Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Báo cáo chuyên đề: CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 – 2020 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.64 KB, 33 trang )


BỘ CÔNG THƯƠNG
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên EU – Việt Nam
Hoạt động CB - 2A “Hỗ trợ Bộ Công Thương xây dựng
chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 - 2020


Báo cáo chuyên đề


CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN
XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 – 2020





Thực hiện chuyên đề: PGS.TS Trần Công Sách
Viện Nghiên cứu thương mại – Bộ Công Thương













Hà Nội, 11 - 2010

1
Lời mở đầu
Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đang vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu để bước vào
thời kỳ phát triển mới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và phát triển nhanh, bền vững. Trong quá trình đó, xuất nhập
khẩu tiếp tục là một động lực quan trọng đối với tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy hội nhập và tăng cường vị thế
của nền kinh tế nước ta trong kinh tế toàn cầu.
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất nhập khẩu đã đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, nhưng sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu đã tăng chậm lại, nhập siêu tăng cao, một số chỉ tiêu phát
triển vẫn chưa đạt được mục tiêu đã xác định trong Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, trong Đề án phát triển
xuất khẩu 2006 – 2010. Trong 10 năm tới, nền kinh tế nước ta tiếp
tục hội nhập quốc tế sâu hơn và nằm trong khu vực phát triển năng
động nhất thế giới, khu vực cạnh tranh của nhiều nền kinh tế đang đi
lên mà phần lớn có năng lực cạnh tranh cao hơn, đặc biệt là sự trỗi
dậy của Trung Quốc. Vì thế, để đón bắt được những cơ hội phát
triển mới và vượt qua những thách thức, Việt Nam cần có quan điểm
và định hướng Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu phù hợp, nhanh
chóng phục hồi nhịp độ phát triển và nâng cao chất lượng tăng
trưởng xuất khẩu, nhằm tạo ra sự bứt phá cho phát triển nhanh, bền
vững.
Từ yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế của
Đảng, cụ thể hóa các quan điểm và định hướng Chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội 2011 – 2020, chuyên đề nghiên cứu: “Quan điểm
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 – 2020” được
xây dựng để cung cấp luận cứ khoa học cho việc xác định các quan
điểm chỉ đạo Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011 –
2020.
Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần:


2
I. Một số hạn chế, thách thức đối với phát triển kinh tế và phát
triển xuất nhập khẩu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
II. Dự báo bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ tới
III. Các quan điểm phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2011-2020
Dưới đây là nội dung chuyên đề:

























3
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ

I. MỘT SỐ HẠN CHẾ, THÁCH THỨC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT
NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1. Một số hạn chế thách thức đối với phát triển nền kinh tế nước ta
trong hội nhập quốc tế
- Trong xã hội còn tồn tại tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn tăng trưởng
nhanh và chưa nhận thức đúng về hội nhập quốc tế (HNQT), Hạn chế này về
nhận thức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân thường biểu hiện
ở những dạng thức khác nhau, như:
+ Mong muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao nên tập trung cao độ cho
tăng trưởng mà xem nhẹ vấn đề phát triển bền vững. Trong điều kiện mô hình
tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư và xuất khẩu, muốn tăng trưởng nhanh thì
phải duy trì tỉ lệ đầu tư cao trong GDP, nhưng hiệu quả đầu tư thấp nên lãng
phí nguồn lực cho tăng trưởng. Đầu tư càng tăng cao thì chất lượng và hiệu
quả tăng trưởng càng thấp. Năm 2008, hệ số nguồn lực/GDP đầu người của
Việt Nam là 0,126, cao gấp 8,4 lần của Trung Quốc (0,015) và cao gấp 5,47
lần của Ấn Độ (0,023). Muốn tăng trưởng nhanh, phải đẩy mạnh xuất khẩu,
nhưng mô hình tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài

nguyên và dựa vào nhập khẩu nên xuất khẩu tăng nhanh dẫn đến thâm dụng tài
nguyên, cạn kiệt tài nguyên và nhập siêu tăng cao, ảnh hưởng tới các cân đối
vĩ mô. Điều đó cũng đồng nghĩa với phát triển không bền vững.
+ Tư tưởng thụ động, thiếu tính chủ động, tích cực trong HNQT nên
không nâng cao được năng lực độc lập tự chủ trong hoạt động HNQT; khi thời
cơ đến không kịp thời đón bắt để vượt lên phát triển nhanh, hoặc gặp khó khăn
thì chán nản để mất tự chủ. Điều đó dẫn đến tư tưởng muốn duy trì bảo hộ cao

4
cho các ngành thay thế nhập khẩu, cản trở tự do hóa và không chú trọng nâng
cao sức cạnh tranh để vươn ra thị trường nước ngoài, hướng về xuất khẩu.
+ Tư tưởng mơ hồ hoặc nhận thức chưa đúng về HNQT, gia nhập
WTO của Việt Nam; coi đó là mục tiêu chứ không phải là cách thức phát triển;
hoặc đó là cơ hội nhiều, thách thức ít… nên thiếu quyết tâm, nỗ lực sáng tạo
để tăng cường năng lực độc lập tự chủ để vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội
nhằm phát triển nhanh hơn.
- Nền kinh tế phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng dựa vào khai thác tài
nguyên là chủ yếu, mới khai thác lợi thế so sánh mà ít dựa vào lợi thế cạnh
tranh, chưa chuyển mạnh lên khai thác kỹ thuật để phát triển theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Tỉ lệ khai thác
năng lượng trong tổng thu nhập quốc gia
1
(GNP) của thời kỳ 1990 – 2008 có
xu hướng tăng nhanh từ 4% - 7,5% trong giai đoạn 1990 – 2000 lên 10 – 13%
trong giai đoạn 2001 – 2004, và vọt lên 16 – 19% những năm 2005 – 2010
(chỉ số này của Ấn Độ trong cả thời kỳ 1990 – 2008 chỉ dao động ở mức 3-
4%). Trong các động năng tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 1990 – 2010,
yếu tố năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30%, còn yếu tố vốn đóng góp
50% và yếu tố lao động đóng góp 20% (các chỉ số tương ứng của Ấn Độ trong
thời kỳ1990 - 2005 là 36%, 40% và 24%). Chỉ số năng suất Tổng hợp (TFP)

2

có xu hướng giảm từ 4,31%/năm trong giai đoạn 1991 – 1995 xuống 2,56%
trong giai đoạn 1996 – 2000 và 1,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2007 (riêng
năm 2000 là 0,28% và năm 2006 là 2,7%). Vì thế, nội năng tự chủ phát triển
của nền kinh tế chậm được nâng lên và nguồn tài nguyên nhanh bị cạn kiệt,
ảnh hưởng dài hạn cho đất nước.
- Đầu tư tăng cao nhưng còn dàn trải, nhiều mũi nhọn, nhiều trọng điểm ưu
tiên hiệu quả thấp, cơ cấu đầu tư mất cân đối. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ

1
Khai thác năng lượng = khai thác thực tế (gồm dầu thô, khí đốt và than) x đơn giá khai thác – Nguồn WDI
(2009)
2
Năng suất lao động xã hội được tính bằng cách chia GDP theo giá thực tế cho tổng số lao động đang làm
việc.

