học sinh chưa có sự độc lập suy nghĩ và tư duy, hoặc trả lời câu hỏi bằng
cách đọc nguyên văn sách giáo khoa.
Học sinh cịn lười học và chưa có sự say mê mơn học. Một số học sinh
chưa có sự chuẩn bị bài mới ở nhà, lên lớp các em thiếu tập trung suy nghĩ, cho
nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử ... còn yếu.
Học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, đơn giản (trình bày), cịn một
số câu hỏi dạng tổng hợp, phân tích, giải thích, so sánh,…thì học sinh cịn lúng
túng khi trả lời hoặc trả lời mang tính chất chung chung, chưa cụ thể.
3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm
Năm học 2019 - 2020, tôi được phân công giảng dạy môn Lịch sử lớp 9.
Để nắm bắt được tình hình chất lượng học tập mơn Lịch sử của học sinh, tôi đã

tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm học 2019 - 2020. Từ đó phân loại học
sinh và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng học sinh.
Kết quả khảo sát như sau:
Giỏi
Khá
Trung bình Yếu
Kém
SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% SL TL%
9
119
16 13,4 34
28,6 37 31,1
25 21,0 7
5,9
Như vậy, học sinh yếu kém còn chiếm tỉ lệ khá cao 32 học sinh/ 119 học
sinh (chiếm 26,9% ). Do đó, trong q trình giảng dạy tơi ln quan tâm đến đối
tượng học sinh yếu kém: tôi nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ mơn của
học sinh, rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, hỏi đáp với những câu hỏi phát triển
tư duy, khắc họa biểu tượng nhân vật lịch sử trong giờ lên lớp và hoạt động
ngoại khóa, trong các bài kiểm tra thường xuyên và định kỳ, nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học của bộ môn. Nhờ vậy mà kết quả học sinh thi vào 10 THPT đã
có bước tiến rõ rệt.
4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém
 4.1. Về phía học sinh
          - Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy, nhận thấy rằng các em
học sinh yếu đa số là những học sinh cá biệt, mải chơi, trong lớp không chịu chú
ý chun tâm vào việc học. Về nhà thì khơng xem bài, khơng chuẩn bị bài,
khơng làm bài tập. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em chưa xác định được mục
đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi
ghi vào những nội dung đã học để sau đó về nhà lấy ra “học vẹt” mà khơng hiểu

được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương pháp và động cơ học
tập đúng đắn.
Khối TSHS

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


5

         - Cách tư duy của học sinh: Môn Lịch sử được xem là một môn học
cần nhiều yếu tố để học tốt như: cách tư duy tinh tế, sự tỉ mỉ, cách n ắm các
sự kiện cơ bản, hiểu được mối quan hệ móc xích giữa các sự kiện lịch sử, sự tác
động qua lại của các sự kiện lịch sử, mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch
sử Việt Nam ....Vì vậy khi học sinh khơng có tư duy lịch sử đúng đắn sẽ dẫn
tới việc một số em dần mất đi hứng thú học và dẫn đến tình trạng học yếu,
kém.
  
- Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới: Đây là một điều không thể phủ
nhận với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến bản
thân từng học sinh và cách đánh giá của giáo viên chưa hợp lí, chính xác.
4.2. Về phía giáo viên
   
Ngun nhân học sinh học yếu khơng phải hoàn toàn là ở học sinh mà
một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên:
  
- Hiện nay, còn một số giáo viên chưa thực sự chú ý đúng mức đến đối
tượng học sinh yếu. Chưa theo dõi sát sao và xử lý kịp thời các biểu hiện sa sút
của học sinh.
  

- Một số giáo viên chưa thật sự chịu khó, tâm huyết với nghề, chưa thật sự
giúp đỡ các em thoát khỏi yếu kém, như gần gũi, tìm hiểu hồn cảnh để động
viên, hoặc khuyến khích các em khi các em có chút tiến bộ trong học tập như là
khen thưởng các em. Từ đó các em cam chịu, dần dần chấp nhận với sự yếu kém
của chính mình và nhụt chí khơng tự vươn lên...
- Một số giáo viên khi tiến hành giảng dạy còn chưa đổi mới phương pháp
dạy học, vẫn tập trung chủ yếu với phương pháp “đọc – chép” khiến học sinh
không hiểu bài, khơng có hứng thú học tập. Các em bị “hổng” kiến thức và lỗ
“hổng” đó càng ngày càng rộng khiến các em trượt dài trên con đường mất kiến
thức. Điều đó làm cho học sinh khơng nắm được bài và từ đó dẫn tới giờ học các
em khơng cịn chú ý đến việc học tập, kết quả cuối cùng là học sinh trở thành
học sinh yếu, kém.
- Tốc độ giảng dạy kiến thức mới và luyện tập còn nhanh khiến cho học
sinh yếu không theo kịp.
- Trong nhà trường, một số cán bộ, giáo viên cũng chưa có sự nhận thức
đúng đắn về vai trị và vị trí của môn Lịch sử. Họ cũng coi môn Lịch sử là mơn
học phụ, ít có tầm ảnh hưởng đến tổng quan của nhà trường kể cả khi tham gia
vào THPT. Do đó, ít nhiều cũng ảnh hưởng tới tâm lí của học sinh, học sinh
cũng có nhận thức sai lệch về bộ mơn. Từ đó các em ít dành sự quan tâm tới
Lịch sử và hậu quả đó là chất lượng bộ mơn bị ảnh hưởng nói chung và nhất là
các em có nhận thức chậm lại càng yếu hơn.
 4.3. Về phía phụ huynh 
     Cịn một số phụ huynh học sinh :
 