5
từng ngành chậm chuyển dịch vào những ngành sản phẩm có lợi thế phát triển
nên hạn chế quá trình chuyên môn hóa để phát triển theo chiều sâu, khai thức
lợi thế so sánh quốc gia để tham gia sâu vào phân công lao động quốc tế. Công
nghiệp chưa xây dựng được ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm thị
phần lớn trên toàn cầu (chặng hạn, trường hợp Đài Loan đến năm 1985 đã có
sản phẩm máy tính tổng thành thế hệ II đạt sản lượng trên 40 triệu sản phẩm,
chiếm 34% thị trường toàn cầu), nên vị thế của công nghiệp Việt Nam trong
khu vực chậm được cải thiện. Đầu tư tăng cao, từ chiếm tỉ trọng 14,4% GDP
năm 1990 lên 29,6% vào năm 2000 và trên 40% từ năm 2006 đến nay, nhưng
hiệu quả đầu tư rất thấp và chậm được cải thiện (Đài Loan đạt tốc độ tăng
trưởng GDP ở mức 10%/năm trong 18 năm liên tục nhưng tỉ lệ đầu tư so với
GDP chỉ ở mức 25%). Hệ số ICOR ngày càng tăng thể hiện nền kinh tế ngày

càng cần nhiều vốn hơn để có tăng trưởng. Trong giai đoạn 2001 – 2006, hệ
số ICOR của Việt Nam bình quân đã là 4,4; sau khi gia nhập WTO, hệ số này
tăng vọt lên 5,3 trong năm 2007 và 6,55 trong năm 2008, ước năm 2009 và
2010 là 7,0. Đây là mức rất cao so với các nước khác trong khu vực ở những
giai đoạn phát triển tương đương như Việt Nam
3
. Mặt khác, cơ cấu đầu tư mất
cân đối, thiên về đầu tư vật chất kỹ thuật, đầu tư hình thành tài sản vốn con
người và khoa học công nghệ còn rất thấp.
- Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Sau 20 năm thực hiện hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (1990 – 2009), tuy tỉ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng trong
GDP đã tăng gấp 2 lần (từ 22,7% năm 1990 lên 42% năm 2008), nhưng tỉ
trọng của khu vực dịch vụ lại không tăng ,mà lại có xu hướng giảm nhẹ từ
44,1% năm 1995 xuống 38,1% năm 2000 và 38,2% năm 2007. Điểm đáng chú
ý là tỉ trọng đóng góp của các tổ chức tài chính vào GDP chỉ dao động ở mức

3
Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1961 – 1980 là 3,0 và của Đài Loan trong thời kỳ này là 2,7; của
Indonexia giai đoạn 1981 – 1985 là 3,7 của Malayxia là 4,4 và của Thái Lan trong cùng giai đoạn là 4,1; của
Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006 là 4,0.

6
1,8 – 2,0% trong suốt thời kỳ 1995 – 2008. Như thế, cơ cấu kinh tế chậm
chuyển dịch theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Chưa chú trọng đúng mức vào phần cốt cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Ở giai đoạn bản lề của sự phát triển, trước và sau ngưỡng cửa của gia
nhập WTO, chúng ta đã có bước thụt lùi về kỹ thuật công nghệ. Trình độ công
nghệ thấp, chậm được cải thiện, lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài , mất cân
đối cung – cầu công nghệ ngày càng tăng.

Công nghệ trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu phát triển, còn 90%
công nghệ sản xuất phải được nhập khẩu. Thế nhưng, trong giai đoạn 2001 –
2008, tỉ trọng nhập khẩu nhóm máy móc thiết bị và công nghệ (yếu tố chính
tạo ra năng suất lao động và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm) trong
tổng kim ngạch nhập khẩu đã có xu hướng giảm mạnh từ 30,5% năm 2001
xuống 14,7% năm 2006 và 16,9% năm 2008. Trong cấu trúc nhập khẩu năm
2005, công nghệ Cao chỉ chiếm 15%, Trung – Cao chiếm 21,8%, trung – thấp
chiếm 36,2%, và công nghệ thấp chiếm 27%. Trong cấu trúc xuất khẩu năm
2005 (hàm lượng công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu), công nghệ cao chỉ
chiếm 7,6% , trung – cao chiếm 3,7%, trung - thấp chiếm 31,2% và công nghệ
thấp chiếm 57,5%. Đồng thời, trong giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có
bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ trung – cao (-6,5%) để
nhập khẩu công nghệ trung – thấp (+7,4%). Từ năm 1997 đến năm 2003, tỉ lệ
XK hàng công nghệ cao của Việt Nam chỉ nâng được từ 3% lên 6%, thấp hơn
rất nhiều so với các nước trong khu vực
4
. Tốc độ đổi mới máy móc, thiết bị và
công nghệ toàn nền kinh tế chỉ đạt 6 -7%/năm; tỉ lệ đầu tư cho R&D trong
doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 0,2%.
- Hướng tới và chuyển nhanh sang phát triển kinh tế tri thức nhưng chất
lượng giáo dục đào tạo thấp, chậm được cải thiện; mất cân đối cung – cầu lao

4
Các chỉ số tương ứng của Indonexia là 10,5% và 14%, của Trung Quốc là 12,8% và 27,6%; của Thái Lan là
31% và 30%, của Hà Quốc là 27% và 32%, của Singapore là 58% và 57%, của Malayxia là 49% và 59%.

7
động, cơ cấu lao động theo trình độ kỹ thuật và theo vùng; đặc biệt là thiếu
lao động có tay nghề, có tính chuyên nghiệp cao:
Mặc dù tỉ lệ đi học ở các bậc phổ thông khá cao, nhưng chất lượng giáo

dục còn rất thấp (kết quả trượt tốt nghiệp PTTH năm 2007 là một minh
chứng). Số lượng sinh viên được vào Đại học cũng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ
trong những người ở độ tuổi học Đại học. Trong năm 2000, tỉ lệ lao động tốt
nghiệp đại học chỉ chiếm 2% tổng dân số (so với 5% ở Trung Quốc và 8% ở
Ấn Độ); đến năm 2005, tỉ lệ sinh viên đỗ đại học ở Việt Nam chỉ là 16% (tỉ lệ
này của Trung Quốc và Indonexia là 17% - 19%, Thái Lan là 43%). Chất
lượng đào tạo ở các trường Đại học chưa đạt chuẩn quốc tế, giảng viên các
trường đaị học của Việt Nam còn rất ít bài đăng trên các tạp chí khoa học quốc
tế
5
. Gần 50% sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào
tạo. Trong khi đó, trên thực tế, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP
của Việt Nam liên tục tăng và cao hơn hầu hết các nước trong khu vực, chưa
kể mỗi năm cả nước (Chính phủ, tổ chức và cá nhân) chi khoảng 1 tỉ USD cho
việc du học (chủ yếu là từ nguồn gia đình có người đi du học).
Đến năm 2009, cả nước có 2,6 triệu người có trình độ đại học (chiếm 4,5%
lao động cả nước); trong đó, có 18 nghìn thạc sĩ, 16 nghìn tiến sĩ, hơn 6 nghìn
phó giáo sư và giáo sư. Thế nhưng năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký được 2
bản quyền với tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).
- Xu hướng đô thị hóa diến ra rất chậm, cơ sở hạ tầng chậm được cải
thiện, ô nhiễm môi trường gia tăng nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ
Sau 20 năm (1990 – 2009), tỉ lệ dân số sống ở khu vực thành thị của Việt
Nam chỉ tăng từ 20,3% lên 28,6% (chí số tương ứng của Trung Quốc là 27,4%
và 44,5%, của Indonexia là 30,6% và 53%, của Philipin là 48,8% và 66,4%,

5
Trong năm 2006, với 2.830 giảng viên của trường Đại học Chulalongkom của Thái Lan đăng được 744 công
trình nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế. Trong khi đó, 3.360 giảng viên ở hai trường Đaị học quốc
gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chỉ đăng được tổng cộng 36 công trình – Nguồn: Chỉ số trích dẫn khoa
học mở rộng – Web of Scienoe, Thompson Corp.


8
của Thái Lan là 29,4% và 33%, ASEAN là 31,6% và 47,5%). Đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng tăng nhanh nhưng lãng phí lớn, hiệu quả thấp, hạ tầng ở các
đô thị đang quá tải, ách tắc và ô nhiễm nặng. Những chương trình như: “một
triệu tấn đương”, hay “đánh bắt cá xa bờ” và phong trào xây dựng các khu
công nghiệp, khu kinh tế đã không đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho người dân
ở khu vực nông thôn, vốn là mục tiêu ban đầu, của những dự án này; gây ra
những bức xúc và bất ổn về mặt tâm lý xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường
tràn lan tới mức khó kiểm soát ở các khu công nghiệp hiện nay đang ảnh
hưởng trực tiếp tới sản xuất và đời sống mưu sinh của người dân. Chưa kể tính
trạng khai thác tài nguyên khoáng sản và tính trạng tàn phá rừng đầu nguồn
chưa được quản lý, kiểm soát chặt chẽ cũng đang làm gia tăng ô nhiễm môi
trường, gây bức xúc trong xã hội.
- Hệ thống logistics chậm được xây dựng kết nối với mạng lưới logistics
khu vực và toàn cầu, nên chưa tận dụng được lợi thế địa – kinh tế để phát
triển nhanh. Việt Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế địa – kinh tế để phát triển
dịch vụ logistics, đặc biệt là hệ thống cảng biển. Phát triển cảng biển mới, đặc
biệt là cảng biển nước sâu đã được coi là một ưu tiên quốc gia, nhưng chậm
được triển khai thực tế. Do dịch vụ logistics chưa được chú trọng phát triển
nên hàng XK của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường
Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng ở Hồng Kông và Singapore, chi phí
XK cao hơn mức trung bình của khu vực. Năm 2007, chi phí XK của Việt
Nam là 701 USD
6
trong khi mức trung bình của khu vực là khoảng 500 USD
(Trung Quốc là 335 USD, malayxia là 481 USD, Hồng Kông là 425 USD,
Thái Lan là 848 USD). Do dịch vụ vận tải biển chưa phát triển nên các doanh
nghiệp vận tải biển của Việt Nam mới chiếm khoảng 22 – 24% thị phận vận
tải hàng hóa XK và khoảng 18 – 20% thị phần hàng hóa nhập khẩu của Việt

Nam. Trong 3 năm 2005 – 2007 Việt Nam phải trả 6 tỉ USD cho nước ngoài

6
Chi phí XK bao gồm chi phí giấy tờ, hành chính, bốc dỡ, lưu kho, vận chuyển đường bộ cho 1 container 20
ft – Nguồn: Doiry Business 2007, WB.

9
về chi phí bảo hiểm và vận tải hàng hóa XNK, chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ
cùng giai đoạn và là yếu tố chính làm thâm hụt cán cân dịch vụ, cán cân vãng
lai của Việt Nam.
- Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh nhưng rất thiếu những doanh nghiệp
trong nước có thương hiệu mạnh,có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế
giới. Năng lực tham gia các mạng sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu của sản
phẩm và doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, chỉ mới ở các khâu mang lại
giá trị gia tăng thấp của chuỗi giá trị.
Đến nay, cả nước có khoảng 500 nghìn doanh nghiệp, trong đó mới có trên
44 nghìn doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại quốc tế. Tuyệt đại đa
số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, khả năng cạnh tranh quốc tế còn rất
yếu. Doanh nghiệp là lực lượng chính yếu trong hoạt động kinh tế và trong
hoạt động HNQT, nhưng đến nay chúng ta có rất ít doanh nghiệp có thương
hiệu Việt mạnh, có khả năng hoạt động xuyên quốc gia và giành thắng lợi
trong cạnh tranh toàn cầu.
Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào
phân khúc sản xuất, gia công lắp ráp – tức là các khâu mang lại giá trị gia tăng
thấp nhất trong chuối giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được và khâu
thiết kế, nghiên cứu và phát triển, tiêu thụ… là những khâu mang lại giá trị gia
tăng cao. Đối với các sản phẩm nông thủy sản có khối lượng lớn XK cũng
tương tự, các doanh nghiệp Việt Nam mới chủ yếu tham gia ở khâu sản xuất
và chế biến nông, chưa tham gia nhiều vào khâu chế biến sâu ra sản phẩm tiêu
dùng cuối cùng và các khâu maketing, tiêu thụ, qui trình canh tác và tạo ra các

giống mới năng suất cao. Tham gia vào các mạng sản xuất, các chuối giá trị
toàn cầu chưa trở thành phương thức chủ yếu để tìm kiếm giá trị gia tăng cao
của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh ngoài biên giới quốc gia
mới ở giai đoạn khởi đầu (vốn thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới
10
chiếm 0,19% GDP), khả năng tận dụng những cơ hội phát triển mới do HNQT
và toàn cầu hóa mở ra của Việt Nam còn rất hạn chế.
- Khu vực dịch vụ chưa trở thành đầu tầu tăng trưởng để kéo nền kinh tế
phát triển theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. Đầu tầu tăng trưởng vẫn
đang là công nghiệp (thời kỳ 1996 – 2008, chỉ số giá trị gia tăng công nghiệp
tăng bình quân 11,5/năm, trong khi chỉ số này của khu vực dịch vụ chỉ đạt
7,5%/năm.
- Động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế là ngành công thương, nhưng
giá trị gia tăng của ngành công thương thấp. Trong thời kỳ 2000 – 2008, chỉ
số MVA/GO có xu hướng giảm từ 38,4% năm 2000 xuống 26,4%, năm 2007,
24,8%, năm 2008 và năm 2009 còn 21%. Chỉ số VA/GO của thương mại trong
nước trong cùng thời kỳ không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24%
- 29%. Nhóm ngành công nghiệp chế biến có lợi thế cạnh tranh về giá nhân
công rẻ phát triển theo định hướng XK, tuy chiếm 43% GTSLCN nhưng chỉ
chiếm 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp năm 2000, giảm xuống 23%
năm 2007, và 20% trong năm 2009, hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, còn
phụ thuộc nặng nề vào nguồn lực bên ngoài và chậm thích ứng với những biến
động của tình hình thế giới.
XK đang là động lực tăng trưởng, nhưng tăng trưởng XK phụ thuộc chủ
yếu vào các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập
khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ ô nhiễm môi trường và tiêu tốn ngoại tệ. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu hàng XK theo hướng hiện đại còn rất chậm. Từ năm 2001
đến năm 2009, tỉ trọng nhóm sản phẩm thô và sơ chế trong tổng KNNK chỉ
giảm từ 53% xuống 46,6% năm 2009. Đến năm 2009, nhóm sản phẩm chế