- Thiếu quan tâm đến việc học tập ở nhà của con em, phó mặc mọi việc
cho nhà trường và thầy cô.
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu



6

 
- Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm
khiến trẻ khơng chú tâm vào học tập.
- Cha mẹ học sinh và xã hội cịn coi nhẹ và xem mơn Lịch sử là mơn phụ
nên dành ít thời gian và sự quan tâm đầu tư chưa chuẩn nhất là trong bối cảnh
thực tế hiện nay khi các trường đại học thi tuyển sinh các ngành nghề có liên
quan đến mơn Lịch sử ít, nếu có thì lại là những ngành nghề mang lại thu nhập
thấp, khó xin việc làm. Vì vậy, kết quả bộ môn ngày càng sa sút, yếu kém trên
phạm vi rộng, tỉ lệ học sinh yếu cũng tăng lên và nguy hiểm hơn việc các thế hệ
trẻ khơng có kiến thức lịch sử dân tộc ngày càng nhiều. Đây là điều nguy hại tới
sự tồn vong của quốc gia khi mà trẻ khơng có kiến thức về lịch sử dân tộc.
 
Trên đây chỉ là một số nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng học
sinh yếu mà bản thân tơi trong quá trình giảng dạy đã nhận thấy như vậy.

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


7

B. NỘI DUNG
I. Hệ thống các giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng giảng dạy giảm tỉ
lệ học sinh yếu, kém môn Lịch sử.
1. Các giải pháp chung
a. Phân loại đối tượng học sinh
      - Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng để phân loại
học sinh. Những học sinh làm bài đạt kết quả cao, tư duy tốt, trình bày sạch đẹp

tơi lựa chọn vào đội tuyển học sinh giỏi. Những học sinh có kết quả yếu kém, tơi
lập danh sách rồi tiến hành phụ đạo. Bởi khi phân loại những học sinh yếu kém
đúng với những đặc điểm vốn có của các em tôi sẽ lựa chọn biện pháp giúp đỡ
phù hợp với đặc điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay
gặp ở các em là: Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài chậm, lười học, thiếu tự
tin, nhút nhát…
   
- Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động,
dành cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều
kiện cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm
được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
- Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề
ra nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh yếu được củng cố và luyện tập phù
hợp.
  
- Ngoài ra, giáo viên tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện
pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ đạo 1
buổi/tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo có thể kết hợp với hình thức vui chơi
nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
b. Giáo dục ý thức học tập cho học sinh
       - Giáo viên phải giáo dục ý thức học tập của học sinh tạo cho học sinh sự
hứng thú trong học tập. Trong mỗi tiết dạy, giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức
vào thực tế để học sinh thấy được ứng dụng trong thực tiễn. Từ đây, các em sẽ
ham thích và say mê khám phá tìm tịi trong việc chiếm lĩnh tri thức.
       - Bên cạnh đó, giáo viên phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh về hồn
cảnh gia đình và nề nếp sinh hoạt, khuyên nhủ học sinh về thái độ học tập, tổ
chức các trị chơi có lồng ghép việc giáo dục học sinh về ý thức học tập tốt và ý
thức vươn lên trong học tập, làm cho học sinh thấy tầm quan trọng của việc học.
Đồng thời, giáo viên phối hợp với gia đình giáo dục ý thức học tập của học sinh.
Do hiện nay, có một số phụ huynh ln gị ép việc học của con em mình, sự áp

đặt và quá tải sẽ dẫn đến chất lượng không cao. Bản thân giáo viên cần phân tích
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


8

để các bậc phụ huynh thể hiện sự quan tâm đúng mức. Nhận được sự quan tâm
của gia đình, thầy cơ sẽ tạo động lực cho các em ý chí phấn đấu vươn lên.
c. Kèm cặp học sinh yếu kém
        - Tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém
về cách học tập, về phương pháp vận dụng kiến thức.
       - Tổ chức kèm cặp, phụ đạo cho các em. Trong các buổi này, giáo viên
chủ yếu kiểm tra việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp, nếu thấy các em
chưa chắc cần tiến hành ôn tập củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn.
Nói chuyện để tìm hiểu thêm những chỗ các em chưa hiểu hoặc chưa nắm chắc
để bổ sung, củng cố. Hướng dẫn phương pháp học tập: học bài, làm bài, việc tự
học ở nhà.
d. Tăng cường kiểm tra việc chuẩn bị học tập và việc học bài của HS
- Phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho các em học tập, đôn đốc thực
hiện kế hoạch học tập ở trường và ở nhà.
- Việc kiểm tra sát sao của giáo viên là biện pháp giúp học sinh có động
cơ học tập, bị thơi thúc học tập. Qua đó buộc HS phải làm việc một cách tích
cực để có thể hồn thành nhiệm vụ mơn học. Tuy nhiên để biện pháp này thực
hiện có hiệu quả, yêu cầu GV phải kết hợp giữa kiểm tra với động viên khuyến
khích học sinh kịp thời, thậm chí là khen thưởng HS. Qua đó kích thích thái độ
học tập của HS.
e. Xây dựng môi trường học tập thân thiện
        - Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi,

cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập,
trong cuộc sống của bản thân mình.
       - Giáo viên ln tạo cho bầu khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không
mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy
sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tơn trọng mình.
      - Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi
tích cực. Ví dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm
những việc làm mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi, hoặc cho
điểm cao để khuyến khích các em.
2. Các giải pháp cụ thể
a. Xác định kiến thức cơ bản cho học sinh
Để có bài dạy đạt hiệu quả cao, học sinh yếu kém có thể tiếp thu bài tốt,
trước khi tiến hành dạy học, giáo viên cần nghiên cứu nội dung toàn bài trong
SGK, xác định kiến thức cơ bản của bài, hiểu rõ nội dung mà tác giả mong
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