biến mới chiếm 53,4% (Hàn Quốc năm 1986 đã đạt trên 96,4% và Trung Quốc
năm 2000 đã đạt đến 92%). Do hàng thô và sơ chế còn chiếm tỉ trọng lớn nên
độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm
thích ứng với những biến động của thị trường thế giới .
11
- “Đầu tầu” của tăng trưởng là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng
một số ngành công nghiệp quan trọng như khai thác tài nguyên, công nghiệp
chế biến và các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao đang có nguy cơ bị khu vực
này nắm giữ, chi phối. Khu vực FDI có tốc độ tăng trưởng cao nhất và đóng
góp ngày càng nhiều vào tăng trưởng GDP, tăng trưởng XK (năm 2008 khu
vực FDI chiếm 20% GDP, 41% vốn đầu tư xã hội, 45% GTSLCN, 57%
KNXK, 31,5% KNNK). Tuy nhiên, đầu tư vào công nghiệp khai thác tài
nguyên đạt hiệu quả cao nhất trong các ngành công nghiệp (hệ số ICOR thời
kỳ 2000 – 2008 là 0,51) và các lĩnh vực kinh doanh có giá trị gia tăng cao, tỉ
suất lợi nhuận cao (kinh doanh tài sản, nhà ở, nhà hàng, khách sạn, siêu thị,
trung tâm thương mại lại đang hút mạnh nguồn vốn FDI, và các lĩnh vực này
đang có nguy cơ bị khu vực FDI chi phối. Ngay sau khi Việt Nam gia nhập
WTO, tỉ trọng vốn FDI đăng ký vào công nghiệp khai thác tài nguyên đã tăng
vọt từ 1,2% năm 2007 lên 17,5% năm 2008 và trên 20% năm 2010 vào hoạt
động liên quan đến kinh doanh tài sản cũng tăng mạnh từ 15,2% năm 2006 lên
28,6% năm 2007, và khoảng 30% năm 2010; riêng vào khách sạn, nhà hàng
cũng tương tự từ: 4,2% năm 2006 lên 9,2% năm 2007 và 15,1% năm 2008.
- Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa vào các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu kinh tế, nhưng mới phát triển về số lượng, chưa chú trọng
đến chất lượng, nảy sinh nhiều bất cập về mặt xã hội và gây ô nhiễm môi
trường.
Tính đến cuối tháng 6 năm 2008, cả nước có 186 khu công nghiệp (KCN),
khu chế xuất (KCX), với tổng diện tích đạt trên 45 nghìn ha; trong đó, đã có
110 KCN đi vào hoạt động, 76 KCN đang trong giai đoạn đền bù, giả phóng
mặt bằng và XDCB. Các KCN thu hút 3290 dự án FDI với tổng vốn 33,2 tỉ

USD, và 3.093 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn trên 195 nhìn tỉ đồng.
Trong đó, số vốn thực hiện gần 14,5 tỉ USD với 2.300 dự án FDI, và 110
nghìn tỉ đồng với 2.100 dự án trong nước, thu hút khoảng 1,06 triệu lao động
12
trực tiếp. Giá trị SXCN của các doanh nghiệp trong các KCN tăng khoảng 17
– 18%/năm trong 5 năm qua. Tuy nhiên, đến nay, các KCN, KCX, KKT chưa
bảo đảm tính bền vững và phát triển lâu dài; đền bù, giải phóng mặt bằng đang
trở thành khâu “nóng” đáng báo động, là lực cản lớn đối với tiến độ triển khai
xây dựng và khả năng thu hút đầu tư vào các khu vực này; vấn đề môi trường,
nguồn nhân lực đang đặt ra rất gay gắt v.v…
Theo số liệu quan trắc môi trường, tổng lượng rác thải một ngày đêm của
cả nước ước tính đã tăng từ 25 nghìn tấn năm 1999 lên trên 30 nghìn tấn năm
2005, riêng KCN chiếm khoảng 20%. Ước tính lượng nước thải công nghiệp
trong các KCN khoảng 700.000m
3
/ngày đêm, sau khi được xử lý cục bộ
thường được thải ra các sông, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước, đất
và ảnh hưởng trực tiếp tới dân cư xung quanh. Khí thải do các cơ sở sản xuất
thải ra nhiều chất độc hại thường được xả trực tiếp ra môi trường, đã gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của nhân dân xung quanh; và rất khó kiểm
soát.
- Tăng trưởng dựa vào ba vùng kinh tế trọng điểm với các cực tăng trưởng
phân bố đều ở ba miền, có ý nghĩa đối với cả nước và liên kết trong khu vực,
đã thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, nó cũng tạo sự tập trung
nguồn lực cao ở các vùng này, làm cho khoảng cách giữa các tiểu vùng khó
thu hẹp (hiện chỉ số HPI ở khu vực miền núi phía Bắc cao gấp 2 lần ở vùng
ĐBSH, ở khu vực ĐBSCL cao gấp 2 lần vùng Đông Nam Bộ).
- Tăng trưởng dựa vào khu vực kinh tế Nhà nước, lấy doanh nghiệp Nhà
nước làm “điểm tựa” ngày càng bộc lộ những bất cập giữa sử dụng, phân bổ
nguồn lực và hiệu quả kinh tế xã hội. Trong khi doanh thu của các doanh