9

muốn ở học sinh về từng mặt giáo dục, giáo dưỡng, phát triển. Sau đó đi sâu vào
từng mục, tìm ra kiến thức cơ bản của mục đó, sự liên quan của kiến thức đó với
kiến thức cơ bản của tồn bài. Mỗi bài có từ hai đến ba mục nhưng không dàn
đều về mặt thời gian cũng như khối lượng kiến thức của từng phần mà phải xác
định phần nào lướt qua, phần nào là trọng tâm thì dành nhiều thời gian hơn.
Việc xác định kiến thức cơ bản có ý nghĩa quan trọng. Nó giúp học sinh
biết cần phải học cái gì, phải nắm cái gì và hiểu cái gì. Trên nền tảng kiến thức
cơ bản GV xây dựng hệ thống bài tập thực hành cho học sinh yêu cầu học sinh
làm bài tập. Qua đó các em sẽ lĩnh hội được kiến thức cơ bản của bài học.
Trong bài dạy này thường có các tranh ảnh, số liệu thống kê, những mẩu

chuyện tư liệu để phục vụ bài dạy. Giáo viên dựa vào cuốn chuẩn kiến thức kĩ
năng để xác định kiến thức cơ bản, xác định các khái niệm cần hình thành cho
học sinh, ý để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng, vừa phát
huy tính tích cực hoạt động độc lập của học sinh.
Ví dụ: Bài 9. Nhật Bản, ở mục II. Nhật Bản khôi phục và phát triển kinh
tế sau chiến tranh. Học sinh cần nắm kiến thức cơ bản sau:
* Sự tăng trưởng kinh tế:
Từ đầu những năm 50 – đầu những năm 70 của thế kỉ XX, kinh tế Nhật
Bản tăng trưởng mạnh mẽ, được coi là “sự phát triển thần kì” với những thành
tựu chính là:
- Tốc độ tăng trưởng cơng nghiệp bình qn hàng năm trong những năm
50 của thế kỉ XX là 15%, những năm 60 của thế kỉ XX là 13,5%.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) năm 1950 là 20 tỉ USD, năm 1968 là
183 tỉ USD, đứng thứ hai thế giới sau Mĩ (830 tỉ USD)
- Nông nghiệp trong những năm 1967-1969 cung cấp hơn 80% nhu cầu
lương thực trong nước…
 Nhật trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính trên thế giới.
* Nguyên nhân:
- Truyền thống văn hoá, giáo dục lâu đời.
- Hệ thống tổ chức quản lí có hiệu quả của các xí nghiệp, cơng ty.
- Vai trò điều tiết và đề ra các chiến lược phát triển của chính phủ Nhật
Bản.
- Con người Nhật Bản được đào tạo chu đáo và có ý chí vươn lên đề cao
kỉ luật...
* Từ đầu những năm 90 của TK XX, kinh tế Nhật Bản bị suy thoái kéo dài, có
năm tăng trưởng âm địi hỏi Nhật Bản phải có những cải cách theo hướng áp
dụng những tiến bộ của khoa học - công nghệ.

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu



10

Trên cơ sở đó giáo viên xây dựng hệ thống một số bài tập trắc nghiệm, tự
luận tương ứng với những nội dung kiến thức trọng tâm đó và phải có mức độ
phù hợp với trình độ học sinh yếu kém, để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, tự
học và say mê với môn học.
b. Phương pháp sử dụng dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp, liên mơn xuất phát từ yêu cầu của mục tiêu dạy học
phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng
kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong
thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến
thức tổng hợp, liên quan đến nhiều mơn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng
cường theo hướng tích hợp liên mơn.
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan
vào q trình dạy học các mơn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống;
giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo
dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ mơi trường, an tồn giao
thơng...
Việc áp dụng dạy học theo phương pháp dạy học tích hợp có ưu điểm đó
là các chủ đề liên mơn, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với
học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.
Học các chủ đề tích hợp, liên mơn, học sinh được tăng cường vận dụng kiến
thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức
một cách máy móc.
Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên mơn giúp cho học sinh
khơng phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác
nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa khơng có được sự hiểu biết tổng qt
cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.