nghiệp FDI tăng trung bình khoảng 30%/năm, GTSXCN tăng trung bình
khoảng 34%/năm, thì khu vực kinh tế Nhà nước chỉ đạt khoảng 16%/năm
(theo giá hiện hành). Trong năm 2005, tỉ lệ vốn/lao động của các DNNN cao
hơn 40% so với khu vực dân doanh; so với khu vực vốn FDI, mức vốn trung
13
bình/1 lao động của khu vực DNNN cao hơn khoảng 70%, thế nhưng doanh số
bình quân 1 lao động lại ngang nhau. Thêm vào đó, lao động tại các DNNN có
trình độ kỹ năng cao hơn so với lao động ở khu vực dân doanh. Như thế, mặc
dù có lợi thế hơn hẳn về vốn và kỹ năng lao động, nhưng các DNNN không
biến được lợi thế này thành sự vượt trội về năng suất. Nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng kém hiệu quả này là các DNNN thường được hưởng lợi thế độc
quyền, sức ép cạnh tranh tại thị trường không cao như các khu vực kinh tế
khác nên kém năng động và nỗ lực vương lên, và hệ thống khuyến khích yếu.
- Một số yếu tố nền tảng cho phát triển và tăng trưởng trong dài hạn chậm
được cải thiện:
+ Về mặt thể chế kinh tế:Các chính sách kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế
thị trường và trong điều kiện HNQT đang có những thách thức phải điều
chỉnh để đạt được và duy trì cân bằng kinh tế đối nội (nền kinh tế đạt được tốc
độ tăng trưởng ổn định không tạo ra lạm phát quá mức), đạt được và duy trì
cân bằng kinh tế đối ngoại (thâm hụt cán cân vãng lai có thể được bù đắp dễ
dàng), duy trì được sự ổn định về tình hình tài chính (hệ thống tài chính đảm
nhận tốt vai trò trung gian dẫn vốn mà không tạo ra nguy cơ gây mất ổn định),
tạo lập được thể chế tài chính và kinh tế vĩ mô mạnh và chắc chắn…
+ Hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng
kịp yêu cầu quản lý, điều tiết nền kinh tế - xã hội trong bối cảnh có nhiều biến
động của tình hình trong nước và quốc tế khi nước ta HNQT ngày càng sâu
rộng. Một nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (2007) đã đánh giá chất lượng
quản trị quốc gia của Chính phủ 212 nước và vùng lãnh thổ, trên 6 tiêu chí:
hiệu năng của Chính phủ, chất lượng chính sách và hoạt động điều tiết, thượng
tôn pháp luật, tham nhũng, tiếng nói và giải trình trách nhiệm, ổn định chính

14
trị. Ngoại trừ tiêu chí về ổn định chính trị, điểm của Việt Nam về 5 tiêu chí
còn lại đều thấp hơn so với các nước Đông Á và ASEAN (trừ Indonexia)
7
.
+ Các yếu tố nền tảng của tăng trưởng kinh tế dựa vào hiệu quả và sáng
tạo của năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được tạo lập ảnh hưởng đến tính
dài hạn của sự phát triển. Đó là chất lượng giáo dục và đào tạo đại học chậm
được nâng lên, thị trường khoa học công nghệ chậm hình thành và phát triển,
hiệu quả thị trường lao động và thị trường hàng hóa chưa cao, độ sâu của thị
trường tiền tệ và trình độ phát triển cao của thị trường tài chính chậm được
nâng lên. Mặt khác, mức độ sẵn sàng về mặt công nghệ chưa cao, trình độ
quản lý doanh nghiệp tiên tiến và khả năng sáng tạo chậm được nâng cao. Hơn
nữa, năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại bị xói mòn bởi sự yếu kém về chất
lượng của cơ sở hạ tầng, của nguồn nhân lực chất lượng thấp và cả thể chế
kinh tế - xã hội còn một số bất cập.
- Các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tuy chưa chi phối nhiều thị trường
thị trường nội địa Việt Nam nhưng đã tác động mạnh đến thị trường đầu vào
và thị trường đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam ở cả trong và ngoài nước.
Sự chi phối của các TNCs dối với các luồng trao đổi hàng hóa và luồng vốn
trên toàn cầu, cùng với sự phát triển các chuối giá trị toàn cầu dưới sự lãnh đạo
của các TNCs hàng đầu thế giới không ngoài mục đích: “khóa thị trường thế
giới” thông qua sự phát triển của các công ty mẹ. Đồng thời, các TNCs cũng
tăng cường hợp nhất hoặc liên minh chiến lược để phát triển mạng lưới sản
xuất phân phối toàn cầu nhằm chi phối thị trường thế giới. Trong bối cảnh đó,
“độ mở” của nền kinh tế nước ta theo kênh ngọai thương và kênh FDI càng
lớn thì mức độ lệ thuộc và bị chi phối của các TNCs càng lớn, nguy cơ bị rủi
ro và tổn thương càng cao.



7
Nguồn: “Tầm quan trọng của quản trị quốc gia VI: các chỉ số thành phần và tổng hợp về quản trị quốc gia
1996 – 2006”, tư liệu nghiên cứu số 4280 của nhóm nghiên cứu Ngân hàng thế giới, tháng 7/2007.
15
2. Một số hạn chế, yếu kém trong mô hình tăng trưởng xuất nhập
khẩu hiện nay
- Tăng trưởng xuất khẩu đang chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử
dụng lao động rẻ, các ngành sử dụng nhiều vốn, giá trị gia tăng thấp, gây ô
nhiễm môi trường và tiêu hao nhiều năng lượng, nguyên nhiên liệu cho một
đơn vị sản phẩm xuất khẩu. Đến năm 2010, nhóm hàng khoáng sản thô vẫn
chiếm 9,3% kim ngạch xuất khẩu, nhóm hàng nông lâm, thủy sản vẫn chiếm
22,5% kim ngạch xuất khẩu mà chủ yếu là sản phẩm thô và sơ chế. Nhóm sản
phẩm của các ngành công nghiệp gia công lắp ráp sử dụng nhiều lao động và
nhóm sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn với công nghệ trung – thấp
(dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu dùng, sản
phẩm cơ khí, điện, và hàng thủ công mỹ nghệ) đến năm 2010 vẫn chiếm
khoảng 39% kim ngạch xuất khẩu (37,5 tỉ USD), giá trị gia tăng thấp, phụ
thuộc nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu.
- Tăng trưởng xuất khẩu phụ thuộc ngày càng nhiều vào nhập khẩu, tính
chủ động thấp, dễ bị tổn thương trước các biến động của thị trường thế giới. Tỉ
lệ kim ngạch xuất khẩu so với GDP có xu hướng ngày càng tăng, đến năm
2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 71 tỉ USD và bằng khoảng 66% GDP nhưng tỉ
lệ giá trị trong nước rất thấp. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành
sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 – 30% kim ngạch
xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử - tin học chỉ khoảng 5%, dệt may
và giày dép chỉ khoảng 20%
- Tăng trưởng nhập khẩu cao hơn xuất khẩu, tỉ trọng của nhóm hàng thô và
sơ chế vẫn chiếm 25 – 26%; trong khi tỉ trọng của nhóm hàng máy móc thiết
bị và công nghệ không có xu hướng tăng mà ngược lại đã giảm mạnh từ
khoảng 30% trong năm 2000 xuống 16 – 18% trong giai đoạn 2007 – 2010.



16
3. Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010, rút ra các
bài học chủ yếu sau:
Một là, coi trọng sự đồng bộ, thống nhất giữa các Chiến lược phát triển,
đặc biệt là giữa Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu với Chiến lược hội nhập
các FTA; chú trọng mối quan hệ giữa tăng trưởng xuất nhập khẩu với chu kỳ
kinh tế.
Hai là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng
trưởng xuất nhập khẩu, giữa xuất và nhập khẩu để tạo lập cán cân thương mại
phù hợp với trình độ phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Ba là, chú trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển
xuất nhập khẩu, giải quyết tốt tương quan giữa phát triển xuất nhập khẩu với
các yếu tố kinh tế vĩ mô như đầu tư, tích lũy, tiêu dùng, tỉ giá hối đoái, dự trữ
ngoại tệ, lạm phát… nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường
trong nước thuận lợi cho phát triển xuất nhập khẩu
Bốn là, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để tận dụng
hiệu quả những ưu đãi, những cơ hội mà hội nhập quốc tế mở ra để phát triển
xuất nhập khẩu, đưa lại lợi ích tối đa cho dân tộc. đồng thời, hạn chế được
những tác động bất lợi của hội nhập quốc tế đối với xuất nhập khẩu.
II. DỰ BÁO BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC
ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ
TỚI 2020
1. Bối cảnh quốc tế
Trong thời kỳ tới, nước ta phát triển xuất nhập khẩu trong bối cảnh quốc
tế có những thuận lợi nhất định, nhưng cũng đan xen những khó khăn, thách
thức rất lớn.

17
Trên thế giới, bên cạnh xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác cùng có lợi
tiếp tục chiếm ưu thế là là tiền đề để phát triển xuất nhập khẩu của quốc gia
thì nguy cơ xảy ra chiến tranh năng lượng, chạy đua hạt nhân, các xung đột
sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, tranh giành về tài nguyên, khủng bố quốc tế… có
thể gia tăng. Biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường trở thành thách thức
ngày càng lớn. Toàn cầu hóa tiếp tục phát triển về qui mô, mức độ và hình
thức biểu hiện. Các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia có vai trò ngày càng lớn.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy toái kinh tế toàn cầu vừa qua, các nước
đang đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng gắn chặt phát triển kinh tế
tri thức với phát triển “kinh tế xanh”, chú trọng chất lượng tăng trưởng và phát
triển bền vững. Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy, các rào cản thương mại mới
ngày càng tinh vi, thương mại dịch vụ sẽ được chú trọng phát triển hơn thương
mại hàng hóa. Tương quan sức mạnh của các nền kinh tế và cục diện phát triển
toàn cầu thay đổi nhanh với sự xuất hiện của các liên kết mới, độ rủi ro và bất
định của nền kinh tế thế giới còn rất lớn. Cấu hình của nền kinh tế và thương
mại thế giới đang khác trước, sự phát triển của các chuỗi giá trị toàn cầu đang
làm cho quan hệ trao đổi thương mại quốc tế ngày càng khác với truyền
thống. Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh rất nhanh, thế lực ảnh hưởng ngày
càng lớn, đang sử dụng công cụ tiền tệ để gia tăng áp lực đối với các nền kinh
tế khác… sẽ tác động mạnh đến kinh tế và thương mại toàn cầu. Tình hình đó
sẽ làm tăng áp lực về nhiều mặt đối với Việt Nam về kinh tế, thương mại, chủ
quyền ở Biển Đông, an ninh quốc gia, an toàn sức khỏe…
Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động, hình
thành nhiều hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn, hội nhập khu vực sâu hơn.
Các nước ASEAN đang nỗ lực thúc đẩy liên kết nội khối để hoàn thành xây
dựng cộng đồng kinh tế (ACE) vào năm 2015, tiến tới xây dựng Cộng đồng
chung theo Hiến chương ASEAN. Mặt khác, ASEAN đang nỗ lực đóng vai trò
chủ động tăng cường liên kết khu vực Đông Á mở rộng. Đang định hình cấu
trúc liên kết mới tại khu vực, với vai trò trung tâm của ASEAN. Cục diện liên

18
kết quốc tế mới tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang hình thành, với
phạm vi và hình thức đa dạng: TPP, FTA Đông Á, FTA Đông Á mở rộng,
AEFTA… phản ánh động thái và mức độ tranh giành ảnh hưởng, tranh giành
thị trường của các nước lớn tại khu vực này sẽ ngày càng quyết liệt trong thời
kỳ tới. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với nước ta trong phát triển
xuất nhập khẩu thời kỳ tới.
Kinh tế thế giới sau kỳ suy thoái hiện nay
8
, sẽ phục hồi và bước vào kỳ
tăng trưởng mới sau năm 2012, có thể sẽ đạt mức tăng trưởng cao nhất trong
các năm 2016 – 2017 để chuyển sang kỳ suy thoái mới vào những năm tiếp
theo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới bình quân năm của giai đoạn 2011 –
2015 rất có thể sẽ thấp hơn giai đoạn 2016 – 2020. Các nền kinh tế mới nổi,
các nền kinh tế ASEAN và Châu Á nói chung sẽ phục hồi nhanh hơn, bước
vào thời kỳ tăng trưởng sớm hơn các khu vực khác. Nền kinh tế Hoa Kỳ chỉ có
thể phục hồi rõ nét từ năm 2012 để bước vào thời kỳ tăng trưởng mới, nhưng
tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng mức trung bình của thế giới. Các nền
kinh tế EU và Nhật Bản sẽ phục hồi rất chậm, tốc độ tăng trưởng GDP trong
kỳ tăng trưởng sẽ thấp hơn rất nhiều khu vực khác. Khu vực động lực của tăng
trưởng kinh tế thế giới thời kỳ đến năm 2020 sẽ là các nền kinh tế mới nổi
Châu Á và ASEAN, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ.
Thị trường hàng hóa thế giới đang có dấu hiệu tăng giá trở lại, rất có thể
sẽ hình thành mặt bằng giá mới trong các năm 2012 – 2014. Giá cả hàng hóa
thế giới co nhiều khả năng sẽ tăng bình quân 2-3%/năm trong thời kỳ 2011 –
2020. Xu hướng phát triển “năng lượng sạch” và “tiêu dùng sạch” tiếp tục gia
tăng, sẽ tác động mạnh đến thương mại thế giới.
Tăng trưởng thương mại thế giới sẽ tiếp tục có quan hệ đồng biến với
tốc độ phục hồi và gắn liền với kỳ tăng trưởng của kinh tế thế giới, có thể sẽ