Ví dụ: Khi dạy về nước Mĩ, có thể dùng kiến thức địa lý để học sinh chỉ
ra vị trí địa lý của nước Mĩ trên lược đồ. Đó là: phía Bắc giáp Ca-na-đa, phía
Nam giáp Mê-hi-cơ, phía Đơng giáp Đại Tây Dương, phía Tây giáp Thái Bình
Dương. Nhờ có hai đại dương lớn bao bọc, che chở nên không bị chiến tranh tàn
phá, Mĩ được yên ổn sản xuất và bn bán vũ khí nên giàu lên nhanh chóng sau
chiến tranh thế giới thứ hai…
Qua việc áp dụng phương pháp dạy học này học sinh sẽ có hứng thú học
tập và các em có thể nắm được kiến thức nhanh chóng do đó chất lượng bộ mơn
cũng tăng lên.
c. Lựa chọn và sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong dạy học
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


11

Phải căn cứ vào mục tiêu của bài học để lựa chọn những câu chuyện lịch
sử tương ứng thích hợp. Nội dung những câu chuyện lịch sử phải phù hợp với
yêu cầu học tập. Chúng ta phải loại bỏ những loại truyện kiếm hiệp, tiểu thuyết
võ hiệp, những câu chuyện xuyên tạc lịch sử, có ảnh hưởng xấu đến việc hình
thành tri thức lịch sử, giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm cho học sinh. Do đó,
nội dung câu chuyện phải có chủ đề: một sự kiện, một nhân vật và dựa vào
nguồn tài liệu chính xác.
Một yêu cầu nữa khi lựa chọn các câu chuyện lịch sử là cần phải làm rõ
kiến thức cơ bản của bài học. Những câu chuyện giáo viên đưa ra phải là những
câu chuyện gắn liền với kiến thức cơ bản của bài, là cơ sở giúp học sinh hiểu rõ
lịch sử. Giúp các đối tượng học sinh nhất là học sinh yếu kém u thích, say mê,
hứng thú với mơn học.
Sử dụng những câu chuyện sử để gây hứng thú và phát triển tính tích cực
học tập của học sinh. Nếu như thông báo chỉ cung cấp cho người nghe một số tri

thức nhất định, ngắn gọn, khơ khan thì kể chuyện bao giờ cũng có chủ đề và tình
tiết. Hơn nữa nội dung mỗi câu chuyện khơng chỉ có khối lượng sự kiện tri thức
được cung cấp mà còn bao gồm cả việc phân tích, nêu lên bản chất của sự vật,
hiện tượng. Thông thường, nội dung một câu chuyện kể bao gồm những yếu tố
sau đây:
- Giới thiệu vấn đề
- Tình huống đặt ra
- Diễn biến sự kiện
- Sự phát triển của tình tiết đến cao độ
- Câu chuyện kết thúc.
Một câu chuyện được bố cục như vậy mang kịch tính cao, dẫn dắt học
sinh qua các sự kiện, làm cho các em cảm thấy ngày càng hứng thú, hấp dẫn.
Học sinh hứng thú lắng nghe khơng phải chỉ vì được cung cấp các sự kiện, chi
tiết hay hấp dẫn mà cịn vì nội dung của câu chuyện có sức giáo dục mạnh mẽ.
Khi sử dụng những câu chuyện lịch sử vào bài học, yêu cầu giáo viên phải
trình bày rõ ràng, đúng phương pháp bộ môn kết hợp với lời nói sinh động. Lời
nói rất quan trọng vì thơng qua cách diễn đạt của giáo viên không chỉ giúp học
sinh khơi phục hình ảnh q khứ mà cịn nhận thức sâu sắc sự kiện, trình bày
những suy nghĩ trong hiểu biết tìm tịi nghiên cứu. Ngồi ra, khi sử dụng câu
chuyện giáo viên phải biết chắt lọc, kể ngắn gọn và sau mỗi câu chuyện phải
biết đặt những câu hỏi hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ đó
giáo dục tư tưởng cho HS. Nhờ đó, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về nội dung bài học.
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


12

Ví dụ 1: Khi giảng về chính chính sách đối ngoại của Mĩ, thì một trong
những thất bại của Mĩ trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của Mĩ, đó là

thất bại ở chiến tranh Việt Nam. Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe về tác
phẩm “Why VietNam?” của ngoại trưởng Mĩ, Giôn-xơn-mac-na-ma-ra viết bằng
Tiếng Anh. Tác phẩm nói về việc ngoại trưởng Mĩ từng tham gia chiến tranh
Việt Nam, nhưng trở về với thất bại nặng nề. Ơng khơng hiểu vì lí do gì, một đất
nước lớn mạnh nhất thế giới về tiềm lực kinh tế, quân sự, với nhiều với nhiều vũ
khí hiện đại, trải qua 5 đời tổng thống, 4 chiến lược toàn cầu, với số tiền bỏ ra
khổng lồ 676 tỉ USD (Trong khi chiến tranh thế giới thứ 2, Mĩ chỉ bỏ ra 54 tỉ
USD) vậy mà vẫn thất bại. Ông đã đi tìm Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc hình
thành đến thời kì hiện đại. Ơng đặc biệt tìm hiểu về quá trình chống xâm lược
ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, và nhận thấy hiếm có một dân tộc nào trải
qua nhiều cuộc đấu tranh chống ngoại xâm như dân tộc Việt Nam, song nhân
dân Việt Nam vẫn anh dũng chống trả, giành độc lập và giữ độc lập thành công.
Nên việc nước Mĩ thất bại ở chiến tranh Việt Nam là điều tất yếu…
Sau đó, giáo viên hỏi học sinh những câu hỏi như: Sau khi thất bại ở
chiến tranh Việt Nam có tác động như thế nào với tình hình nước Mĩ và thế
giới? Học sinh có thể thấy được, sau khi thất bại ở chiến tranh Việt Nam khiến
kinh tế Mĩ chậm lại 10 năm, và thắng lợi của cách mạng Việt Nam có tác động
cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Điều này giúp học sinh hiểu
sâu sắc hơn bài học, u thích hơn với mơn học và thể hiện được niềm tự hào
dân tộc.
Ví dụ 2: Khi dạy Bài 9: “Nhật Bản”, giáo viên giảng về một trong những
nguyên nhân khiến kinh tế Nhật Bản phát triển thần kì đó là nguyên nhân: con
người Nhật Bản được đào tạo chu đáo và có ý chí vươn lên đề cao kỉ luật, coi
trọng tiết kiệm…
Giáo viên có thể đưa hình ảnh Nhật Bản sau trận động đất sóng thần kép
xảy ở Nhật Bản hồi tháng 3/2011, trận động đất và sóng thần kinh hoàng trong
lịch sử nước này khi đổ bộ vùng Đông Bắc Nhật Bản khiến hơn 18.000 người
chết và hang nghìn người mất tích, gây ra sự cố hạt nhân tồi tệ nhất thế giới kể
từ sau thảm họa hạt nhân 1986. Thảm họa kép đẩy hàng trăm nghìn người dân
vào cảnh tha phương cầu thực. Cuộc sống thiếu thốn, cùng quẫn và nỗi đau mất