8
Do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái từ năm 2008, tụt
đáy trong năm 2009 (tăng trưởng -5,3%), vượt đáy trong năm 2010 (theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc về tình
hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010 thì tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2010 chỉ 2,4%. Theo IMF thì
tỉ lệ tăng trưởng dưới 2,5% thì được định nghĩa là suy thoái kinh tế thế giới.
19
đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các năm 2015 – 2017. Khu vực Châu Á
– Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực động lực chính của tăng trưởng thương
mại toàn cầu thời kỳ tới 2020 Vai trò động lực của Trung Quốc trong tăng
trưởng thương mại toàn cầu có thể sẽ giảm xuống tương đối trong thời kỳ tới,
do nước này sẽ phải giảm nhịp độ xuất khẩu để tăng nhịp độ nhập khẩu
nguyên nhiên vật liệu và đang điều chính Chiến lược thị trường hướng mạnh
vào khai thác thị trường Trung Quốc mở rộng (bao gồm cả Đài Loan, Hồng
Kông, Ma Cao). Hoa Kỳ đang nỗ lực tăng cường xuất khẩu hàng hóa để đạt
mục tiêu kỳ vọng đến năm 2015 tăng kim ngạch xuất khẩu gấp 2 lần năm
2010, đồng thời phải giảm nhịp độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
để giải quyết sự thâm hụt của cán cân vãng lai, sẽ là nhân tố quan trọng tác
động mạnh đến thương mại toàn cầu. Các nước Đông Bắc Á và LB Nga tiếp
tục thực hiện chính sách hướng Nam mạnh mẽ, sẽ tác động mạnh đến dòng
hàng hóa trao đổi giữa khu vực này với ASEAN. EU sẽ chú trọng tăng cường
xuất khẩu dịch vụ, tăng cường trao đổi thương mại với các nước ASEAN và
Ấn Độ, là nhân tố quan trọng tác động đến cán cân thanh toán vãng lai của các
nước này.
Trung Quốc tiếp tục là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến thương mại khu
vực, nhất là khu vực ASEAN. Từ thành công trong cuộc điều chỉnh Chiến
lược thị trường lần thứ ba từ Tây sang Đông (sau khi Trung Quốc gia nhập
WTO) nhằm thu hút nguồn tài nguyên phong phú của các nước Phương Đông
cho tăng trưởng “nóng” và đảm bảo an ninh năng lượng
9
, hiện nay Trung

Quốc đang thực hiện cuộc điều chỉnh Chiến lược thị trường lần thứ tư, với
trọng tâm là hướng vào kích cầu tiêu dùng trong nước, phát triển thị trường
trong nước. Sau 30 năm cải cách và mở cửa (1978 – 2009), tăng trưởng kinh tế
của Trung Quốc chủ yếu do hai động lực chính là đầu tư và xuất siêu; trong

9
Theo thống kê của IMF tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Trung
Quốc đã tăng từ 55,5% trong năm 2001 lên 63,3% trong năm 2006 và 57,5% trong năm 2009; tỉ trọng của thị
trường Châu Phi tăng từ 2% lên 3,9% và 7,1% trong thời gian tương ứng.
20
thời kỳ tới, tăng trưởng kinh tế của nước này sẽ chủ yếu dựa vào yếu tố khoa
học kỹ thuật và tiêu dùng trong nước
10
.
2. Bối cảnh trong nước
Nước ta bước vào thời kỳ Chiến lược mới, tiếp tục đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế đa phương,
song phương sâu hơn để phát triển nhanh, bền vững, xây dựng nước ta trở
thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ Chiến
lược 2011 – 2020, tốc độ tăng trưởng GDP sẽ đạt mức bình quân 7 – 8%/năm.
GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng 2,2 lần so với năm 2010, tương đương
khoảng 220 tỉ USD. Mô hình tăng trưởng nền kinh tế sẽ được chuyển đổi từ
chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu, qui mô được mở rộng và chất lượng, hiệu quả sẽ được chú trọng
nâng cao. Cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch mạnh cùng với thực hiện tái cấu trúc
nền kinh tế, đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh Chiến lược thị
trường, tăng nhanh hàm lượng nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của
sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Thể chế kinh tế thị trường sẽ
được xây dựng đồng bộ và hiện đại để thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự cạnh

tranh bình đẳng, minh bạch giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế. Nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ được tập trung
phát triển nhanh cùng với hệ thống kết cấu hạ tầng sẽ được chú trọng phát
triển đồng bộ và hiện đại để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
Đến năm 2020, nước ta sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại, qui mô dân số khoảng 97,5 triệu người, GDP bình quân đầu

10
Theo thống kê của IMF thời kỳ 1978 – 2008, xuất khẩu của Trung Quốc tăng trưởng bình quân 16,7%/năm
nhập siêu tăng trưởng bình quân 12,5%/năm nhưng doanh thu bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng trong nước chỉ tăng
bình quân khoảng 9,5%/năm; so với GDP tỉ trọng của kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 4,7% lên 39,6%, của
kim ngạch nhập khẩu tăng từ 5,2% lên 31,4% nhưng của doanh thu bán lẻ và DVXH đã giảm từ 42,7% xuống
39,3%. Tỉ lệ tiết kiệm so với CTDP tăng từ 26%/năm 1995 lên 43% trong năm 2004.
21
người theo giá thực tế đạt khoảng 3000 – 3200 USD, tỉ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP, giá trị sản phẩm công nghệ cao
chiếm khoảng 45% GDP và sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40%
GDP, yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng trên 35%.
Phát triển xuất nhập khẩu trong thời kỳ tới sẽ tiếp tục gặp phải những
khó khăn, thách thức từ ngay trong nước. Nhận thức và quan điểm Chiến lược
hướng mạnh về phát triển xuất khẩu hay hướng mạnh vào phát triển thị trường
trong nước còn có sự khác nhau, chưa thống nhất. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế còn thấp hơn so với nhiều nước
trong khu vực, khả năng giành lợi thế cạnh tranh theo qui mô kinh tế chưa cao.
Tác động của tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu đến thâm dụng tài
nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái còn cao. Thương mại dịch vụ, nhất
là xuất khẩu dịch vụ chưa thể phát triển nhanh trong ngắn và trung hạn. Mức
độ phụ thuộc vào thị trường thế giới của nền kinh tế còn nhiều, khả năng thích
ứng của nền kinh tế với những biến động của tình hình quốc tế còn hạn chế.

Các tập đoàn xuyên quốc gia sẽ gia tăng áp lực đối với sự độc lập tự chủ của
nền kinh tế. Công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistisc chưa thể phát triển nhanh
trong những năm trước mắt nên chi phí đầu vào và đầu ra của nền kinh tế sẽ
còn cao so với một số nước trong khu vực. Lợi thế cạnh tranh “động” của nền
kinh tế trong cạnh tranh toàn cầu thời kỳ tới tiếp tục phải vượt qua những trở
ngại về chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng quản trị quốc gia của Chính
phủ, về môi trường cạnh tranh quốc gia và một số vấn đề an sinh xã hội v.v…
Xuất khẩu hàng hóa thời kỳ tới tiếp tục dựa trên cơ sở tăng trưởng đầu
tư nhưng hiệu quả đầu tư chưa thể nâng lên nhanh, hệ số ICOR còn cao hơn
nhiều nước trong khu vực. Khu vực FDI vẫn là nhóm chủ thể chính đóng góp
vào tăng trưởng xuất khẩu, nhưng các nhà dầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục
chuyển hướng đầu tư từ các ngành công nghiệp chế biến định hướng xuất khẩu
sang các ngành công nghiệp khai thác và lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách
22
sạn, nhà hàng. Tỉ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu sẽ có
xu hướng giảm xuống.
Nhóm sản phẩm nông, lâm, thủy sản tiếp tục là nguồn hàng xuất khẩu
quan trọng nhưng sẽ phải đối mặt với nhiều rào cản thương mại mới ngày
càng tinh vi của các đối tác thương mại lớn như EU, Hoa Kỳ. Khả năng mở
rộng xuất khẩu nhóm hàng này sang các thị trường đã ký FTA như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ… cũng sẽ rất hạn chế do các nước này vẫn bảo hộ nông
nghiệp ở mức cao trong các FTA. Nhóm sản phẩm của các ngành kết hợp giữa
lao động thủ công với công nghệ trung bình như thủ công mỹ nghệ, thực phẩm
chế biến, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu dùng và sản phẩm cơ
khí – điện tuy có tỉ lệ thực thu xuất khẩu cao nhưng khó có thể tạo ra sự đột
phá của xuất khẩu Việt Nam trong giai đoạn tới. Nhóm sản phẩm công nghiệp
áp dụng công nghệ cao có vai trò chính yếu trong xuất khẩu của Việt Nam thời
kỳ tới nhưng chưa thể có sự đột phá mạnh do sức cạnh tranh chưa thể nâng lên
nhanh, còn hạn chế về tỉ lệ đầu tư cho R&D, về tỉ lệ đầu tư đổi mới máy móc
thiết bị.