người thân là gánh nặng thể xác và tinh thần khó có thể bù đắp nổi. Trong thảm
họa đó, cả thế giới được chứng kiến và khâm phục một đất nước Nhật kiên
cường, kỉ luật. Dù phải chịu cảnh đói, rét nhiều ngày ở khu tị nạn nhưng người
dân Nhật vẫn xếp hàng ngay ngắn, trật tự để nhận phần thức ăn, nước uống của
mình. Trong đó có câu chuyện về đứa trẻ 9 tuổi, gây xúc động mạnh cho dư luận
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


13

thế giới lúc bấy giờ. Khi đoàn cứu trợ đến phát lương thực tại một trường tiểu
học, có cậu bé 9 tuổi xếp ở cuối hàng, mọi người lo lắng khi đến lượt cậu lương
thực sẽ hết, một nhân viên cứu trợ đã đưa một phần lương thực cho cậu, nhưng
cậu không nhận mà muốn xếp hàng cho công bằng, đến lượt cậu bé được phát
thì cậu cầm khư khư phần lương thực đưa cho nhân viên cứu trợ, muốn họ tìm
và chuyển lại cho mẹ và em gái của cậu bé. Bởi, khi sóng thần ập vào trường
học, cậu đang trong giờ thể dục, cậu chạy lên ban công tầng 3, thấy xe hơi của
bố mình chạy đến cổng trường đón, nhưng bị nước cuốn trơi, em nói trong nước
mắt, chắc bố không sống được. Nhà em ở sát bờ biển, vẫn còn mẹ và em gái, em
hi vọng mẹ và em còn sống, nên nhường lại thức ăn cho mẹ và em của mình.
Một câu chuyện gây xúc động mạnh cho dư luận quốc tế lúc bấy giờ.

Hình ảnh : Hoang tàn đổ nát của Nhật sau Hình ảnh: người dân Nhật xếp hàng
trận động đất, sóng thần tháng 3/2011
tuần tự để nhận cứu trợ lương thực
Qua mẩu chuyện, giáo viên có thể đặt ra một số câu hỏi như: Em nhận xét như
thế nào về con người Nhật Bản trước thảm họa thiên tai? Em có suy nghĩ gì về
hành động của cậu bé 9 tuổi ở Nhật? Từ câu chuyện trên, em rút ra bài học gì
cho bản thân? Học sinh yếu kém có thể trả lời được, hoặc khơng. Nhưng qua

câu chuyện đó, giáo viên đã khắc họa cho học sinh thấy về một đất nước Nhật
Bản kiên cường, kỉ luật, giàu tình người trước thảm họa thiên tai, đó chính là
chìa khóa khiến nước Nhật phát triển một cách vượt bậc, khiến cả thế giới phải
khâm phục.
d. Sử dụng tranh ảnh lịch sử
Sử dụng những câu chuyện lịch sử để cụ thể hóa các hiện tượng, sự kiện
lịch sử đang học nhằm tạo cho học sinh có biểu tượng rõ ràng cụ thể, có hình
ảnh, tăng thêm tính chất sinh động gợi cảm của bài giảng và gây hứng thú cho
việc học tập của các em. Hình ảnh minh họa rất có giá trị trong học tập, nó giúp
HS có thể hình dung vấn đề rõ hơn, từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


14

học sinh, nhất là học sinh yếu kém. Giúp học sinh có thể nhớ được lâu hơn kiến
thức đã học.
Trong thời điểm bùng nổ của công nghệ thông tin, giáo viên ngồi việc
tận dụng kênh hình trong SGK thì có thể tham khảo các nguồn tư liệu khác, ví
dụ như khai thác có chọn lọc kênh hình qua mạng Internet để có được những
hình ảnh đẹp phục vụ cho việc dạy lịch sử. Trong lúc sử dụng tranh ảnh cần đặt
các câu hỏi để HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến hình ảnh chứ khơng
để cho HS nhìn hình chỉ vì nó lạ, đẹp.
Đối với các nhân vật lịch sử trước hết cho học sinh quan sát nhân vật về
gương mặt, vầng trán, đôi mắt… để học sinh khắc họa, nhớ được hình ảnh nhân
vật, qua đó thấy được tính cách, tầm ảnh hưởng của nhân vật trong lịch sử, có
thể đặt dạng câu hỏi như: Ông là ai? Sống ở thời kì lịch sử nào? Ơng có cơng
lao gì? Chúng ta có thể học được gì ở ơng?…
Đối với các hình ảnh là những sự kiện lịch sử.