Trong thời kỳ tới, nước ta sẽ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Mức độ tự do hóa thương mại ngày càng cao thì độ rủi ro và tổn thương sẽ
ngày càng lớn khi có biến động mạnh của thị trường thế giới. Bên cạnh những
thuận lợi đối với phát triển xuất khẩu, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức trong quản lý nhập khẩu, cân bằng cán cân thương mại,
nhất là từ năm 2012 chúng ta phải thực hiện cắt giảm thuế quan sâu hơn , tự do
hóa thương mại cao hơn theo các cam kết WTO và các cam kết FTA đã ký
kết. Với hiệu ứng của các FTA đã ký kết, trong 10 năm tới khu vực thị trường
ASEAN +6 sẽ vẫn chiếm tỉ trọng lớn (khoảng 55%) trong tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam. Đến năm 2020, về cơ bản chúng ta phải hoàn thành
lộ trình cắt giảm thuế, tự do hóa thương mại theo các FTA đã ký kết. Theo
cam kết, Việt Nam phải giảm mức thuế suất bình quân đơn giản cả Biểu thuế
23
trong AFTA từ mức 3,2% năm 2008 xuống 0,4% năm 2018, trong ACFTA
giảm từ 14,5% năm 2007 xuống 2,1% năm 2020, trong AKFTA giảm từ
17,53% năm 2007 xuống 4,59% năm 2021, trong AJCEP giảm từ 11,3% năm
2008 xuống 1,8% năm 2026, trong AANZFTA giảm từ 19,7% năm 2009
xuống 2,9% năm 2020 và trong AIFTA giảm từ 15,04% năm 2009 xuống
6,96% năm 2024.
Thực hiện cam kết gia nhập WTO, trong thời gian tới, chúng ta phải tiếp
tục giảm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, nhất là các ngành công nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu. Tỉ lệ bảo hộ thực tế của các ngành công nghiệp chế
biến chế tạo phải giảm từ mức 28% năm 2009 xuống 21,1% vảo năm 2015, tỉ
lệ bảo hộ thuế quan của những ngành này cũng phải giảm từ 13,7% năm 2009
xuống 10,6% vào năm 2015. Trong thời gian tương ứng, tỉ lệ bảo hộ thực tế
của các ngành khai khoáng giảm từ mức 4,43% xuống 0,29%, tỉ lệ bảo hộ thuế
quan giảm từ 3,83% xuống 0,17%.
Giai đoạn 2011 – 2015, nhiều khả năng chúng ta sẽ đạt được thỏa thuận
tham gia TPP, ký FTA với EU, ký FTA với Liên minh Hải quan Nga – Bêlarút
- Kazakhstan… Bên cạnh những thuận lợi do các FTA này mở ra đối với đẩy

mạnh xuất khẩu hàng hóa của ta sang các thị trường trọng điểm này, thì chúng
ta vẫn phải đối mặt với những thách thức rất lớn về cải cách kinh tế trong
nước, về mở cửa thị trường dịch vụ và cải thiện cán cân thanh toán vãng lai…
III. CÁC QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI
KỲ 2011 – 2020
1. Phát triển xuất nhập khẩu phù hợp với tính chu kỳ của nền kinh tế,
hợp lý giữa chiều rộng với chiều sâu, hài hòa lợi ích giữa các ngành
hướng về xuất khẩu với các ngành thay thế nhập khẩu
Trong giai đoạn 2011 – 2015, phải nỗ lực tăng xuất khẩu để tăng việc
làm và thu nhập. tăng thêm nhu cầu và kích thích sản xuất, góp phần phục hồi
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phải hạn chế tiêu dùng hàng ngoại trong đầu tư tiêu
24
dùng của dân cư để tiết kiệm ngoại tệ, hạn chế nhập khẩu, giảm nhập siêu, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế đã bước vào kỳ tăng trưởng cao
trong giai đoạn tiếp sau, cần tăng nhập khẩu tư liệu sản xuất để đáp ứng nhu
cầu tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng, tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Phát triển xuất khẩu cần đạt nhịp độ nhanh hơn nhập khẩu để tăng tỉ lệ
đóng góp của xuất khẩu trong tăng trưởng GDP, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nhưng phải bảo đảm sự hợp lý giữa qui mô và chất lượng tăng trưởng xuất
khẩu, coi trọng hiệu quả và phát triển bền vững. Phát triển nguồn sản phẩm
xuất khẩu cần có sự chọn lọc, khai thác được lợi thế so sánh, sử dụng hiệu quả
và tiết kiệm tài nguyên, giảm hệ số nguồn lực cho một đơn vị tăng trưởng xuất
khẩu.
Dành ưu tiên cao cho phát triển xuất khẩu “sản phẩm sạch”, sử dụng lao
động chất lượng cao, hàm lượng công nghệ cao. Các ngành sản phẩm thay thế
nhập khẩu tận dụng hiệu quả tài nguyên trong nước, tiết kiệm năng lượng, có
tỉ lệ nội điạ hóa cao, thân thiện với môi trường được khuyến khích phát triển
với qui mô hợp lý, được hưởng các ưu đãi không kém thuận lợi hơn các ngành
được ưu tiên phát triển xuất khẩu. Tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị và
công nghệ cao đáp ứng nhu cầu phát triển các nhóm ngành này để tăng năng

suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm; bảo đảm hài hòa
lợi ích giữa các ngành.
Cân đối lại các nguồn lực để đầu tư phát triển các ngành sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thị trường trong nước làm nền tảng, đầu tư phát triển các ngành
sản phẩm xuất khẩu làm động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu các ngành sản
xuất theo hướng hiệu quả, an toàn và bền vững. Các ngành sản phẩm có khả
năng thích ứng nhanh với những biến động của tình hình thị trường, có độ co
giãn về cung cao được khuyến khích phát triển. Các ngành thích ứng chậm với
những biến động đó cần hạn chế hoặc kiểm soát chặt chẽ qui mô phát triển.

×