Ví dụ như: Hình ảnh hoang tàn đổ nát của Nhật Bản khi Mỹ ném bom
xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki sau chiến tranh thế giới thứ hai.

Giáo viên có thể hỏi học sinh: Em nhìn thấy điều gì qua bức tranh trên?
Nó liên quan đến sự kiện nào? Qua hình đó em có thể nêu lên suy nghĩ gì của
mình về thảm họa chiến tranh...? Học sinh sẽ nhận thấy cảnh hoang tàn đổ nát
của đất nước Nhật Bản sau khi Mỹ ném bom nguyên tử, khơng chỉ cơ sở vật
chất bị phá hủy mà cịn khiến hàng trăm nghìn người chết, để lại nhiều di chứng
phóng xạ ngun tử về sau. Trong hình ảnh này giáo viên có thể bổ sung, góc
trái của hình ảnh ta nhìn thấy, chỉ cịn sót lại tịa nhà Gen-ba-ku. Tịa nhà này, đã
được chính phủ Nhật Bản giữ lại để trở thành khu tưởng niệm hịa bình để hàng
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


15

năm tưởng niệm những nạn nhân xấu số do Mĩ ném bom nguyên tử. Năm 1996,
Gen-ba-ku được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Và qua hình
ảnh hoang tàn đổ nát do bom nguyên tử gây ra, học sinh sẽ nhận thấy được cần
phải lên án chiến tranh, bảo vệ hịa bình.
e. Dạy học bằng sơ đồ tư duy
- Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map)
- Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tịi đào sâu, mở rộng một
ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…
bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết…Đặc
biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư duy của mỗi người.
- Việc ghi chép thông thường theo từng hàng chữ khiến chúng ta khó
hình dung tổng thể vấn đề, dẫn đến hiện tượng đọc sót ý, nhầm ý. Còn sơ đồ tư
duy tập trung rèn luyện cách xác định chủ đề rõ ràng, sau đó phát triển ý chính,

ý phụ một cách logic.
Sơ đồ tư duy có ưu điểm:
- Dễ nhìn, dễ viết.
- Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh
- Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
- Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách
logic. Sơ đồ tư duy sẽ giúp:
+ Sáng tạo hơn.
+ Tiết kiệm thời gian.
+ Ghi nhớ tốt hơn.
+ Nhìn thấy bức tranh tổng thể, khái quát kiến thức cơ bản của bài học.
+ Phát triển nhận thức, tư duy.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học như sau:
Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học
sinh một số “sơ đồ tư duy” cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em định hướng
nhanh hơn.
Hướng cho học sinh có thói quen khi tư duy lơgic theo hình thức sơ đồ
hố trên sơ đồ tư duy.
Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ
hai, thứ ba... mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có các ý
nhỏ hơn ... các nhánh này như “bố mẹ” rồi “con, cháu, chắt, chút, chít”... các
đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong.
Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy trên giấy: Chọn từ khóa (tên chủ
đề) hoặc hình vẽ của chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm.
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


16


Vẽ sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc từng cá nhân
Đối với giáo viên, để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học,
chúng ta có thể thiết kế bằng bảng vẽ trên giấy, hoặc hệ thống kiến thức bằng sơ
đồ trên bảng, hoặc có thể dùng phần mềm Mindmap. Đối với phần mềm này
giáo viên có thể thực hiện thành một giáo án hay một bài giảng điện tử với kiến
thức được xây dựng thành một sơ đồ, có thể kết hợp để trình chiếu những nội
dung cần lưu ý hay những đoạn phim có liên quan được liên kết với sơ đồ. Qua
đó có thể giúp học sinh hệ thống được kiến thức vừa học, khắc sâu được kiến
thức trọng tâm.
Đối với học sinh, trước hết giáo viên phải giới thiệu một số sơ đồ tư
duy cho các em làm quen, sau đó hướng các em từ từ xây dựng các sơ đồ riêng
cho mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học sinh xác định được vấn đề trọng tâm, sau
đó hệ thống các kiến thức liên quan thành sơ đồ phân nhánh, rồi từ đó học sinh
sẽ thiết kế thành nhưng sơ đồ theo tư duy của mỗi cá nhân. Có thể áp dụng dùng
sơ đồ trước hay sau khi học một bài học, với bài học mới, có thể cho học sinh
xây dựng theo một nhóm, rồi dựa vào sơ đồ học sinh sẽ thảo luận, sau đó nhóm
sẽ trình bày kiến thức theo hình thức thuyết trình dựa trên sơ đồ đã xây dựng,
sau bài học thì có thể u cầu học sinh tự hệ thống lại kiến thức bằng sơ đồ theo
cách riêng của mình. Việc phối hợp linh động nhiều phương pháp trong quá
trình giảng dạy, kết hợp với việc thiết lập sơ đồ tư duy để hệ thống kiến thức đã
giúp cho học sinh nắm được bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
Ví dụ 1: Sơ đồ tư duy “Bài 8: Nước Mĩ”

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


17

Ví dụ 2: Sơ đồ tư duy “Bài 9: Nhật Bản


g. Dạy học bằng cách sử dụng các trò chơi trí tuệ
Việc tở chức trò chơi trong các giờ dạy Lịch sử không chỉ nhằm mục đích
giải trí cho học sinh mà điều quan trọng là thông qua các trò chơi sẽ tạo nên một
không khí hăng say học tập, một không khí làm việc nghiêm túc để đi tìm cái
phải hướng đến, đó là những kiến thức lịch sử. Qua các trò chơi các em vừa có
thể độc lập suy nghĩ, tìm tòi đồng thời vừa rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm
cho các em để có đáp án vừa nhanh vừa chính xác. Vì vậy, khi các em học Lịch
sử thông qua các trò chơi sẽ tạo sự thoải mái hơn, hứng thú hơn. Từ đó mà các
em ghi nhớ tốt hơn những kiến thức cơ bản cần đạt. Với đối tượng là học sinh
yếu kém thì nội dung kiến thức của mỗi trị chơi cũng cần có mức độ vừa sức
như nhận biết, thông hiểu, hoặc một số câu nâng lên cấp độ vận dụng thấp có tác
dụng kích thích tư duy sáng tạo của học sinh, nếu địi hỏi q cao về kiến thức,
học sinh khơng trả lời được nhiều câu hỏi, sẽ cảm thấy chán nản, khơng hào
hứng tham gia trị chơi và học tập Lịch sử.
Chẳng hạn, khi dạy bài: “Nước Mĩ – Bài 8” (SGK Lịch sử 9). Để học
sinh tìm hiểu nội dung kiến thức ở mục II: Sự phát triển về KHKT của Mĩ sau
chiến tranh thế giới thứ hai (SGK), giáo viên có thể tổ chức trị chơi này như
sau:
Thứ nhất, giáo viên chia học sinh làm 2 đội hoặc 4 đội chơi (tùy thuộc
số lượng học sinh ít hay nhiều).
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


18

Thứ hai, giáo viên hướng dẫn học sinh về luật chơi (chú ý định lượng
thời gian hợp lí)
Thứ ba, giáo viên nêu câu hỏi của trò chơi: Em hãy nêu những nguyên

nhân chủ yếu dẫn đến sự phát triển “thần kì” của Nhật Bản sau chiến tranh thế
giới thứ hai ?
Thứ tư, các đội chơi tiến hành thảo luận nhanh trong vòng 1 phút và lần
lượt từng thành viên trong đội chơi chạy nhanh đến khu vực bảng nhóm giành
cho đội của mình ghi một đáp án vào bảng rồi nhanh chóng chạy về chỗ để
thành viên khác tiếp tục thực hiện cho đến hết.
Thứ năm, giáo viên cùng các đội chơi lần lượt nhận xét về kết quả của
từng đội, sau đó thống nhất chọn đội chơi nào hồn thành trong thời gian sớm
nhất và chính xác nhất. Đội chơi xuất sắc nhất sẽ là đội thắng cuộc và giáo viên
khuyến khích bằng điểm số cho các thành viên trong đội. Những đội có kết quả
như đội thắng cuộc nhưng hoàn thành muộn hơn hoặc đội chưa hoàn thành sẽ
được tuyên dương bằng những tràng pháo tay của cả lớp, để động viên tinh thần
của các em đã hăng hái tích cực tham gia trị chơi.
Khi áp dụng các trò chơi vào thực tế giảng dạy đã tạo nên sự thoải mái,
mơi trường thân thiện giữa thầy và trị. Từ đó gây được hứng thú học cho các
em, chính vì vậy mà khơng khí học tập cũng sơi nổi hơn, hiệu quả hơn. Đó thực
sự là kết quả bất ngờ. Bởi lẽ, ngoài việc chơi hơn hết các em được ghi nhớ các
đơn vị kiến thức một cách nhẹ nhàng, khơng nặng nề, khơng gượng ép; tạo được
khơng khí “Học mà chơi - chơi mà học”.
Tuy nhiên, các trò chơi phải đảm bảo mục tiêu của bài học, các câu hỏi
trong mỗi trò chơi đều phải tập trung vào các đơn vị kiến thức lịch sử cần ghi
nhớ. Tùy vào từng bài cụ thể mà giáo viên bám sát vào mục tiêu bài học để sáng
tạo các trò chơi thích hợp như: trị chơi Ai nhanh tay hơn, giải ô chữ hay giải
mật mã… Các trò chơi này, giáo viên có thể lựa chọn hình thức chơi cá nhân
hay tập thể một các linh hoạt, phù hợp vừa để khắc sâu hơn kiến thức lịch sử cho
học sinh, vừa tạo được khơng khí vui vẻ khi học tập Lịch sử, khiến học sinh nhất
là học sinh yếu kém sẽ hứng thú, u thích hơn với mơn học.
Khi sử dụng các trị chơi tránh tình trạng lạm dụng q mức cho phép sẽ
biến giờ học trở thành “ trò chơi giải trí đơn thuần” sẽ làm mất thời gian và phản
tác dụng.

Trong q trình dạy học khơng phải bài nào, mục nào cũng có thể tổ
chức được trị chơi, mà có những bài, mục bài khơng thể tổ chức được. Vì vậy,
giáo viên phải nghiên cứu thật kĩ càng ở bài này, mục này có tổ chức được trị
chơi hay khơng. Để tổ chức trị chơi thành cơng, địi hỏi giáo viên phải ln ln
tìm tịi, sáng tạo, chuẩn bị công phu đồng thời phải phổ bến luật chơi, hướng dẫn
học sinh cách chơi.
Một điều không thể thiếu trong các trị chơi, đó chính là giáo viên phải
ln động viên, khuyến khích học sinh kịp thời để tạo sự hứng thú, sự tương tác
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


19

giữa thầy và trò. Giúp học sinh nhất là học sinh yếu kém ghi nhớ và nhớ lâu kiến
thức đã học.
3. Hệ thống các dạng bài tập đặc trưng của chuyên đề
3.1. Các dạng câu hỏi trắc nghiệm
- Dạng câu hỏi đúng/sai
Ví dụ 1: Hãy ghi chữ Đ (đúng) hoặc chữ S (sai) vào trước phương án mà em lựa
chọn là đúng hoặc sai cho các câu dưới đây.
1.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến Mĩ phát triển giàu mạnh là
nhờ có tài nguyên thiên nhiên phong phú.
2.
Từ năm 1945 – 1950 Mĩ chiếm ưu thế tuyệt về mọi mặt.
3.
Nhật Bản phát triển thần kì ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai.
4.
Các nước Tây Âu có thuận lợi khi liên kết bởi họ có chung một nền

văn minh và có trình độ phát triển khơng cách biệt.
Ví dụ 2: Hãy đánh dấu X vào cột dọc sao cho phù hợp với chính sách đối nội và
đối ngoại của Nhật Bản:
Chính sách
Đối nội Đối ngoại
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản hồn tồn lệ
thuộc vào Mĩ về chính trị và an ninh.
- Cho phép Đảng cộng sản và nhiều chính đảng khác hoạt
động cơng khai
- Chấp nhận đặt dưới “ Ô hạt nhân của Mĩ”
- Ban bố nhiều cải cách dân chủ
- Phát triển quan hệ với các nước trên thế giới đặc biệt là
các nước Đông Nam Á
- Câu hỏi điền khuyết/điền thế thơng tin
Ví dụ 1: Hãy viết tiếp vào chỗ trống để hoàn thành các câu sau
1. Tại Mĩ có hai đảng .......................và.......................thay nhau lên cầm quyền.
2. Hiện nay, Mỹ đang ráo riết tiến hành nhiều chính sách, biện pháp để xác lập trật
tự thế giới...................... do Mĩ hồn tồn chi phối, khống chế.
Ví dụ 2: Hồn thành bảng thống kê về q trình hình thành liên minh châu Âu.
Năm
Quá trình hình thành liên minh châu Âu
Năm 1951
6 nước Pháp, Đức, I-ta-li-a, Hà Lan, Bỉ, Lúc-xam-bua thành
lập cộng đồng than thép châu Âu.
Tháng 3 – 1957
Cộng đồng châu Âu (EC) ra đời.
Năm 1993
- Câu hỏi ghép đơi
Ví dụ: Hãy nối các ý ở cột A với các ý ở cột B sao cho đúng.
Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9

thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu


20

Cột A
Cột nối
1.“Trong chiến lược toàn cầu”
2. Trong thập niên đầu sau
chiến tranh thế giới thứ hai.

Cột B
a. Mĩ là trung tâm kinh tế, tài
chính duy nhất trên thế giới
b. Mĩ, Nhật Bản, Tây Âu là ba
trung tâm kinh tế, tài chính trên
thế giới
c. Mĩ vấp phải những thất bại nặng
nề.
d. Mĩ đạt được những thành tựu kì
diệu.

3. Trong cách mạng khoa học
kĩ thuật
4. Từ những năm 70 của thế kỉ
XX
- Câu hỏi nhiều lựa chọn.
Ví dụ: Lựa chọn câu trả lời đúng nhất. “Đến năm 1968, Nhật Bản đã vươn lên
trở thành:...”
A. Trung tâm kinh tế - tài chính lớn nhất thế giới.

B. Cường quốc kinh tế tư bản, đứng thứ hai thế giới (sau Mĩ).
C. Nước đế quốc quân phiệt với hệ thống thuộc địa rộng lớn.
D. Trung tâm cơng nghiệp – quốc phịng duy nhất của thế giới.
Hiện nay xu thế chủ yếu trong dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh ở
dạng đề trắc nghiệm là dùng câu hỏi nhiều lựa chọn với đầy đủ các mức độ khác
nhau. Đối với công tác phụ đạo HS yếu, kém thì việc dùng câu hỏi đa lựa chọn
là phù hợp hơn cả. Tuy nhiên, với mức độ nhận thức của các em thì các dạng đề
đưa ra cũng cần có sự phù hợp, chỉ nên dừng lại ở mức nhận biết, thông hiểu,
khi các em đã yêu thích và học tập tốt thì nâng các dạng bài tập lên mức vận
dụng thấp. Đây là cách thức vừa để học sinh tự ôn luyện, vừa là phương thức
chiếm lĩnh kiến thức cho học sinh thông qua việc làm bài tập lịch sử.
3.2. Các dạng câu hỏi tự luận
Với mức độ giảng dạy học sinh yếu kém, chuyên đề chỉ tập trung vào các
dạng đề tự luận ở mức độ nhận biết và thông hiểu như:
Cấp độ tư duy
Mô tả
- Học sinh nhớ được (bản chất) những khái niệm cơ bản
của chủ đề và có thể nêu hoặc nhận ra các khái niệm khi
được yêu cầu.
- Đây là bậc thấp nhất của nhận thức, khi học sinh kể
Nhận biết
tên, nêu lại, trình bày lại, nhớ lại một sự kiện, hiện
tượng.
Ví dụ: Trình bày những nét chung về tình hình các nước
Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay?

Một số biện pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu kém môn Lịch sử 9
thông qua chuyên đề Mĩ - Nhật Bản - Tây Âu




×